Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Covid 19 dưới góc nhìn kinh tế chính trị quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------

BÀI TẬP LỚN
MƠN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ
Đề tài: COVID-19 DƯỚI GĨC NHÌN KINH TẾ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ

Giảng viên: TS. Nguyễn Thùy Anh
Th.s. Hoàng Ngọc Quang
Sinh viên : Khổng Thị Thu Hà
Mã sinh viên: 18050038
Mã lớp học phần: PEC3008 2

HÀ NỘI - 2020


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT..........................................................................1
DANH MỤC BẢNG BIỂU.................................................................................2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................3
II. PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................3
1. Tổng quan về đại dịch COVID-19......................................................... 3
2. Tác động của đại dịch COVID-19 đến nền kinh tế toàn cầu.............. 4
2.1. Đối với tăng trưởng kinh tế tồn cầu.............................................. 4
2.2. Khủng hoảng hàng khơng............................................................... 5
2.3. Du lịch - Lữ hành............................................................................ 6
2.4. Cú sốc việc làm............................................................................... 7
2.5. Sụt giảm thương mại toàn cầu........................................................ 9
2.6. Sản lượng sản xuất toàn cầu suy giảm..........................................10
2.7. Gián đoạn chuỗi cung ứng tồn cầu............................................. 11


3. Cuộc chiến chống COVID-19 dưới góc nhìn kinh tế chính trị......... 12
3.1. Về trách nhiệm chính trị của lãnh đạo các quốc gia.....................12
3.2. Về xây dựng thể chế tồn cầu đối phó dịch bệnh.........................14
3.3. Về chủ nghĩa đa phương và hợp tác giữa các nước..................... 15
3.4. Về xây dựng hình ảnh, vị thế quốc gia trên trường quốc tế.........16
4. Bài học kinh nghiệm..............................................................................17
III. KẾT LUẬN................................................................................................. 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 20


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
COVID-19

Tiếng Anh

Tiếng Việt

_

Bệnh viêm đường hô hấp cấp
do virus corona 2019

EU

European Union

Liên minh châu Âu

Free Market Commodity


Chỉ số giá cả hàng hóa trên

Price Index

thị trường tự do

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

GVC

Global Value Chain

Chuỗi giá trị toàn cầu

United Nations Conference

Diễn đàn Thương mại và Phát

on Trade and Development

triển Liên Hiệp quốc

World Health Organization

Tổ chức Y tế Thế giới


FMCPI

UNCTAD
WHO


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Bản đồ tình hình COVID-19 tồn cầu (tính đến ngày 21/05/2021)....... 3
Bảng 2. 10 nước có số ca dương tính với COVID-19 nhiều nhất trên thế giới (tính
đến ngày 21/05/2021)............................................................................................4
Bảng 3. Nhu cầu của hành khách (tính theo % tăng trưởng)............................... 5
Bảng 4. Doanh thu hành khách (theo khu vực).................................................... 5
Bảng 5. Lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng khơng trong tháng 3/2020
(nghìn tấn)............................................................................................................. 6
Bảng 6. Dự báo lượng khách du lịch quốc tế năm 2020 (triệu người)................ 7
Bảng 7. Ước tính sự suy giảm về số giờ làm việc tổng hợp (theo %)................. 8
Bảng 8. Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ giai đoạn 2017 - 2021....................................... 8
Bảng 9. Giá trị thương mại hàng hóa tồn cầu (theo tỷ lệ tăng trưởng so với quý
trước)..................................................................................................................... 9
Bảng 10. Sản lượng sản xuất của các khu vực từ tháng 1/2019 đến tháng 2/2020..
............................................................................................................................. 10
Bảng 11. Tốc độ tăng trưởng sản lượng sản xuất hàng tháng của các khu vực trên
thế giới.................................................................................................................10


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắt nguồn từ Vũ Hán (Trung Quốc) vào khoảng cuối năm 2019, đến nay, đại
dịch COVID-19 đã lây lan nhanh chóng tới hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
toàn thế giới. Đại dịch này vẫn đang càn quét khốc liệt, gây ra nhiều hậu quả tiêu

cực chưa từng có tiền lệ, làm thay đổi tồn diện đời sống xã hội toàn cầu và “đảo
ngược tiến độ phát triển của thế giới tới hàng chục năm”. Để đẩy lùi đại dịch, các
quốc gia trên thế giới đã có các biện pháp, chính sách, chiến lược khác nhau nhưng
tất cả đều chung một mục tiêu: giảm tác động của dịch bệnh, vượt qua khó khăn
thách thức, tận dụng thời cơ để sớm phục hồi, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cuộc chiến của các nước chống đại dịch
COVID-19 diễn ra trong suốt hơn một năm qua cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với đời
sống cá nhân, cộng đồng, quốc gia, quốc tế trên các phương diện kinh tế, xã hội,
chính trị và quan hệ quốc tế.

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Tổng quan về đại dịch COVID-19
Đại dịch COVID-19, còn được gọi là đại dịch coronavirus, là một đại dịch bệnh
truyền nhiễm với tác nhân là virus SARS-CoV-2, đang diễn ra trên phạm vi toàn
cầu. Khởi nguồn vào cuối tháng 12 năm 2019 với tâm dịch đầu tiên được ghi nhận
tại thành phố Vũ Hán thuộc miền Trung Trung Quốc
Ngày 11 tháng 3 năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ra tuyên bố gọi
"COVID-19" là "Đại dịch tồn cầu".
Tính đến ngày 21/05/2021, thế giới ghi nhận hơn 167 triệu ca mắc COVID-19
với hơn 147 triệu người khỏi bệnh và hơn 3,4 triệu trường hợp tử vong ở hơn 220
quốc gia và vùng lãnh thổ.
Bảng 1. Bản đồ tình hình COVID-19 tồn cầu (tính đến ngày 21/05/2021)

Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia [2]


Bảng 2. 10 nước có số ca dương tính với COVID-19 nhiều nhất trên thế giới
(tính đến ngày 21/05/2021)

Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia [2]

2. Tác động của đại dịch COVID-19 đến nền kinh tế toàn cầu
2.1. Đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu
Đầu năm 2020, giới chuyên gia từng lạc quan đưa ra dự báo về triển vọng kinh
tế thế giới. Tuy nhiên, tất cả đã thay đổi khi đại dịch COVID-19 xuất hiện. Sức tàn
phá ghê gớm của dịch COVID -19 là địn giáng “chí mạng” vào nền kinh tế thế giới.
Đại dịch trở thành “sát thủ vơ hình” đẩy nền kinh tế tồn cầu vốn đang trong giai
đoạn phục hồi sa lầy vào đợt suy thoái tồi tệ nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Chưa bao giờ mọi hoạt động kinh tế - xã hội từ công nghiệp, giao thông vận tải đến
các lĩnh vực dịch vụ, vui chơi giải trí... kéo theo lực lượng lao động ước tính hơn 3
tỷ người đồng loạt bị ảnh hưởng. Kinh tế thế giới bỗng chốc “bốc hơi” hàng nghìn
tỷ USD, kéo theo khơng ít thành quả gây dựng trong nhiều năm qua bị tiêu tan.
Cụ thể, mức sụt giảm GDP của nền kinh tế số một thế giới - Mỹ trong quý
II/2020 là 32,9%. Trước đó, kinh tế Mỹ đã giảm 5% trong 3 tháng đầu năm 2020 và
chính thức rơi vào suy thối do đại dịch COVID-19, chấm dứt chuỗi tăng trưởng
kéo dài liên tục hơn 10 năm - giai đoạn tăng trưởng dài nhất trong lịch sử Mỹ.
Tại châu Âu, tình hình cũng không kém phần ảm đạm khi trong quý II/2020,
kinh tế Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã bị tác động mạnh bởi cuộc
khủng hoảng COVID-19 với GDP giảm 12,1%, mức giảm mạnh nhất kể từ năm
1995, sau khi giảm 3,8% trong quý I/2020 do hoạt động kinh doanh đình trệ khi các
doanh nghiệp phải đóng cửa nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19.


Tại Trung Quốc, dịch bệnh đã được kiểm soát trong quý II/2020 song tác động
nghiêm trọng về kinh tế đã lộ rõ, dù nền kinh tế này được gọi là một ngoại lệ “may
mắn” với dự báo tốc độ tăng trưởng đang từ 6,9% trong năm 2019 rơi xuống còn
1%. GDP của Trung Quốc được dự báo sẽ chỉ tăng 1,3% trong quý II/2020, sau khi
ghi nhận mức giảm 6,8% trong quý I/2020, lần suy giảm tăng trưởng lần đầu tiên kể
từ năm 1992.
2.2. Khủng hoảng hàng không
Ngành hàng không gánh chịu hậu quả nặng nề của đại dịch COVID-19 hơn các

ngành cơng nghiệp khác bởi tính chất của nó là vận chuyển người và hàng hóa trên
tồn cầu cho mục đích du lịch, kinh doanh, thương mại.
Bảng 3. Nhu cầu của hành khách (tính theo % tăng trưởng)

Nguồn: [16]
Bảng 4. Doanh thu hành khách (theo khu vực)

Nguồn: [16]


Ngành hàng khơng trên tồn thế giới đã chuyển biến theo chiều hướng xấu đi
đáng kể với sự sụt giảm nhanh chóng và mạnh mẽ trong nhu cầu đi lại do các quy
định về xuất nhập cảnh cũng như các hạn chế đi lại nghiêm ngặt. Khoảng 90% đội
ngũ phi công, tiếp viên hàng không được tiếp đất và nhu cầu đi lại gần như bằng
không đã đánh dấu mức giảm tồi tệ nhất trong lịch sử, vượt xa so với đại dịch
SARS năm 2002. Bên cạnh nhu cầu đi lại thì lượng hàng hóa vận chuyển bằng
đường hàng khơng cũng giảm mạnh.
Bảng 5. Lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng khơng trong tháng
3/2020 (nghìn tấn)

Nguồn: [16]
Ước tính trong tháng 3 năm 2020, lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng
khơng của thế giới sụt giảm 792 nghìn tấn, trong đó khu vực châu Á - Thái Bình
Dương chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi sụt giảm 523 nghìn tấn. Tình trạng này gây
ra áp lực tài chính nặng nề lên tất cả các lĩnh vực liên quan đến hàng không. Chỉ
trong tháng 3/2020, các hãng hàng không ước tính lỗ 28 tỷ USD doanh thu, các
cảng hàng khơng, sân bay ước tính lỗ khoảng 8 tỷ USD và các doanh nghiệp cung
cấp GPS vận tải lỗ khoảng 824 triệu USD.
2.3. Về du lịch - lữ hành
Du lịch - Lữ hành là lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi các nước thực

hiện các biện pháp đóng cửa biên giới, hạn chế đi lại và các biện pháp phong tỏa.
Tổ chức Du lịch Thế giới ước tính lượng khách du lịch quốc tế sẽ giảm 60-80%
trong năm 2020.


Bảng 6. Dự báo lượng khách du lịch quốc tế năm 2020 (triệu người)

Nguồn: [16]
Sau khi trải qua quá trình tăng trưởng ấn tượng từ năm 2000, đại dịch
COVID-19 đã “giáng đòn mạnh” lên hoạt động du lịch thế giới - vốn đóng góp tới
3,2% GDP tồn cầu trong năm 2018. Nếu tính cả các ngành cơng nghiệp thứ cấp
liên quan, con số đó có thể lên tới 10,4% GDP toàn cầu vào cùng giai đoạn. Chỉ
riêng ngành du lịch của Liên minh châu Âu (EU) đã ước tính sẽ mất khoảng 1 tỷ
euro (1,1 tỷ USD) doanh thu mỗi tháng do dịch COVID-19.
2.4. Cú sốc việc làm
Việc các doanh nghiệp ngừng hoạt động do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19
có tác động ngay lập tức và sâu rộng tới việc làm.
Để đối phó với tình trạng gia tăng nhanh chóng về các ca dương tính với
COVID-19, nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện phong tỏa, hạn chế đi lại, giãn
cách xã hội, tạm thời đóng cửa các doanh nghiệp, trường học. Các biện pháp này là
cần thiết nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh nhưng nó cũng có tác động đột
ngột và mạnh mẽ đến người lao động và các doanh nghiệp.


Bảng 7. Ước tính sự suy giảm về số giờ làm việc tổng hợp (theo %)

Nguồn: [16]
Trong quý 2 năm 2020, tổng số giờ làm việc của người lao động trên khắp thế
giới giảm 10,5%, tương đương với 305 triệu cơng nhân làm việc tồn thời gian,
trung bình làm việc 48 giờ/1 tuần. Đây là cuộc khủng hoảng việc làm tồi tệ nhất

trong lịch sử kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Con số này cũng vượt
xa so với cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008 - 2009. Hậu quả của tình
trạng này là hàng triệu người lao động sẽ phải rơi vào tình trạng thất nghiệp, thiếu
việc làm, giảm giờ làm, tiền lương, và rớt xuống dưới chuẩn nghèo.
Ở Mỹ, thất nghiệp đang trở thành vấn đề được quan tâm bậc nhất.
Bảng 8. Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ giai đoạn 2017 - 2021 (%)

Nguồn: Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ [13]
Theo số liệu thu thập của Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ, tỷ lệ thất nghiệp của
Hoa Kỳ từ năm 2017 đến quý I năm 2020 luôn dao động trong khoảng 3,5 - 4,7%.
Tuy nhiên, sang quý II năm 2020, do chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch


COVID-19, tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ tăng vọt lên tới 14,8% - cao nhất kể từ
cuộc Đại suy thoái. Đến tháng 4 năm 2021, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp đã thấp hơn
đáng kể, nhưng vẫn còn xa mức trước đại dịch.
2.5. Sụt giảm thương mại toàn cầu
Các dự báo thương mại của UNCTAD và chỉ số giá cả hàng hóa trên thị trường
tự do cho thấy giá trị thương mại toàn cầu và giá cả đã bị ảnh hưởng tiêu cực kể từ
quý đầu tiên của năm 2020 bởi sự bùng phát COVID-19.
Bảng 9. Giá trị thương mại hàng hóa tồn cầu (theo tỷ lệ tăng trưởng so với quý
trước)

Nguồn: [16]
Giá trị thương mại toàn cầu có dấu hiệu suy giảm từ cuối năm 2019 khi nền
kinh tế toàn cầu bắt đầu chịu ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. UNCTAD dự báo
giá trị thương mại toàn cầu giảm 3% trong quý I/2020. Nhưng đến quý II/2020, khi
mà đại dịch bùng phát mạnh mẽ hơn trước, mức giảm theo quý của giá trị thương
mại ước tính đạt mốc 26,9%. Điều này phản ánh xu hướng ngày càng xấu đi của giá
trị thương mại tồn cầu nói riêng cũng như nền kinh tế trên tồn thế giới nói chung.

Về chỉ số giá cả hàng hóa trên thị trường tự do (FMCPI) đã giảm 1,2% trong
tháng 1/2020, 8,5% trong tháng 2 và 20,4% trong tháng 3. Nhiên liệu là nguyên
nhân chính gây ra sự suy giảm này khi ghi nhận mức giảm 33,2% trong tháng 3,
trong khi đó khống sản, thực phẩm, nông sản giảm chưa đến 4%. Trong lịch sử của
FMCPI, chưa có một tháng nào mức giảm vượt quá 20%, kể cả trong cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, mức giảm tối đa hàng tháng chỉ đạt 18,6%.


2.6. Sản lượng sản xuất toàn cầu suy giảm
Tăng trưởng sản xuất toàn cầu vốn đã giảm tốc vào năm 2019 do căng thẳng
của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung dự kiến sẽ tiếp tục suy giảm do những
gián đoạn kinh tế gây ra bởi COVID-19.
Bảng 10. Sản lượng sản xuất của các khu vực từ tháng 1/2019 đến tháng 2/2020

Nguồn: [16]
Bảng 11. Tốc độ tăng trưởng sản lượng sản xuất hàng tháng của các khu vực
trên thế giới (%)

Nguồn: [16]


Trong suốt năm 2019, ngành sản xuất thế giới đã trải qua sự sụt giảm liên tục
trong tăng trưởng sản xuất, đặc biệt là các nước có nền cơng nghiệp phát triển.
Trong hai tháng đầu năm 2020, Trung Quốc cho thấy tăng trưởng sản lượng giảm
mạnh, khoảng 21%/1 tháng. Nguyên nhân được cho là do việc bắt đầu phong tỏa
Vũ Hán và các khu vực khác để kiểm soát dịch bệnh. Tổng sản lượng sản xuất của
thế giới cũng cho thấy sự sụt giảm mạnh gây ra chủ yếu do thị phần lớn của Trung
Quốc trong sản xuất toàn cầu. Đối với các khu vực phát triển khác như Bắc Mỹ,
châu Âu, Đông Á, sản lượng sản xuất chưa bị tác động nhiều bởi hầu hết các quốc
gia này bắt đầu hạn chế các hoạt động kinh tế từ tháng 3.

Đặc biệt, ngành sản xuất ơ tơ có thể xem là ngành hứng chịu hậu quả nặng nề về
sản lượng sản xuất. Hàng loạt các nhà máy phải tạm ngừng hoạt động để hạn chế
nguy cơ lây lan dịch bệnh. Theo ước tính của cơng ty nghiên cứu thị trường IHS
Markit, chỉ riêng tại châu Âu các nhà máy ô tơ tạm thời đóng cửa bình qn khoảng
13 ngày sẽ khiến sản lượng sản xuất ô tô ở “lục địa già” giảm hơn 880.000 xe. Tại
Bắc Mỹ, sản lượng sản xuất dự kiến giảm 478.000 xe khi các nhà máy tạm ngừng
hoạt động trong khoảng 6 ngày. Trong khi đó, với thơng tin đóng cửa lên đến nửa
tháng của các nhà máy xe ô tô ở Brazil và Argentina, sản lượng xe ô tô tại hai quốc
gia Nam Mỹ này sẽ giảm khoảng 80.000 xe. Trước đó, tại Trung Quốc - một trong
số “công xưởng” sản xuất, tiêu thụ xe ô tô lớn nhất thế giới, việc dịch bệnh
COVID-19 bùng phát đã khiến một loạt các nhà máy sản xuất ô tô tạm dừng hoạt
động ít nhất từ 7 - 15 ngày sẽ khiến sản lượng sản xuất ô tô tại Trung Quốc giảm
350.000 xe trong quý I/2020. Dựa trên những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19
đang hoành hành và ảnh hưởng đến ngành ô tô, công ty nghiên cứu thị trường IHS
Markit dự báo, sản lượng ơ tơ tồn cầu năm 2020 sẽ giảm khoảng 1,44 triệu xe.
2.7. Gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu
Đại dịch COVID-19 đã gây ra sự gián đoạn chưa từng có của chuỗi cung ứng
toàn cầu. Mạng lưới sản xuất toàn cầu đang bị đứt gãy trên quy mô lớn nhất từ trước
tới nay. Một mặt, việc giảm đột ngột sự dịch chuyển vốn, hàng hóa, nhân lực và
dịch vụ đều góp phần vào làm đứt gãy các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC). Mặt khác,
Trung Quốc, cùng với Nhật Bản, Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu - trung tâm cốt lõi
của mạng lưới sản xuất toàn cầu - đều bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch, đặc
biệt là Trung Quốc. Bản đồ chuỗi cung ứng cho thấy 1.000 công ty hay nhà cung
ứng lớn nhất trên thế giới sở hữu hơn 12.000 cơ sở (nhà máy, nhà kho và các hoạt
động khác) tại các khu vực phải cách ly do COVID-19, hầu hết ở Trung Quốc. Mức


tập trung cao về chuỗi cung ứng này giải thích cho mức độ nghiêm trọng của sự đứt
gãy của chuỗi cung ứng tồn cầu.
Tình trạng thiếu ngun vật liệu, thành phẩm tại các khu vực bị ảnh hưởng

khiến thiếu hụt nguồn cung, gián đoạn chuỗi cung ứng nặng nề. Cụ thể, ngành công
nghiệp ô tô đã chịu thiệt hại nặng nề do thiếu phụ tùng, do nhiều bộ phận được sản
xuất tại Vũ Hán, một trong những trung tâm sản xuất phụ tùng ô tô lớn của thế giới.
Nhiều nhà sản xuất ơ tơ trên thế giới đang có nhà máy sản xuất đặt ở Trung Quốc
hiện đang phải rơi vào cảnh lao đao như Ford, Tesla, PSA Group, Honda, Nissan,..
do tạm ngừng sản xuất.
Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng có những phát biểu về tình trạng thiếu hụt
nguồn cung chip bán dẫn ở Mỹ: “Gần đây chúng ta đã chứng kiến tình trạng thiếu
hụt chip máy tính... Tình trạng này dẫn đến sự chậm trễ trong ngành sản xuất xe ô tô,
hậu quả là công nhân Mỹ bị giảm giờ làm việc”. Phát ngôn của ông Joe Biden cho
thấy tình trạng ùn tắc nguồn cung bộ vi xử lý gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công
nghiệp Mỹ. Các doanh nghiệp, nhà máy đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt chất
bán dẫn trầm trọng gây ra trì hỗn trong sản xuất, vận chuyển hàng hóa và đe dọa
nguy cơ tăng giá cho các mặt hàng. Các nhà sản xuất ô tô đã phải cắt giảm số lượng
đơn đặt hàng trong khi các công ty công nghệ gần như tê liệt do khơng có chip.
Ford Motor gần đây cho biết tình trạng thiếu hụt bộ vi xử lý có thể làm giảm 20%
hoạt động sản xuất của công ty trong q đầu năm. Trong khi đó General Motors
thơng báo buộc phải cắt giảm sản lượng ở các nhà máy tại Mỹ, Canada và Mexico
và sẽ đánh giá lại kế hoạch sản xuất vào giữa tháng 3/2021.
3. Cuộc chiến chống COVID-19 dưới góc nhìn kinh tế chính trị
3.1. Về trách nhiệm chính trị của lãnh đạo các quốc gia
Có một thực tế đáng lo ngại là khi đại dịch COVID-19 bùng phát thì phần lớn
các nước rơi vào tình trạng bị động, lúng túng. Từ đó đặt ra câu hỏi lớn về trách
nhiệm chính trị của lãnh đạo các quốc gia. Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) nhận xét: “Các quốc gia khơng có sự chuẩn bị trong ứng phó dịch bệnh”.
Hay ơng Arnaud Dajean - nhà lập pháp châu Âu cũng cho rằng: “Chúng ta không
được vũ trang đầy đủ để chống lại dịch COVID-19”.
Nguyên nhân của tình trạng bị động trên được cho là xuất phát từ các lý do
chính sau:



Sự chủ quan của lãnh đạo nhiều quốc gia. Ví dụ như Cựu Tổng thống Mỹ
Donald Trump đã có nhiều phát ngơn sai lầm liên quan đến dịch bệnh, điển hình


nhất là: “COVID-19 sẽ biến mất. Một ngày nào đó, giống như một phép màu,
đại dịch sẽ biến mất”.


Sự thiếu quyết đoán của một số nước khi cân nhắc giữa kinh tế và sức khỏe của
người dân. Trong đợt bùng dịch mạnh mẽ vào tháng 3 năm ngoái ở Italy, một
trong những nguyên nhân làm dịch COVID-19 lây lan nhanh chóng là do các
nhà cầm quyền thiếu quyết đốn trong việc ra quyết sách phòng dịch giai đoạn
đầu. Để tiếp tục duy trì các hoạt động kinh tế, chính phủ Italy vẫn do dự không
ban hành các biện pháp ngăn chặn kịp thời. Đơn cử như trong buổi họp báo
ngày 25/2, Thủ tướng Conte vẫn khuyến khích người dân đi du lịch đến các
thành phố ngoài vùng dịch và dỡ bỏ lệnh giới nghiêm đã áp đặt trước đó đối với
các quán bar ở Lombardy.



Nhiều quốc gia thiếu sự chuẩn bị các phương án, kịch bản, cơ sở hạ tầng trước
đại dịch,.... Cũng tại Italy, tuy chất lượng dịch vụ của hệ thống y tế nước này
tương đối cao nhưng lại rơi vào tình trạng thiếu vật tư y tế. Nguyên nhân được
cho là do chính phủ Italy cắt giảm chi tiêu, đặc biệt là chi tiêu cho ngành y tế để
giảm thiểu nợ công. Hậu quả là hệ thống y tế “vỡ trận”, thiếu vật tư, cơ sở hạ
tầng và nhân viên y tế khi số ca nhiễm tăng nhanh chóng mặt.
COVID-19 khơng phải là đại dịch đầu tiên trên thế giới, trước đó đã có các dịch

bệnh khác hoành hành như đại dịch hạch, cúm Tây Ban Nha, SARS 2002,

HIV/AIDS,... Vì thế, khi COVID-19 trở thành đại dịch toàn cầu, một câu hỏi lớn đã
được đặt ra xung quanh phản ứng của chính quyền các nước: “Nguyên nhân cơ bản
dẫn đến thảm họa COVID-19 có phải là do những yếu kém trong quản trị quốc gia
và quản trị tồn cầu khi ứng phó với dịch bệnh?”
Bên cạnh các quốc gia “vỡ trận” trong cuộc chiến chống COVID-19 thì vẫn có
những nước thành cơng trong việc kiểm sốt dịch bệnh. Từ đó có thể thấy:


Hiệu quả chống dịch khơng phụ thuộc vào tính chất thể chế chính trị. Vương
quốc Anh và NewZealand đều là những quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến,
nhưng hiệu quả chống dịch bệnh ở hai nước khác nhau hoàn toàn. Trong khi
NewZealand được đánh giá là quốc gia chống dịch hiệu quả nhất trên thế giới,
xếp thứ nhất trong Bảng xếp hạng Chỉ số Hiệu suất COVID do viện Lowy thực



hiện, thì Anh lại đứng ở gần cuối bảng xếp hạng ( thứ 66/ gần 100 quốc gia).
Hiệu quả chống dịch không quá phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế và hệ thống y tế
cộng đồng của các quốc gia. Các nước Mỹ, Anh, Italy dù là các cường quốc về
kinh tế và có hệ thống y tế cơng cộng mạnh nhưng hiệu quả chống dịch lại


không mấy khả quan. Ngược lại, Việt Nam - tuy là nước đang phát triển nhưng
lại rất thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh (xếp thứ 3 trong Bảng xếp
hạng Chỉ số Hiệu suất COVID).


Hiệu quả phòng, chống dịch bệnh trước hết phụ thuộc vào trách nhiệm chính trị
của các lãnh đạo quốc gia và hệ thống chính trị các nước. Theo Francis
Fukuyama - nghiên cứu viên cao cấp của Đại học Stanford: “Quốc gia nào có

guồng máy nhà nước vận hành tốt, một chính phủ mà người dân tin tưởng, lắng
nghe và lãnh đạo quốc gia có năng lực thì sẽ đối phó đại dịch rất hữu hiệu, giới
hạn được thiệt hại phải gánh chịu”.
Đại dịch COVID-19 là một hồi chng cảnh tỉnh về trách nhiệm chính trị lãnh

đạo các quốc gia và hệ thống chính trị các nước. Bởi suy cho cùng thì vai trị quan
trọng nhất của hệ thống chính trị và các lãnh đạo quốc gia là bảo vệ nhân dân khỏi
các tác nhân gây hại, bảo vệ cuộc sống của nhân dân.
3.2. Về xây dựng thể chế tồn cầu đối phó dịch bệnh
Ngay từ lúc đầu, khi COVID-19 được ban bố là “Đại dịch toàn cầu”, các nước
đã kỳ vọng rất nhiều vào Liên Hợp quốc, các tổ chức quốc tế, tiêu biểu là WHO sẽ
thể hiện vai trò lớn hơn trong việc ứng phó với đại dịch. Tuy nhiên, sau một loạt các
hành động của Liên Hợp quốc và WHO, cả thế giới đã tỏ ra thất vọng vì sự quản trị
tồn cầu đã không thể đem lại những kết quả như mong đợi.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là một cơ quan chun mơn của Liên Hợp quốc,
đóng vai trị thẩm quyền điều phối các vấn đề sức khỏe và y tế cộng đồng trên bình
diện quốc tế như cung cấp những thơng tin chính xác về sức khỏe con người, giải
quyết những vấn đề cấp bách về sức khỏe cộng đồng,... Đáng ra, thế giới có thể
trơng đợi nhiều hơn vào các hành động của WHO, nhưng ngược lại, WHO lại phải
đối mặt với hàng loạt chỉ trích, phê bình. Các cơ quan chính phủ, chuyên gia y tế và
các nhà phân tích khắp nơi trên thế giới đều quan ngại về cách tổ chức này ứng phó
với dịch bệnh. Thậm chí, khi virus corona xuất hiện trên 10 quốc gia và Trung Quốc
phải thực hiện lệnh phong tỏa một phần tỉnh Hồ Bắc cuối tháng 1/2020, WHO vẫn
do dự và phải đến 11/3/2020 mới chịu công bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu.
Những điều trên đã làm giảm sự uy tín của tổ chức này nói riêng cũng như của Liên
Hợp quốc - tổ chức đa phương lớn nhất tồn cầu.
COVID-19 là đại dịch mang tính tồn cầu, những khó khăn thách thức mà nó
đặt ra cũng mang tính tồn cầu. Do đó, cần phải có cách tiếp cận cũng như cơ chế
chống dịch ở tầm tồn cầu. Vì vậy, “chỉ có sự hợp tác quốc tế mới có thể ngăn chặn



tác động tồi tệ nhất của COVID-19, tất cả các nước cũng như các tổ chức quốc tế
phải làm việc cùng nhau nhằm chấm dứt đại dịch”.
3.3. Về chủ nghĩa đa phương và hợp tác giữa các nước
Bên cạnh các vấn đề trên, đại dịch COVID-19 cũng gợi ra mối hồi nghi rằng
chủ nghĩa đa phương có thực sự hữu ích khi thực tế cho thấy hầu như các quốc gia
trên thế giới đều khơng có sự hợp tác chung tay cùng chống dịch, kể cả là các quốc
gia thành viên thuộc cùng một tổ chức. Tiêu biểu như khi Italy khơng cịn khống
chế được dịch bệnh, quốc gia này đã liên tục kêu gọi sự viện trợ y tế từ các nước
thuộc khối Liên minh châu Âu nhưng đều không được hồi đáp.
Các tổ chức đa phương khác như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Tổ
chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO),... cũng mờ nhạt hoặc gần như là bất
lực khi đại dịch lây lan trên phạm vi toàn thế giới.
Thời gian gần đây, cuộc chạy đua sản xuất vaccine COVID-19 cũng tạo ra
những lo ngại trong dư luận khi nhiều nước cạnh tranh quyết liệt, đặt lợi ích quốc
gia lên trên hết trong việc đảm bảo nguồn cung vaccine khiến đại dịch tồi tệ hơn.
Hiện nay, tình trạng “chủ nghĩa dân tộc vaccine” trở nên đáng báo động, khi các
nước giàu có - chiếm 16% dân số toàn thế giới - đã mua tới 60% nguồn cung cấp
vaccine trên tồn cầu, có quốc gia thậm chí đã đặt mua số lượng nhiều hơn số dân
của mình. Canada mua cho 453,1% dân số, Anh mua 270,3%, Úc mua 225,1%, Mỹ
mua 182,8% dân số. Trong khi hầu hết các quốc gia nghèo, các quốc gia đang phát
triển đang “dài cổ” chờ được “phân phối” vaccine do liên minh COVAX phân bổ.
Trước tình trạng đó, Tổng Giám đốc WHO - ông Tedros Adhanom Ghebreyesus đã
phải kêu gọi chấm dứt “chủ nghĩa dân tộc vaccine”: “Chủ nghĩa dân tộc vắc-xin
không chỉ là sự thất bại thảm hại về mặt đạo đức. Nó cịn tự đánh bại về mặt dịch tễ
và phản tác dụng về mặt lâm sàng”, "Chúng ta không thể phân biệt và nhận ra một
kẻ thù chung hay sao? Chúng ta không thể hiểu rằng sự chia rẽ và rạn nứt giữa
chúng ta là lợi thế cho virus ư?". Điều này khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi lớn về
giá trị và tính hữu ích của các tổ chức khu vực và quốc tế, của chủ nghĩa đa phương
trước đại dịch toàn cầu.

Mặt khác, chủ nghĩa đa phương cũng bộc lộ rõ những khiếm khuyết khi chuỗi
cung ứng toàn cầu bị gián đoạn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Đại dịch
bùng phát, các quốc gia không khỏi bàng hồng bởi sự phụ thuộc q mức vào
“cơng xưởng sản xuất lớn nhất của thế giới” - Trung Quốc trong tiến trình tham gia
chủ nghĩa đa phương. Sự phụ thuộc vào một nguồn cung duy nhất như thế có nguy


cơ gây ra sự đổ vỡ cho cả chuỗi cung ứng trong trường hợp khẩn cấp quốc gia, khi
mà Trung Quốc “hắt hơi” do COVID-19 thì cả thế giới trở nên “khó thở”. Chính vì
vậy, điều này đã làm sâu sắc thêm sự nghi kỵ và làm giảm lòng tin giữa một số
nước với nhau. Có thể thấy rõ xu hướng này thông qua việc Mỹ, Anh, Pháp và một
số nước khác như Nhật Bản, Canada, Australia đã có những động thái định hình lại
quan hệ với Trung Quốc.
3.4. Về xây dựng hình ảnh, vị thế quốc gia trên trường quốc tế
Đại dịch COVID-19 chính là cơ hội thử thách cho những giá trị cốt lõi, cho
hình ảnh, vị thế của các quốc gia trên trường quốc tế, góp phần khẳng định những
giá trị chính trị đích thực của các nước, nhưng đồng thời nó cũng làm sáng tỏ những
giá trị ảo, những sai lầm trong quan điểm về dịch bệnh của một số lãnh đạo các
quốc gia.
Uy tín của quốc gia về phương diện chính trị đối nội và đối ngoại chính là tiêu
chí đầu tiên để đánh giá về hình ảnh, vị thế của nước đó trên trường quốc tế. Nếu
một quốc gia đại diện cho các giá trị mà những nước khác cũng hướng tới, cũng
mong muốn theo đuổi thì hình ảnh của quốc gia đó ngày càng được nâng cao và
ngược lại.
Cuộc chiến chống COVID-19 diễn ra hơn một năm nay đã bộc lộ rõ những
khuyết điểm của hệ thống chính trị thế giới. Thay vì bắt tay hợp tác với nhau vì mục
tiêu bảo vệ con người, bảo vệ sức khỏe tồn cầu thì các quốc gia lại hành động khá
ích kỷ, một số nước cố gắng tìm cách che giấu dịch bệnh, một số khác lại đặt lợi ích
quốc gia lên trên hết thơng qua xuất khẩu thiết bị, vật tư y tế để “kiếm chác” một
nguồn thu khổng lồ. Chính những hành động này, dù lớn hay nhỏ thì cũng làm suy

giảm uy tín chính trị của các quốc gia đó trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, trong
cuộc chiến chống đại dịch, nhiều người đã kỳ vọng Hoa Kỳ - nền kinh tế số một thế
giới sẽ đảm đương trọng trách là trung tâm đầu não toàn cầu. Nhưng thực tế lại khác
với kỳ vọng, nước Mỹ không những không thể đảm đương vị trí đứng đầu, dẫn dắt
các quốc gia khác mà chính Mỹ cũng đang vướng vào những khó khăn, chật vật ứng
phó với đại dịch. Trước tình hình đó, người ta lại mong đợi vào Trung Quốc - nền
kinh tế số hai thế giới, đã khống chế thành công được đại dịch có thể điều phối tồn
cầu chống dịch và đưa ra các quyết định chính trị, hành động thực tế tương xứng
với vị thế của mình. Nhưng đáng tiếc, kỳ vọng vẫn chỉ là kỳ vọng.
Cũng trong cuộc chiến chống đại dịch tồn cầu lần này, có thể nói Việt Nam
chính là một ví dụ tiêu biểu về mơ hình chống dịch, khi nước ta dù nguồn lực và hệ


thống y tế vẫn còn khá hạn chế, nhưng với phương châm “chống dịch như chống
giặc”, bảo vệ sức khỏe của người dân là trên hết, đã tạo được lòng tin, sự đồng
thuận hợp tác của người dân cùng đẩy lùi dịch bệnh. Đồng thời, với tư cách là Chủ
tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam đã chân thành ủng hộ các quốc gia khác chống
dịch thông qua việc gửi tặng khẩu trang và vật tư y tế cho một số nước như Mỹ,
Nga, Pháp, Đức, Anh,… Điều đó đã thể hiện tình thần chủ động, tích cực phối hợp,
chung tay cùng các quốc gia khác chống COVID-19 của nước ta. Qua đó, đã nâng
cao được uy tín chính trị, hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
4. Bài học kinh nghiệm
Từ việc phân tích cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 dưới góc nhìn kinh tế
chính trị, có thể rút ra được một số bài học sau:
Thứ nhất, đầu tiên và quan trọng nhất trong cuộc chiến đẩy lùi dịch bệnh là
lãnh đạo các quốc gia phải xác định nhất quán, rõ ràng trách nhiệm chính trị đối với
bảo vệ sứa khỏe của người dân, đặt sức khỏe của người dân lên vị trí ưu tiên hàng
đầu. Đại dịch COVID-19 đã cho thấy sự giàu mạnh về kinh tế, của cải vật chất vẫn
không đủ là cơ sở đảm bảo sự an toàn, những yếu tố về trách nhiệm chính trị, về an
ninh con người càng lớn lao hơn cả. Vì vậy, tầm quan trọng của việc các lãnh đạo

quốc gia xây dựng và thực thi các chiến lược chống dịch, trong đó đặt con người
vào vị trí trung tâm của chiến lược là hết sức quan trọng. Đó là nền tảng để xác định
tinh thần chống dịch với quyết tâm chính trị cao và hành động quyết liệt.
Thứ hai, xây dựng một thể chế có tính tồn cầu. Đại dịch COVID-19 đã rung
lên một hồi chuông cảnh báo về cơ chế quản trị ở tầm toàn cầu đang hết sức yếu
kém, mong manh, dễ đổ vỡ. Vì vậy, việc cần thiết lúc này là xây dựng một thể chế
mang tính tồn cầu nhằm mục tiêu chăm lo, giải quyết những vấn đề cấp bách về
bảo vệ sức khỏe cộng đồng, phòng chống dịch bệnh. Đồng thời, thể chế này cần
được xây dựng với khả năng cảnh báo, ngăn chặn và ứng phó với đại dịch ở mức
hiệu quả nhất. Đặc biệt, một điểm cần lưu ý ở đây là phải xây dựng một cơ chế bảo
đảm hoạt động của thế chế đó, khơng bị ràng buộc, chi phối bởi bất kỳ một quốc gia,
một tổ chức quốc tế, hay một cá nhân nào đó.
Thứ ba, về sự hợp tác giữa các nước trong trường hợp khẩn thiết. Cuộc chiến
đẩy lùi đại dịch trên phạm vi toàn cầu đòi hỏi các quốc gia phải cùng nhau bắt tay,
hợp tác với nhau vì một mục tiêu chung. Vì vậy, các nước cần nâng cao ý thức cộng
đồng, sẻ chia, chung tay góp sức phịng chống đại dịch trên phạm vi lớn, tăng cường
các hoạt động thiết thực như “ngoại giao khẩu trang, máy thở, vật tư y tế”, chấm dứt


“chủ nghĩa dân tộc vaccine”, phân phối vaccine đồng đều trên toàn thế giới và cùng
nhau phối hợp, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm trong cộng đồng quốc tế để việc đẩy
lùi dịch bệnh đạt được hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, trong sự hợp tác đó, các quốc
gia cũng cần giữ vững độc lập, tự chủ, cần phải hết sức tỉnh táo, cảnh giác trong hội
nhập, liên kết quốc tế, tránh rơi vào cạm bẫy của những đối tác có âm mưu bất
chính, lợi dụng dịch bệnh để thực hiện các hành động phi pháp.
Thứ tư, xây dựng hình ảnh, vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Mỗi quốc gia
cần xây dựng một bộ máy chính trị vì dân, đặt mục tiêu bảo vệ sức khỏe, bảo vệ an
tồn cho người dân lên vị trí cao nhất. Bên cạnh đó, các nước cũng cần lựa chọn kỹ
càng tập hợp những lãnh đạo quốc gia có năng lực, có phẩm chất, có lịng tin của
người dân, từ đó xây dựng một xã hội đạt được sự đồng thuận cao nhất. Mỗi nước

cũng cần có các hành động quyết liệt, thể hiện được quyết tâm cao độ khi đối phó
với một biến cố nào đó, ví dụ như đại dịch COVID-19 chứ khơng phải là những
khẩu hiệu chính trị sng, những hành động hời hợt, kém hiệu quả.
Thứ năm, đổi mới và xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe của đất nước vững
mạnh. Như các phân tích ở trên cho thấy, nhiều quốc gia có nền kinh tế và hệ thống
chăm sóc y tế tương đối mạnh như Anh, Italy, Tây Ban Nha, Pháp,… lại phải chịu
hậu quả nặng nề trong cuộc chiến chống lại đại dịch. Một trong những nguyên nhân
chính lý giải điều này được cho là do cấu trúc hệ thống y tế của các nước vẫn cịn
nhiều bất cập. Có các quốc gia vì mục tiêu giảm nợ công nên đã cắt giảm chi tiêu
ngân sách của nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế. Hậu quả là không đủ cơ sở
hạ tầng y tế, thiếu vật tư và đội ngũ nhân viên y tế, dẫn đến tình trạng “vỡ trận” khi
dịch bùng phát mạnh. Thế giới chắc chắn sẽ phải đối mặt với các dịch bệnh khác
trong tương lai. Vì vậy, mỗi quốc gia cần xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe cân
đối, phù hợp; y tế dự phòng, y tế công cộng, hệ thống kiểm dịch và khám chữa điều
trị phải phối hợp hài hòa với nhau để đạt hiệu quả tốt nhất. Trên cơ sở đó, cần xây
dựng một cơ chế, chính sách cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng và bền
vững.
Thứ sáu, các quốc gia nên ưu tiên đẩy lùi dịch bệnh trước mục tiêu phát triển
kinh tế. COVID-19 đã để lại hậu quả vô cùng nặng nề cho nền kinh tế toàn cầu. Hầu
hết các quốc gia đều phải chịu những ảnh hưởng tiêu cực mà nó mang lại. Nền kinh
tế bị gián đoạn, tăng trưởng thụt lùi, hàng loạt các doanh nghiệp phá sản, gia tăng
tình trạng thất nghiệp. Trước tình hình đó, các quốc gia cần có các chiến lược phát
triển kinh tế hậu đại dịch. Tuy nhiên, thực tiễn nhiều nước đã cho thấy, nếu không


kiểm soát dịch chắc chắn, chủ quan, vội vàng mở cửa trở lại để kích thích nền kinh
tế (như du lịch, nhà hàng, khách sạn, giao thơng cơng cộng,…) thì nguy cơ dịch
bùng phát trở lại là rất cao, khi đó cái giá phải trả sẽ rất đắt. Vì vậy, tùy vào mỗi
quốc gia sẽ có các chiến lược, giải pháp cụ thể khác nhau, nhưng tất cả cần phải có
một điểm chung là khống chế hồn tồn được dịch bệnh, sau đó mới từng bước mở

cửa nền kinh tế.

III.KẾT LUẬN
Thế giới vẫn phải đang gồng mình đối phó với “kẻ địch vơ hình” mang tên
COVID-19 và điều đáng lo ngại là khơng ai có thể biết chắc được bao giờ đại dịch
kết thúc, thế giới hậu đại dịch sẽ ra sao?
Hơn một năm qua, COVID-19 đã để lại những hậu quả không thể tưởng tượng
nổi cho hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới. Mọi thứ đảo lộn, nền kinh tế biến
động mạnh mẽ, đời sống của con người cũng chịu khơng ít những đổi thay.
Hơn một năm COVID-19 xuất hiện cũng là hơn một năm của cuộc chiến chống
dịch. Cuộc chiến gian nan này đã và đang cho thấy bài học về trách nhiệm chính trị
của lãnh đạo các quốc gia, về xây dựng thể chế toàn cầu, về chủ nghĩa đa phương và
sự hợp tác quốc tế, về xây dựng hình ảnh, vị thế quốc gia trên thế giới. Từ các bài
học đó, các quốc gia cũng có thể xây dựng cho mình những giải pháp, chiến lược cụ
thể, tùy vào điều kiện hoàn cảnh thực tiễn khác nhau, từ đó có thể nhanh chóng
chiến thắng được dịch bệnh, mở cửa trở lại nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Thảo Anh (2021), "Việt Nam và New Zealand đứng đầu thế giới về hiệu suất
kiểm sốt Covid-19", Báo Pháp Luật.
2. Bách khoa tồn thư mở Wikipedia, "SARS-CoV-2".
3. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, "Tổ chức Y tế Thế giới".
4. Hồng Cường (2020), “Sản lượng ơ tơ tồn cầu năm 2020 giảm 1,4 triệu xe vì
Covid-19”’, Báo Thanh Niên.
5. Quang Đặng - Thuỳ Linh (2020), Tác động của đại dịch Covid-19 đến kinh tế
toàn cầu qua các biểu đồ, Tạp chí Cơng thương.
6. Thu Hường (2021), “Kinh tế thế giới năm 2020: Đi qua những khoảng tối và
con đường phục hồi mong manh”, Tạp chí Con số và Sự kiện.

7. Phúc Long (2020), "3 lý do chính khiến WHO bị nhiều nước chỉ trích trong
dịch COVID-19", Báo Tuổi trẻ online.
8. PGS. TS. Đinh Xuân Lý (2020), "Cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 dưới
góc nhìn chính trị học", Tạp chí Tun giáo.
9. Thong Nguyen (2020), "Góc nhìn khác về tồn cầu hóa qua sự đóng băng của
chuỗi cung ứng từ Vũ Hán", Trang thông tin điện tử Vietnam Logistics and Aviation
School.
10. PGS.TS Trần Quốc Toản (2020), “Tác động của đại dịch Covid - 19 và những
vấn đề phát triển đặt ra”, Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung Ương.
11. TTXVN (2020), “Kinh tế thế giới lao đao trước dịch COVID-19”, Thời báo Tài
chính Việt Nam.
12. Phạm Quang Vinh (2021), "Chủ nghĩa dân tộc vắc-xin", Báo Vietnamnet.
Tiếng Anh
13. Bureau of Labor Statistics (2021), “Unemployment Rate”, Washington DC.
14. Frank McKay (2020), "The Impact of the Coronavirus on the Global Supply
Chain", JABIL.
15. Oxford Business Group (2020), "The impact of Covid-19 on global supply
chains".
16. UNICEF Data (2020), "How COVID-19 is changing the world: A statistical
perspective".
17. Willem Sundblad (2020), “How To Solve Our Supply Chain Problems”, Forbes




×