Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.34 KB, 10 trang )

Chủ đề:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
BÀI LÀM
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và
Nhân dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức
quan trọng. Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
quan niệm chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp vô sản
nhằm xoá bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và
giải phóng toàn thể xã hội loài người.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
một nội dung cơ bản, cốt lõi, thể hiện sự sáng tạo rất lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi
vận dụng, quán triệt lý luận Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Bối cảnh
trong nước và quốc tế hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết phải không ngừng bổ sung, phát
triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trên
cơ sở bảo đảm các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và phù hợp với đặc điểm của dân tộc, với xu thế của thời đại.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng đã xác định khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
một cách khái quát: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là
tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
1.1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội

1




Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin về sự phát triển
tất yếu của xã hội lồi người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Đồng thời chỉ rõ tính tất
yếu của chủ nghĩa xã hội, cụ thể:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội - con đường phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, lịch sử tiến hóa của xã hội lồi người
là một q trình phát triển tự nhiên của sự thay thế lần lượt các phương thức sản xuất. Sự
phát triển đó mang tính quy luật như là một “tất yếu thép” được quyết định bởi sự vận
động không ngừng của lực lượng sản xuất xã hội.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, xã hội lồi người phát triển theo xu hướng đi
lên, các xã hội trước tạo tiền đề để xã hội sau bước lên một hình thái cao hơn về chất
lượng. Theo Người, logic phát triển xã hội cho thấy, đã đến lúc chủ nghĩa tư bản mở
đường cho sự ra đời một chế độ xã hội mới – chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiến lên chủ nghĩa
xã hội là quy luật vận dộng khách quan của lịch sử trên phạm vi toàn thế giới.
Trong bài báo Đơng Dương đăng trong Tạp chí Cộng sản Pháp số 14 năm 1921,
sau khi đã chỉ ra những hình thức bóc lột, đàn áp dã man, tàn bạo của bọn thực dân đối
với người bản xứ, khẳng định tinh thần cách mạng âm ỉ, mãnh liệt, quật cường của nhân
dân các nước Đơng Dương, Hồ Chí Minh đã đi đến một kết luận: “Sự tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái viêc là gieo hạt
giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi”. Đây là một luận điểm rất quan trọng, là cơ sở
lý luận để khẳng định tính quy luật của con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong luận điểm trên, Hồ Chí Minh khơng dựa trên cơ sở phân tích sự chín muồi của cơ
sở kinh tế làm xuất hiện chủ nghĩa xã hội như là một phương thức cần thiết để giải quyết
những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, mà Người bổ sung một yếu tố quan trọng dẫn đến
sự ra đời của chủa nghĩa xã hội, đó chính là sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Chính từ sự
tàn bạo của chủ nghĩa tư bản là cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ sứ mạng lịch sử
của mình trước vận mệnh quốc gia dân tộc, sẵn sàng vùng lên đấu tranh thủ tiêu xiềng
xích thực dân, thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân thốt khỏi
áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân.

Thứ hai, chủ nghĩa xã hội – kết quả tất yếu của quy luật vận động nội tại của cách
mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu không chỉ đối với các
nước đã qua chủ nghã tư bản, mà cũng là tất yếu mang tính quy luật vận động nội tại của

2


cách mạng Việt Nam. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được luận chứng
trên nhiều góc độ khác nhau, trước hết là từ góc độ khát vọng độc lập dân tộc của toàn
thể các tầng lớp nhân dân.
Về phương diện lý luận, trong những điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã phát triển
tư tưởng cách mạng khơng ngừng của C.Mác, Ph.Ăngghen, luận chứng một cách tồn
diện khả năng đi tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của các dân tộc
thuộc địa, có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển. Trên nền tảng đó, Hồ Chí Minh đã lĩnh
hội những vấn đề mấu chốt và vận dụng sáng tạo trong cách mạng Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn – lịch sử, khẳng định của Hồ Chí Minh về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam được đặt trên nền hiểu biết sâu rộng lịch
sử các cuộc cách mạng đã từng diễn ra trên thế giới như: cách mạng Pháp 1789, cách
mạng Mỹ 1776 (các cuộc cách mạng tư sản) là những cuộc cách mạng không triệt để.
Theo qian điểm của Người, chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt
để (dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng; đập đổ tất cả đế quốc chủ
nghĩa và tư bản). Từ đó Người khẳng định, cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi
một cách triệt để, khơng có con đường nào khác là đi theo con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh có quan điểm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội
như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hồn chỉnh, trong đó con người
được phát triển toàn diện, tự do, một xã hội mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới
mục tiêu giải phóng con người. Theo Người, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là độc lập, tự

do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Ở một góc độ tiếp cận khác, Hồ Chí Minh nêu
quan điểm: Muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội thì phải đánh bại chủ nghĩa cá
nhân. Mặt khác, nhấn mạnh đặc trưng về kinh tế, Hồ Chí Minh nêu chế độ sở hữu công
cộng của chủ nghĩa xã hội và chế độ phân phối theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có phúc lợi xã hội.
Khi nói về đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra những
quan điểm gắn với điều kiện thực tế của Việt Nam. Trong đó, đặc trưng tổng quát của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa – xã
hội. Người nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau đây:

3


Về chính trị: Là một chế độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ; Nhà nước là
của dân, do dân và vì dân. Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân.
Chủ nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của
toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
Về kinh tế: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao,
gắn liền với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật; dựa trên cơ sở năng suất lao động xã
hội cao, sức sản xuất luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học – kỹ thuật. Chế độ
khơng cịn người bóc lột người, khơng cịn áp bức bất cơng, một xã hội được xây dựng
trên ngun tắc cơng bằng, hợp lý.
Về văn hóa – xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo
đức; là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, cơng bằng, bình đẳng; con
người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong nước đồn
kết, bình đẳng và giúp nhau cùng tiến bộ.
Về quan hệ quốc tế: Chủ nghĩa xã hội có quan hệ hịa bình, hữu nghị, hợp tác với
nhân dân lao động các nước trên thế giới.
Các đặc trưng thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản văn hóa của dân
tộc, nhân loại và lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa thể hiện sự sáng tạo trong quá trình

xây dựng chủ nghã xã hội.
1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội
1.3.1. Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta.
Về mục tiêu chung, theo Hồ Chí Minh, mục tiêu ban đầu của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người khá giàu thì giàu
thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”. Người cịn
nói: “Chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no, mặc
ấm và có nhà ở sạch sẽ”; “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
Những mục tiêu cụ thể của chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh chỉ rõ trên các
lĩnh vực sau đây:

4


Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân,
do dân và vì dân.
Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ
được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà
chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công – nông nghiệp hiện đại, khoa
học – kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩ tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất
của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Mục tiêu văn hóa – xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã
hội, Người nhấn mạnh phải làm cho văn hóa gắn liền với lao động sản xuất. Hồ Chí Minh
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ,
mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất của cơng cuộc xây dựng chính là con người.

Trong lý luận xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết
mặt tư tưởng, đồng thời Người đặc biệt quan tâm đến việc trau dồi, rèn luyện đạo đức
cách mạng; Người cũng rất chú ý đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn
luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội.
1.3.2. Về động lực của chủa nghĩa xã hội
Để thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, cần phát hiện những động lực
và những điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những động lực bên trong, nguồn nội lực của chủ
nghĩa xã hội.
Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là khối
đại đồn kết dân tộc, nịng cốt là cơng – nơng – trí thức. Nhìn nhận yếu tố con người là
động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động lực quan trọng nhất, Hồ Chí Minh đã
nhận thấy sự kết hợp sức mạnh của mỗi cá nhân với xã hội (sức mạnh cộng đồng).
Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo
của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, Người rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh
doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có,
gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế và xã hội.

5


Cùng với khơi dậy, phát huy động lực về con người, về lợi ích vật chất và tinh
thần của mỗi cá nhân, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi
đó là động lực tinh thần khơng thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Ngồi các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại (ngoại lực); tăng
cường đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân, … Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là
quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa của Đảng, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp
và bước đi phù hợp với những đặc điểm và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Trên cơ sở tổng kết lý luận – thực tiễn, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội;
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa, tiếp tục đường lối
đổi mới, kiên định theo con đường “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng xác
định trên những vấn đề cơ bản sau đây:
2.1. Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, đồng thời là mục tiêu cao cả của
toàn Đảng toàn dân ta. Trong điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy
luật tiến hóa trong q trình phát triển của xã hội loài người.
Từ thực tiễn biến đổi của chủ nghĩa tư bản, nhìn nhận trên bình diện thế giới và
thực tiễn cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng là: “Chúng ta cần một xã hội mà
trong đó sự phát triển là thực sự vì con ngườ, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và
chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ
và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu – nghèo và bất bình đẳng
xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá
trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị

6


kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hịa
với thiên nhiên để bảo đảm mơi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương

lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và
hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc
về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ khơng phải chỉ cho một
thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực
của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”. Chỉ có kiên
định con đường “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” mới bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
2.2. Kiên định đường lối đổi mới của Đảng, khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Đường lối đổi mới của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay được đồng chí
Tổng Bí thư nêu rõ, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân kiên quyết đi theo con đường mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải tiếp tục vận
dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh, điều kiện mới; tiếp tục nâng cao
nhận thức, hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực
hiện hiệu quả chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng.
Chủ trương của Đảng phải tiếp tục nâng cao nhận thức và hoàn thiện, đồng bộ nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng nhấn mạnh, thực hiện kinh tế thị
trường, phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn chặn, phòng
tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên tất cả mọi mặt
của đời sống xã hội.
Nghiên cứu, xử lý một cách khách quan, khoa học và hiệu quả các mối quan hệ
lớn là điều kiện cần, điều kiện đủ: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây
dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của tồn dân, do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, phải tăng
cường công tác tuyên truyền, vận động nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước


7


phồn vinh, hạnh phúc và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phải vận
dụng sáng tạo quan điểm Hồ Chí Minh: đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, sức mạnh của nhân dân là sức mạnh vô địch;
nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức lao động,
của cải là vô cùng to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc nhằm xây dựng và
phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
Một là, tin dân, trọng dân, dựa vào dân, chăm lo đời sống của nhân dân, xác lập
quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ dân chủ được thực hiện trong
mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật
sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội.
Hai là, thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên
cơ sở lấy liên minh cơng – nơng – trí thức làm nịng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội
vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận
dụng tối đa sức mạnh của thời đại – cách mạng khoa học, công nghệ, xu thế tồn cầu hóa.
Chúng ta cần ra sức tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản
lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để có thể kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh yêu cầu
phải tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Có tinh thần chủ động, dựa vào
sức mình là chính, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ
của nhân dân tiến bộ trên thế giới, đồng thời khơng qn nghĩa vụ quốc tế của mình.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn hiện nay, Đảng chỉ rõ, trên tinh
thần chủ động, tích cực hội nhập, phải phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn với ngoại

lực và sức mạnh thời đại; đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nâng cao nhận thức,
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng,
sức mạnh nội sinh quan trọng; phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của tất cả các
tầng lớp nhân dân; coi đó là một nguồn lực to lớn, mạnh mẽ của sự nghiệp phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc.

8


2.4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính, một nhà nước
kiến tạo, liêm chính, hành động thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy phải:
Một là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, thật sự là một đảng
“đạo đức, văn minh”; cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người
hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu
trong mọi việc.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, sáng suốt của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách
đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
Ba là, xây dựng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ
liêm khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội
của đất nước.
Bốn là, giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước,
hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng nước
nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách, thành một
chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi văn hóa như Hồ

Chí Minh đã căn dặn: “Một dân tộc biết cần, biết kiệm” là một dân tộc văn minh, tiến bộ;
dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất,
cao đẹp về tinh thần.
Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện và
đặt ra yêu cầu mới cần phải nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, nhằm tiếp tục tổng
kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng. Thực chất của công cuộc đổi mới là “chống lại
những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, là tìm tịi phương
thức (con đường) xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam hiện nay “Tình hình
mới đã đặt ra những nhiệm vụ mới, phương châm mới, sách lược mới… Trước tình hình
mới hiện nay, ta không thể giữ cương lĩnh cũ”.

9


Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, địi hỏi phải nắm vững mục tiêu, bản chất của
chủ nghĩa xã hội; nắm vững tinh thần và phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh để tìm tòi, phát hiện ra những quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam, sáng tạo ra những nội dung mới, cách làm mới phù hợp với điều kiện của đất
nước và xu thế của thời đại; biến mục tiêu, lý tưởng của Người từng bước trở thành hiện
thực trên đất nước ta.

10



×