Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thiết kế bộ khởi động mềm cho động cơ xoay chiều 3 pha không đồng bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.44 KB, 15 trang )

THIẾT KẾ MÔN HỌC
MÔN: ĐIỆN TỬ CÔNG SUẤT
ĐỀ BÀI: Đề số 68
Thiết kế bộ khởi động mềm cho động cơ xoay chiều 3 pha không đồng bộ
Yêu cầu công nghệ Thông số thiết kế
Thiết kế bộ điều chỉnh điện áp xoay chiều U = 380 V,P = 75 KW
Hải Phòng, năm 2012
LỜI NÓI ĐẦU
ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ
CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
1.2.TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ.
1.3. GIỚI HẠN VẤN ĐỀ.
1.4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
1.5. ĐỘNG CƠ KHÔNG ĐỒNG BỘ BA PHA.
1.5.1. Đại cương về động cơ không đồng bộ.
1 5.2. Nguyên lý làm việc của động cơ không đồng bộ.
1.5.3. Cấu tạo.
1.5.4. Ứng dụng.
CHƯƠNG 2: CHỌN MẠCH CÔNG SUẤT
2.1. MẠCH CHỈNH LƯU CẦU
2.1.1. Sơ đồ mạch chỉnh lưu :
Hình 2-1 :Sơ đồ chỉnh lưu cầu 1 pha
T
1
T
3
T
2
T
4


U
2
= U
m
.sinωt
U
đ
E
ư
R
ư
L
ư
L
p
(Cathode)
(Anode)
I
d
Sơ đồ chỉnh lưu cầu một pha
2
2
Cầu chỉnh lưu một pha gồm 2 thyristor (T) v 2 Diode (T) chia làm hai
nhóm
- Nhóm Anode chung: T1,T3
- Nhóm cathod chung: T2,T4.
Điện áp pha thứ cấp của biến áp (xoay chiều)
U
2
=U

m
sinωt = U
m
sinθ
góc α l góc mở của thyristor cho dòng chảy qua.
2.1.2. Hoạt động của sơ đồ.
2.1.3. Trạng thái làm việc của mạch chỉnh lưu.
2.1.4. Giá trị trung bình của điện áp chỉnh lưu.
2.1.5. Các trạng thái dòng – áp của mạch chỉnh lưu.
2.2. TRIAC.
CHƯƠNG 3: TÍNH TOÁN VÀ THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU ÁP XOAY CHIỀU.
3.1. Thiết kế bộ điều áp xoay chiều ba pha.
3.2. Tính chọn van ban dẫn.
3.3. Thiết kế mạch điều khiển.
Kết luận
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ĐOÀN VĂN TUÂN VŨ VĂN VIỄN
3
3
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN




















4
4
LỜI NÓI ĐẦU

Một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu mà Đảng và Nhà nước đặt
ra là tiến trình công nghệ hoá , hiện đại hoá đất nước.
Để tiến hành công nghệ hoá , hiện đại hoá các doanh nghiệp cần phải tiến
hành xây dựng lại các nhà máy , cơ sở sản xuất, trang thiết bị máy móc đưa công
nghệ hiện đại hoá vào sản xuất . Hơn thế nữa , để vận hành tốt các nhà máy cần
phải có một đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao.
Là một sinh viên Khoa Điện ngành Tự động hoá trường Đại Học Hàng
Hải , em hiểu rằng tự động hoá nghiệp công nghiệp đóng vai trò hết sức quan
trọng trong sự phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam. Trong đợt thiết kế
môn học này em được thầy giáo ĐOÀN VĂN TUÂN hướng dẫn em thiết kế đồ
án với đề tài là : “ thiết kế bộ khởi động mềm cho động cơ xoay chiều 3 pha
không đồng bộ”.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những thành tựu của khoa học và kỹ thuật đã có nhiều ứng dụng rất lớn
trong cuộc sống cũng như trong công nghiệp hiện nay. Đã đem đến cho chúng ta

vô số những thành quả to lớn như ứng dụng điều khiển các thiết bị điện, động cơ
điện như quạt và động cơ bơm…
Nội dung chính của đề tài mà em thực hiện là “ NGHIÊN CỨU VÀ
THIẾT KẾ BỘ KHỞI ĐỘNG MỀM CHO ĐỘNG CƠ XOAY CHIỀU 3 PHA
KHÔNG ĐỒNG BỘ”.
Động cơ không đồng bộ ba pha được dùng rộng rãi trong công nghiệp, vì
chúng có cấu trúc đơn giản, làm việc với độ tin cậy, nhưng có nhược điểm là
dòng điện khởi động lớn, gây ra sụt áp trong lưới điện.Vì vậy đề tài của chúng
em là phải nghiên cứu và thiết kế bộ khởi động mềm để điều khiển sao cho có
thể làm hạn chế dòng điện khởi động , đồng thời điều chỉnh tăng mô men mở
máy một cách hợp lý, cho nên các chi tiết của động cơ chịu độ dồn nén về cơ khí
ít hơn, tăng tuổi thọ làm việc an toàn cho động cơ. Ngoài việc tránh dòng đỉnh
5
5
trong khi khởi động động cơ, còn làm cho điện áp nguồn ổn định hơn không gây
ảnh hưởng xấu đến các thiết bị khác trong lưới điện.
1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ
Ứng dụng của bộ khởi động mềm có ý nghĩa rất lớn và rất quan trọng
trong công nghiệp vì nó tiết kiệm điện năng rất lớn, tăng tuổi thọ làm việc của
động cơ hoạt động và không ảnh hưởng đến các thiết bị khác trong lưới điện khi
động cơ vận hành.Ứng dụng này rất có giá trị để điều khiển điện áp đặt vào
động cơ sẽ giảm dòng khởi động xuống còn 1.5 đến 3 lần dòng định mức, phụ
thuộc vào chế độ tải vì khi động cơ được đóng trực tiếp vào lưới điện dòng khởi
động của động cơ không đồng bộ sẽ rất lớn từ 5 đến 7 lần đồng định mức.Điều
này gây ảnh hưởng rất lớn đến các thiết bị dùng điện khác nhất là khi công suất
lưới bị giới hạn hay ở cuối đường dây có sụt áp lớn.Có thể tăng dần điện áp theo
một chương trình thích hợp để điện áp tăng tuyến tính từ một giá trị xác định
đến điện áp định mức.

1.3. GIỚI HẠN VẤN ĐỀ

Đề tài “ NGHIÊN CỨU VÀ THIẾT BỘ KHỞI ĐỘNG MỀM CHO
ĐỘNG CƠ XOAY CHIỀU 3 PHA KHÔNG ĐỒNG BỘ” có thể giải quyết được
vấn đề giảm dòng khởi cho động cơ khi khởi động và điều khiển điện áp ở đầu
cực động cơ nhưng vẫn hạn chế là chưa thể nghiên cứu sâu hơn nữa những tính
năng thực của bộ khởi động mềm được bán trên thị trường hiện nay như: bảo vệ
quá nhiệt cho động cơ, tích hợp hình thức giao tiếp mạng kiểu Modbus, điều
khiển kết hợp với contactor nối tắt khi điều khiển xong tránh tổn hao nhiệt, có
các ngõ vào ra đa chức năng.
1.4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài chúng em tìm hiểu về động cơ không đồng bộ 3 pha và nghiên cứu
và thiết kế bộ khởi động mềm.
1.5. ĐỘNG CƠ KHÔNG ĐỒNG BỘ BA PHA
1.5.1 Đại cương về động cơ không đồng bộ
6
6
Động cơ không đồng bộ ba pha do kết cấu đơn giản, làm việc chắc chắn,
sử dụng và bảo quản thuận tiện, giá thành rẽ nên được sử dụng rộng rãi, nhất là
loại công suất dưới 100 kW.
Động cơ điện không đồng bộ rôto lồng sóc cấu tạo đơn giản nhất nhất là
loại rôto lồng sóc đúc nhôm) nên chiếm một số lượng khá lớn trong loại động cơ
công suất nhỏ và trung bình. Nhược điểm của động cơ này là điều chỉnh tốc độ
khó khăn và dòng điện khởi động lớn thường bằng 6-7 lần dòng điện định mức.
Để bổ khuyết cho nhược điểm này, người ta chế tạo đông cơ không đồng bộ rôto
lồng sóc nhiều tốc độ và dùng rôto rãnh sâu, lồng sóc kép để hạ dòng điện khởi
động, đồng thời tăng mômen khởi động lên.
Động cơ điện không đồng bộ rôto dây quấn có thể điều chỉnh tốc được tốc
độ trong một chừng mực nhất định, có thể tạo một mômen khởi động lớn mà
dòng khởi động không lớn lắm, nhưng chế tạo có khó hơn so với với loại rôto
lồng sóc, do đó giá thành cao hơn, bảo quản cũng khó hơn.
Động cơ điện không đồng bộ được sản xuất theo kiểu bảo vệ IP23 và kiểu

kín IP44. Những động cơ điện theo cấp bảo vệ IP23 dùng quạt gió hướng tâm
7
7
đặt ở hai đầu rôto động cơ điện. Trong các động cơ rôto lồng sóc đúc nhôm thì
cánh quạt nhôm được đúc trực tiếp lên vành ngắn mạch. Loại động cơ điện theo
cấp bảo vệ IP44 thường nhờ vào cánh quạt đặt ở ngoài vỏ máy để thổi gió ở mặt
ngoài vỏ máy, do đó tản nhiệt có kém hơn do với loại IP23 nhưng bảo dưỡng
máy dễ dàng hơn.
Hiện nay các nước đã sản xuất động cơ điện không đồng bộ theo dãy tiêu
chuẩn. Dãy động cơ không đồng bộ công suất từ 0,55-90 KW ký hiệu là K theo
tiêu chuẩn Việt Nam 1987-1994. Theo tiêu chuẩn này, các động cơ điện không
đồng bộ trong dãy điều chế tạo theo kiểu IP44.
Ngoài tiêu chuẩn trên còn có tiêu chuẩn TCVN 315-85, quy định dãy
công suất động cơ điện không đồng bộ rôto lồng sóc từ 110 kW-1000 kW, gồm
có công suất sau: 110,160, 200, 250, 320, 400, 500, 630, 800 và 1000 kW.
Ký hiệu của một động cơ điện không đồng bộ rôto lồng sóc được ghi theo
ký hiệu về tên gọi của dãy động cơ điện, ký hiệu về chiều cao tâm trục quay, ký
hiệu về kích thước lắp đặt dọ trục và ký hiệu về số trục.
1.5.2. Nguyên lý làm việc của động cơ không đồng bộ
Động cơ không đồng bộ ba pha có hai phần chính: stato (phần tĩnh) và
rôto (phần quay). Stato gồm có lõi thép trên đó có chứa dây quấn ba pha.
Khi đấu dây quấn ba pha vào lưới điện ba pha, trong dây quấn sẽ có các
dòng điện chạy, hệ thống dòng điện này tao ra từ trường quay, quay với tốc độ:
p
f
n
1
1
*60
=

Trong đó:
-f
1
: tần số nguồn điện
-p: số đôi cực từ của dây quấn
8
8
Phần quay, nằm trên trục quay bao gồm lõi thép rôto. Dây quấn rôto bao
gồm một số thanh dẫn đặt trong các rãnh của mạch từ, hai đầu được nối bằng hai
vành ngắn mạch.
2
n
n
2
n
1
1
n
s
1
N
1
dt
F
dt
F
Từ trường quay của stato cảm ứng trong dây rôto sức điện động E, vì dây
quấn stato kín mạch nên trong đó có dòng điện chaỵ. Sự tác dụng tương hổ giữa
các thanh dẫn mang dòng điện với từ trường của máy tạo ra các lực điện từ F
đt

tác dụng lên thanh dẫn có chiều xác định theo quy tắc bàn tay trái.
Tập hợp các lực tác dụng lên thanh dẫn theo phương tiếp tuyến với bề măt
rôto tạo ra mômen quay rôto. Như vậy, ta thấy điện năng lấy từ lưới điện đã
được biến thành cơ năng trên trục động cơ. Nói cách khác, động cơ không đồng
bộ là một thiết bị điện từ, có khả năng biến điện năng lấy từ lưới điện thành cơ
năng đưa ra trên trục của nó. Chiều quay của rôto là chiều quay của từ trường, vì
vậy phụ thuộc vào thứ tự pha của điện áp lưới đăt trên dây quấn stato. Tốc độ
của rôto n
2
là tốc độ làm việc và luôn luôn nhỏ hơn tốc độ từ trường và chỉ trong
trường hợp đó mới xảy ra cảm ứng sức điện động trong dây quấn rôto. Hiệu số
tốc độ quay của từ trường và rôto được đặc trưng bằng một đại lượng gọi là hệ
số trượt s:
9
9
1
21
n
nn
s

=
Khi s=0 nghĩa là n
1
=n
2
, tốc độ rôto bằng tốc độ từ trường, chế độ này gọi
là chế độ không tải lý tưởng (không có bất cứ sức cản nào lên trục). Ở chế độ
không tải thực, s≈0 vì có một ít sức cản gió, ma sát do ổ bi …
Khi hệ số trượt bằng s=1, lúc đó rôto đứng yên (n

2
=0), momen trên trục
bằng momen mở máy.
Hệ số trượt ứng với tải định mức gọi là hệ số trựơt định mức. Tương ứng
với hệ số trượt này gọi tốc độ động cơ gọi là tốc độ định mức.
Tốc độ động cơ không đồng bộ bằng:
)1(*
12
snn −=
Một đăc điểm quan trọng của động cơ không đồng bộ là dây quấn stato
không được nối trực tiếp với lưới điện, sức điện động và dòng điện trong rôto có
được là do cảm ứng, chính vì vậy người ta cũng gọi động cơ này là động cơ cảm
ứng.
Tần số dòng điện trong rôto rất nhỏ, nó phụ thuộc vào tốc độ trựơt của
rôto so với từ trường:
1
1
21121
2
*
*60
)(**
60
* fs
n
nnnpnn
pf
=

=


=
Động cơ không đồng bộ có thể làm việc ở chế độ máy phát điện nếu ta
dùng một động cơ khác quay nó với tốc độ cao hơn tốc độ đồng bộ, trong khi
các đầu ra của nó được nối với lưới địện. Nó cũng có thể làm việc độc lập nếu
trên đầu ra của nó được kích bằng các tụ điện.
10
10
Động cơ không đồng bộ có thể cấu tạo thành động cơ một pha. Động cơ
một pha không thể tự mở máy được, vì vậy để khởi động động cơ một pha cần
có các phần tử khởi động như tụ điện, điện trở …
Khi nam châm điện quay ( tốc độ n1 vòng/ phút ) làm đường sức từ quay cắt
qua các cạnh của khung dây cảm ứng gây nên sức điện động E trên khung dây.
Sức điện động E sinh ra dòng điện I chạy trong khung dây. Vì dòng điện I nằm
trong từ trường nên khi từ trường quay làm tác động lên khung dây một lực điện
từ F. Lực điện từ này làm khung dây chuyển động với tốc độ n vòng/ phút.

1.5.3. Cấu tạo
a) Phần tĩnh (Stato)
Stato có cấu tạo gồm vỏ máy,lỏi sắt và dây quấn
• Vỏ máy
• Vỏ máy có tác dụng cố định lõi sắt và dây quấn, không dùng để làm mạch
dẫn từ.
• Thường vỏ máy được làm bằng gang. Đối với máy có công suất tương đối
lớn ( 1000kW ) thường dùng thép tấm hàn lại làm thành vỏ máy. Tuỳ theo
cách làm nguội máy mà dạng vỏ cũng khác nhau.
• Lõi sắt
Lõi sắt là phần dẫn từ. Vì từ trường đi qua lõi sắt là từ trường quay nên để
giảm tổn hao lõi sắt được làm bằng những lá thép kỹ thuật điện ép lại. Khi
đường kính ngoài lõi sắt nhỏ hơn 90 mm thì dùng cả tấm tròn ép lại. Khi đường

kính ngoài lớn hơn thì dùng những tấm hình rẻquạt (hình 2) ghép lại.
• Dây quấn
Dây quấn stator được đặt vào các rãnh của lõi sắt và được cách điện tốt với
lõi sắt.
b)Phần quay (roto)
Rotor có 2 loại chính : rotor kiểu dây quấn và rotor kiểu lòng sóc.
11
11
• Rotor dây quấn :
Rôto có dây quấn giống như dây quấn của stator. Dây quấn 3 pha của rôto
thường đấu hình sao còn ba đầu kia được nối vào vành trượt thường làm bằng
đồng đặt cố định ở một đầu trục và thông qua chổi than có thể đấu với mạch
điện bên ngoài. Đặc điểm là có thể thông qua chổi
than đưa điện trở phụ hay suất điện động phụ vào mạch điện rôto để cải thiện
tính năng mở máy, điều chỉnh tốc độ hoặc cải thiện hệ số công suất của máy. Khi
máy làm việc bình thường dây quấn rotor được nối ngắn mạch. Nhược điểm so
với động cơ rotor lòng sóc là giá thành cao, khó sử dụng ở môi trường khắc
nghiệt, dễ cháy nổ .
• Rotor lồng sóc :
Kết cấu loại dây quấn này rất khác với dây quấn stator. Trong mỗi rãnh của
lõi sắt rotor đặt vào thanh dẫn bằng đồng hay nhôm dài ra khỏi lõi sắt và được
nối tắt lại ở hai đầu bằng hai vành ngắn mạch bằng đồng hay nhôm làm thành
một cái lồng mà người ta quen gọi là lồng sóc.
c ) Khe hở không khí
Vì rotor là một khối tròn nên khe hở đều. Khe hở trong máy điện không
đồng bộ rất nhỏ để hạn chế dòng điện từ hóa lấy từ lưới và như vậy mới có thể
làm cho hệ số công suất của máy cao hơn.
1.5.4. Ứng dụng :
Động cơ không đồng bộ là loại máy điện xoay chiều chủ yếu dùng làm
động cơ điện. Do kết cấu đơn giản, làm việc chắc chắn, hiệu suất cao, giá thành

hạ nên động cơ không đồng bộ là loại máy được dùng rộng rãi Trong đời sống
hàng ngày,động cơ không đong bộ ngày càng chiếm một vị trí quan trọng với
nhiều ứng dụng trong cộng nghiệp, nông nghiệp và trong đời
sống hàng ngày.
• Ứng dụng của động cơ không đồng bộ
Ngày nay, các hệ thống truyền động điện được sử dụng rất rộng rãi trong
các thiết bị hoặc dây chuyền sản xuất công nghiệp, trong giao thông vận tải,
trong các thiết bị điện dân dụng, . .
12
12
. Ước tính có khoảng 50% điện năng sản xuất ra được tiêu thụ bởi các hệ
thống truyền động điện.
Hệ truyền động điện có thể hoạt động với tốc độ không đổi hoặc với tốc độ
thay đổi được. Hiện nay khoảng 75 . 80% các hệ truyền động là loại hoạt động
với tốc độ không đổi.
Với các hệ thống này, tốc độ của động cơ hầu như không cần điều khiển trừ
các quá trình khởi động và hãm. Phần còn lại, là các hệ thống có thể điều chỉnh
được tốc độ để phối hợp đặc tính động cơ và đặc tính tải theo yêu cầu. Với sự
phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật bán dẫn công suất lớn và kỹ thuật vi xử lý, các
hệ điều tốc sử dụng kỹ thuật điện tử ngày càng được sử dụng rộng rãi và là công
cụ không thể thiếu trong quá trình tự động hóa.
Động cơ không đồng bộ có nhiều ưu điểm như: kết cấu đơn giản, làm việc
chắc chắn, hiệu suất cao, giá thành hạ, có khả năng làm việc trong môi trường
độc hại hoặc nơi có khả năng cháy nổ cao. Vì những ưu điểm này nên động cơ
không đồng bộ được ứng dụng rất rộng rãi trong các ngành kinh tế quốc dân với
công suất từ vài chục đến hàng nghìn kW. Trong công nghiệp, động cơ không
đồng bộ thường được dùng làm nguồn động lực cho các máy cán thép loại vừa
và nhỏ, cho các máy công cụ ở các nhà máy công nghiệp nhẹ . . . Trong nông
nghiệp, được dùng làm máy bơm hay máy gia công nông sản phẩm. Trong đời
sống hằng ngày, động cơ không đồng bộ ngày càng chiếm một vị trí quan trọng

với nhiều ứng dụng như: quạt gió, động cơ trong tủ lạnh, máy quay dĩa,. . . Tóm
lại, cùng với sự phát triển của nền sản xuất điện khí hóa và tự động hóa, phạm vi
ứng dụng của động cơ không đồng bộ ngày càngrộng rãi.
So với máy điện DC, việc điều khiển máy điện xoay chiều gặp rất nhiều
khó khăn bởi vì các thông số của máy điện xoay chiều là các thông số biến đổi
theo thời gian, cũng như bản chất phức tạp về mặt cấu trúc máy của động cơ
điện xoay chiều so với máy điện một chiều.
Cho nên việc tách riêng điều khiển giữa moment và từ thông để có thể
điều khiển độc lập đòi hỏi một hệ thống có thể tính toán cực nhanh và chính xác
trong việc qui đổi các giá trị xoay chiều về các biến đơn giản . Vì vậy, cho đến
13
13
gần đây, phần lớn động cơ xoay chiều làm việc với các ứng dụng có tốc độ
không đổi do các phương pháp điều khiển trước đây dùng cho máy điện thường
đắt và có hiệu suất kém. Động cơ không đồng bộ cũng không tránh khỏi nhược
điểm này.
Những khó khăn trong việc ứng dụng động cơ xoay chiều chính là làm thế
nào để có thể dễ dàng điều khiển được tốc độ của nó như việc điều khiển của
động cơ DC. Vì vậy, một ý tưởng về việc biến đổi một máy điện xoay chiều
thành một máy điện một chiều trên phương diện điều khiển đã ra đời. Đây chính
là điều khiển vector. Điều khiển vector sẽ cho phép điều khiển từ thông và
moment hoàn toàn độc lập với nhau thông qua điều khiển giá trị tức thời của
dòng (động cơ tiếp dòng) hoặc giá trị tức thời của áp (động cơ tiếp áp).
Điều khiển vector cho phép tạo ra những phản ứng nhanh và chính xác của
cả từ thông và moment trong cả quá trình quá độ cũng như quá trình xác lập của
máy điện xoay chiều giống như máy điện một chiều. Cùng với sự phát triển của
kỹ thuật bán dẫn và những bộ vi xử lý có tốc độ nhanh và giá thành hạ, việc ứng
dụng của điều khiển vector ngày càng được sử dụng rộng rãi trong nhiều hệ
truyền động và đã trở thành một tiêu chuẩn công nghiệp.Với sự phát triển nhanh
chóng, ngành công nghiệp tự động luôn đòi hỏi sự cải tiến thường xuyên của các

loại hệ truyền động khác nhau. Những yêu cầu cải tiến cốt yếu là tăng độ tin cậy,
giảm khả năng tiêu thụ điện năng, giảm thiểu chi phí bảo dưỡng, tăng độ chính
xác và tăng khả năng điều khiển phức tạp. Vì vậy, những hệ truyền động với
động cơ điện mộtchiều đang dần thay thế bởi những hệ truyền động động cơ
xoay chiều sử dụng điều khiển vector. Bởi vì, lý do chính để sử dụng rộng rãi
động cơ điện một chiều trước kia là khả năng điều khiển độc lập từ thông và
moment lực đã nêu cũng như cấu trúc hệ truyền động khá đơn giản. Tuy nhiên,
chi phí mua và bảo trì động cơ cao, đặc biệt khi số lượng máy điện phải dùng
lớn. Trong khi đó, các ứng dụng thực tế của lý thuyết điều khiển vector đã được
thực hiện từ những năm 70 với các mạch điều khiển liên tục. Nhưng các mạch
liên tục không thể đáp ứng được sự đòi hỏi phải chuyển đổi tức thời của hệ quy
14
14
chiếu quay do điều này đòi hỏi một khối lượng tính toán trong một thời gian
ngắn.
Sự phát triển của những mạch vi xử lý đã làm thay đổi việc ứng dụng của
lý thuyết điều khiển vector. Khả năng tối ưu trong điều khiển quá độ của điều
khiển vector là nền móng cho sự phát triển rộng rãi của các hệ truyền động xoay
chiều (vì giá thành của động cơ xoay chiều rất rẻ hơn so với động cơ một chiều).
Ngoài những phát triển trong điều khiển vector, một sự phát triển đáng chú
ý khác chính là việc ứng dụng mạng neural (neural networks) và logic mờ (fuzzy
logic) vào điều khiển vector đang là những đề tài nghiên cứu mới trong nghiên
cứu hệ truyền động. Hai kỹ thuật điều khiển mới này sẽ tạo nên những cải tiến
vượt bực cho hệ truyền đồng của máy điện xoaychiều trong một tương lai gần.
15
15

×