Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Chất lượng thẩm định tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cao Bằng - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.76 KB, 85 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chiếm tỷ trọng cao nhất, là hoạt động sinh
lời lớn nhất song cũng mang lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng thương mại. Rủi ro
này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất làm giảm thu nhập, gây thiệt
hại về tài chính cũng như uy tín của cả ngân hàng cũng như doanh nghiệp. Chính vì
vậy, vấn đề chất lượng thẩm định tín và nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng luôn
là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng.
Trong quá trình đổi mới vừa qua, các DNV&N đã được tạo điều kiện thuận lợi
và có sự phát triển đáng kể cả về lượng và chất, có đóng góp tích cực trên nhiều mặt
cho sự phát triển của nền kinh tế. Hiện nay việc mở rộng cho vay đối tượng DNV&N
cho phép phân tán rủi ro cho các ngân hàng thương mại. Để nâng cao hơn nữa chất
lượng, hiệu quả và tăng quy mô đầu tư, hạn chế rủi ro tín dụng DNV&N, các Ngân
hàng thương mại phải không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng đối với
loại hình doanh nghiệp này.
Xuất phát từ thực tiễn quan sát, tìm hiểu nghiên cứu hoạt động tín dụng nói
chung và công tác thẩm định tín dụng DNV&N nói riêng, em đã lựa chọn đề tài
“Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng DNV&N tại Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Cao Bằng” cho chuyên đề thực tâp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chuyên đề chỉ rõ những thành công và những khó khăn trong hoạt động thẩm
định tín dụng đối với khách hàng là DNV&N tại BIDV Cao Bằng. Từ đó chuyên đề
xây dựng và đề xuất các ý kiến mang tính khoa học, thích hợp và có hiệu quả hơn vào
công tác này.
3. Đối tương và phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài về thẩm định tín dụng DNV&N do đó đối tượng nghiên cứu
của đề tài này là toàn bộ những nội dung liên quan đến công tác phân tích, đánh giá
khách hàng là DNV&N trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Phạm vi nghiên cứu
của chuyên đề là nghiên cứu về công tác thẩm định tín dụng khách hàng là DNV&N
tại BIDV Cao Bằng.
1


Chương I
CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ( DNV&N)
1. Khái niệm và đặc điểm của DNV&N
1.1Khái niệm
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt
động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi
nhuận.
Hiện nay doanh nghiệp được xem là một trong những “ tế bào ”chủ yếu nhất.
Chính sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đã tạo nên sức sống mới cho nền kinh
tế. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các DNV&N hiện nay ngày càng thu hút sự
quan tâm của đông đảo dư luận, các cơ quan hoạch định chính sách và các nhà tài trợ
trong và ngoài nước.
Việc đưa ra khái niệm chuẩn về DNV&N sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc
nghiên cứu, hỗ trợ, mở rộng và phát triển DNV&N. Tuy nhiên, khái niệm DNV&N
chỉ mang tính tương đối, nó khác nhau giữa các nước, thay đổi theo thời kỳ phát triển
kinh tế xã hội của từng nước, giới hạn chỉ tiêu DNV&N được quy định trong các
ngành nghề khác nhau. Chỉ tiêu này được quy định trong từng thời kỳ cụ thể và luôn
có sự thay đổi phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, đường lối, chính sách
của từng nước trong từng giai đoạn.
Nhìn chung, việc phân biệt DNV&N với các loại hình doanh nghiệp khác nhau
dựa vào 2 tiêu chí : định tính và định lượng
- Tiêu chí định tính: Tiêu chí này dựa vào những đặc trưng cơ bản của
DNV&N như trình độ chuyên môn hóa, lĩnh vực hoạt động, số đầu mối quản lý...Tiêu
thức định tính có ưu thế phản ánh đúng bản chất của các DNV&N nhưng trên thực tế,
nó lại là tiêu thức khó xác định, nên thường chỉ sử dụng làm cơ sở để tham khảo,
kiểm chứng mà ít được dùng để làm cơ sở phân loại.
- Tiêu chí định lượng: Đây là tiêu thức chủ yếu mà các nước đang sử dụng để
phân loại DNV&N. Tiêu thức này thể hiện trên các yếu tố của doanh nghiệp như số

lượng lao động, số vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận,...Tiêu chí này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế, tính chất ngành nghề, vùng lãnh thổ, tính
chất địa lý, mục đích phân loại,...
2
Ở Việt Nam, để tạo điều kiện cho phát triển các DNV&N, Chính Phủ đã ban
hành các nghị định 90/NĐ-CP ngày 23-11 về trợ giúp phát triển DNV&N, theo điều3
của nghị định này định nghĩa: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỷ đồng, hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng cả hai
chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên ”.
Theo nghị định này thì DNV&N bao gồm :
- Các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp, bao
gồm Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty
hợp doanh.
- Các hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh theo Nghị định số 02/2000/NĐ-
CP của Chính Phủ ngày 03/02/2000.
1.2 Đặc điểm của DNV&N
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một loại hình doanh nghiệp, do đó nó mang đầy
đủ những đặc điểm của một doanh nghiệp song nó cũng mang những đặc trưng riêng
của một DNV&N. Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những đặc trưng cơ
bản sau:
Thứ nhất. DNV&N hoạt động đa dạng, phong phú trong mọi lĩnh vực, mọi
thành phần kinh tế, mọi địa bàn, thu hút nguồn lao động và vốn lớn. Theo thống kê ở
Việt Nam số lượng DNV&N chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp, năm
2005 chiếm khoảng 80%, hiện nay thì số lượng này chiếm khoảng trên 90% và sẽ tiếp
tục gia tăng trong các năm tới. Các DNV&N chiếm khoảng 31% tổng giá trị sản
lượng công nghiệp, chiếm 78% tổng mức bán lẻ,...Cả nước có khoảng 50.000

DNV&N bao gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư
nhân và 2 triệu Hộ gia đình cá thể.
Thứ hai. DNV&N có nguồn vốn nhỏ, vì vậy khả năng mở rộng sản xuất kinh
doanh là khó khăn. Hầu hết các doanh nghiệp ban đầu hoạt động đều dựa vào nguồn
vốn tự có, vốn huy động bên ngoài là rất ít. Do vậy hiện nay các doanh nghiệp trên thị
trường mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ thì phải huy động vốn trên thị trường đặc
biệt là nguồn vốn từ bên ngoài.
3
Thứ ba. DNV&N có bộ máy tổ chức quản lý kinh doanh gọn nhẹ, các mối
quan hệ nội bộ là dễ điều chỉnh, số lượng nhân viên ít, vì thế có tính năng động và
tính linh hoạt cao, thích ứng với sự biến động của thị trường. Doanh nghiệp có thể dễ
dàng thay đổi loại hình kinh doanh trước sự biến động của thị trường. Điều này là
một lợi thế giúp cho DNV&N tiết kiệm thời gian, chi phí, tận dụng được các cơ hội
kinh doanh.
Thứ tư. Sản phẩm DNV&N có lợi thế trong việc nắm bắt nhu cầu thị hiếu của
người tiêu dùng, cung cấp cho thị trường khối lượng lớn sản phẩm với chủng loại đa
dạng, phong phú và đang dần thay thế hàng nhập khẩu, từng bước chiếm lĩnh thị
trường. Tuy nhiên DNV&N có phạm vi hoạt động hẹp, tính ổn định trong thị trường
không cao, hầu hết không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà
thường xuyên thay đổi ngành nghề, cơ cấu mặt hàng.
Thứ năm. Khả năng cạnh tranh trên thị trường của DNV&N là thấp về phương
thức và kinh nghiệm quản lý. Thị trường của các DNV&N chủ yếu là phục vụ các
doanh nghiệp lớn như làm nhà cung ứng nguyên vật liệu, đại lý bán hàng, kênh phân
phối hoặc là những đoạn thị trường còn bỏ ngỏ, có phạm vi nhỏ, độ sâu hạn chế,
những thị trường này chứa đựng nhiều rủi ro và thường xuyên biến động khiến cho
hoạt động của DNV&N không ổn định.
2 Vai trò của DNV&N trong nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, DNV&N có vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, giảm
thất nghiệp và góp phần ổn định xã hội.
Thứ hai, DNV&N cung cấp một khối lượng sản phẩm lớn, đa dạng và phong

phú, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, DNV&N góp phần thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu
các nguồn lực tại địa phương.Thứ tư, DNV&N góp phần quan trọng trong việc tạo
lập sự phát triển cân đối và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ.
Thứ năm, DNV&N góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu và tăng nguồn thu
cho Ngân sách Nhà nước.
Thứ sáu, DNV&N hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp quy mô lớn, là cơ sở để
hình thành doanh nghiệp lớn.
3 Các kênh huy động vốn của DNV&N
4
Các DNV&N với xuất phát điểm là nguồn vốn ít, vốn tự có là rất hạn chế, chỉ
chiếm khoảng 5%-10% nguồn vốn trong kinh doanh, do đó để đáp ứng nhu cầu sản
xuất kinh doanh họ bắt buộc phải huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau. Đối
với DNV&N, họ có thể huy động từ các nguồn sau :
- Kênh huy động vốn không chính thức
+ Vay thông qua mua hàng trả chậm
+ Vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi
+ Vay từ người thân
+ Vay từ những người cho vay nặng lãi
Ở Việt Nam, vốn huy động không chính thức chiếm tỷ lệ khá cao. Điều kiện
vay vốn ở kênh này là khá đơn giản chủ yếu là tín chấp, thoả thuận miệng mà không
cần hợp đồng. Tuy nhiên kênh phân phối này cũng có nhiều hạn chế như lãi suất cho
vay cao, thời hạn ngắn, môi trường quản lý chưa chặt chẽ dẫn đến rủi ro.
- Kênh huy động vốn chính thức
+ Nguồn vốn hỗ trợ từ chính phủ và các tổ chức phi chính phủ.
+ Nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức quốc tế : ODA, FDI, ADB,...
+ Nguồn vốn huy động trên thị trường chứng khoán: Bằng cách phát hành
trái phiếu hoặc bán cổ phiếu ra công chúng doanh nghiệp sẽ huy động được lượng
vốn mà mình cần. Hiện nay đã có một số DNV&N niêm yết trên thị trường chứng
khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên để có thể huy động vốn trên thị

trường này các doanh nghiệp cần phải có uy tín, hoạt động hiệu quả, có khả năng phát
triển.
+ Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Đây là kênh huy động vốn chính của các
DNV&N. Song hiện nay, các ngân hàng còn rất hạn chế cho vay đối tượng này, vì các
DNV&N chưa đáp ứng được các yêu cầu cần thiết để được vay vốn dẫn đến nguy cơ
rủi ro cho các ngân hàng.
II. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM) đối với
DNV&N
1. Khái niệm tín dụng của NHTM
Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá ) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp, và
các chủ thể khác), trong đó bên đi vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay
5
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh
toán.
Từ khái niệm trên, bản chất tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả và có các đặc trưng sau:
• Tài sản giao dịch trong quan hệ ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay
(bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về
trước, hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính
đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với
nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài
chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách
hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng
tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc - thiết bị)
• Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài
sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn.
Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế, một số nhân viên
tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về

khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng. Cần lưu ý rằng các bậc tiền bối đã bằng từ “credo”
hoặc “tín” để đặt tên cho “credit” hoặc “tín dụng” không phải là vấn đề ngẫu nhiên.
• Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên
tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác
phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát).
Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên trong một số
trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn
tại trong một giai đoạn ngắn.
• Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn
trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như
hợp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu (promissory note), trong đó bên
đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
2. Vai trò tín dụng của NHTM đối với DNV&N
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các hình thức của tín dụng ngân
6
hàng cũng ngày càng đa dạng, phong phú và hiện đại, vai trò tín dụng của ngân hàng
ngày càng tăng lên, đặc biệt đối với DNV&N .
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ hỗ trợ sự ra đời và phát triển
của các DNV&N. tín dụng ngân hàng không những hỗ trợ vốn cho các DNV&N
trong quá trình hợt động và phát triển mà ngay từ khi hình thành và đi vào hoạt động
ban đầu, nếu không có nguồn hỗ trợ tích cực của tín dụng từ ngân hàng thì nhiều
doanh nghiệp cực kỳ khó khăn, thậm chí không hình thành được.
Tín dụng ngân hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho DNV&N phát triển.
Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thường dựa vào ba nguồn vốn chủ yếu là
vốn từ ngân sách, vốn ngân hàng và vốn tự có. Tuy nhiên, đối với DNV&N nguồn
vốn ngân sách cấp rất ít ỏi, nguồn vốn tự có thì hạn chế. Chính vì vậy tín dụng ngân
hàng là nguồn vốn quan trọng giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Tuy nhiên,

trong thực tiễn không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng
từ ngân hàng. Sự mở cửa của thị trường vốn tín dụng ngân hàng còn tuỳ thuộc vào
môi trường đầu tư và các yếu tố liên quan khác. Các ngân hàng có khả năng huy động
mọi nguồn vốn trong nền kinh tế và các tầng lớp dân cư để đáp ứng vốn cho các
doanh nghiệp. Việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thích hợp, tạo điều kiện
khuyến khích người gửi tiền vào ngân hàng đã làm cho nguồn vốn của ngân hàng
luôn tăng trưởng trong những năm qua. Việc huy động vốn của ngân hàng liên tục
tăng lên, song khả năng vay vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung,
đặc biệt các DNV&N còn bị ràng buộc bởi thể chế tín dụng và môi trường pháp lý
chưa đồng bộ nên việc doanh nghiệp thiếu vốn là điều tất yếu trong nền kinh tế thị
trường.
Tín dụng ngân hàng giúp DNV&N nâng cao năng lực cạnh tranh. Tín dụng
ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả
gốc và lãi, nếu quá hạn doanh nghiệp phải chịu lãi phạt cao, điều này thúc đẩy các
doanh nghiệp, trong đó có DNV&N nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn.
Nếu như trước đây, các doanh nghiệp cạnh tranh chủ yếu thông qua giá cả của sản
phẩm thì ngày nay với xu thế toàn cầu hoá, cạnh tranh lại chuyển sang chất lượng và
mẫu mã sản phẩm. Muốn cạnh tranh được, đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng
đổi mới công nghệ, đặc biệt đối với DNV&N nước ta thì đổi mới công nghệ không
những đòi hỏi để phát triển mà còn cấp thiết cho sự tồn tại. Vì vậy tín dụng của ngân
hàng là nguồn vốn quan trọng giúp các DNV&N có thể đổi mới thiết bị công nghệ.
7
Tín dụng ngân hàng điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, khuyến khích phát huy lợi
thế về tài nguyên và kỹ thuật truyền thống để phát triển DNV&N. Tính linh hoạt và
kịp thời vốn có của tín dụng ngân hàng có vai trò điều chỉnh mọi mối quan hệ vay
vốn giữa DNV&N đối với ngân hàng. Mặt khác, kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, ngân hàng trở thành người đi vay để cho vay, song điều đó không hề phủ
nhận vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động của khu vực này. Bởi
vậy, chiến lược kinh doanh nói chung và nói riêng của ngân hàng đều bao trùm trong
đó vai trò điều chỉnh cơ cấu và khuyến khích phát triển DNV&N theo mục tiêu của

Đảng và Nhà nước.
Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống các yếu tố
“đầu vào” và “đầu ra” cho các DNV&N. Đa số các DNV&N có vốn lưu động tự có
rất thấp so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư, hàng hoá dự trữ cho sản
xuất kinh doanh chủ yếu được bù đắp bằng vốn tín dụng ngân hàng. Mặt khác, tín
dụng ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh
nghiệp thông qua mở rộng tín dụng tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức
kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên ngân hàng
chỉ cho vay những đối tượng hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh tốt, qua
đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới theo hướng tiến lên hiện đại.
3. Các hình thức tín dụng của NHTM
Dựa theo nhu cầu tài trợ vốn của DNV&N, ngân hàng thường phân theo tiêu
thức thời hạn cấp tín dụng. Khi đó sẽ có hai hình thức tín dụng là : Tín dụng ngắn
hạn, tín dụng trung và dài hạn.
a. Tín dụng ngắn hạn : Là khoản cho vay mà thời hạn không quá 12 tháng
nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như bổ sung ngân quỹ, đảm bảo
yêu cầu vốn thanh toán đến hạn, bổ sung nhu cầu vốn lưu động,... Đây là
loại tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được
các rủi ro về lãi suất, lạm phát cũng như sự bất ổn của môi trường kinh tế.
Vì thế lãi suất thường thấp hơn so với loại tín dụng khác
Có hai hình thức tín dụng ngắn hạn :
- Tín dụng ứng trước : Là hình thức ngân hàng ứng trước tiền cho doanh nghiệp
để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn. Có hai phương thức ứng trước
là : cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Cho vay từng lần là
việc cấp tín dụng dựa trên cơ sở nhu cầu cho vay của từng đối tượng cụ thể .
Cho vay theo hạn mức tín dụng là sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách
8
hàng về việc ngân hàng sẽ dành cho doanhh nghiệp một mức dư nợ nhất định
trong một thời gian xác định và doanh nghiệp có thể rút bất cứ lúc nào trong
thời gian đó. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng mà các NHTM Việt

Nam thường áp dụng là thấu chi. Thấu chi là phương pháp ngân hàng chấp
nhận cho doanh nghiệp rút tiền vượt quá một mức nhất định và trong một thời
gian nhất định.
- Chiết khấu : Là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó doanh nghiệp sẽ
chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn để đổi lấy một số
tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ lãi chiết khấu và phí hoa hồng ( nếu
có ). Chiết khấu là một nghiệp vụ đơn giản, ít rủi ro, mức sinh lời cao.
b. Tín dụng trung và dài hạn: Là loại tín dụng mà ngân hàng cung cấp nhằm tài
trợ cho nhu cầu vốn thường xuyên của doanh nghiệp, tài trợ cho tài sản cố
định và một phần tài sản lưu động không thay đổi của doanh nghiệp. Thời hạn
của tín dụng trung và dài hạn là trên 1 năm, từ 1 đến 5 năm là tín dụng trung
hạn và trên 5 năm là tín dụng dài hạn. Đây là hình thức tài trợ có mức độ rủi
ro cao do thời gian hoàn vốn chậm, giá trị khoản vay lớn, vì vậy so với tín
dụng ngắn hạn thì lãi suất cho vay bao giờ cũng cao hơn.
Tín dụng trung và dài hạn gồm có các hình thức sau :
- Tín dụng trung, dài hạn theo dự án đầu tư: Là việc ngân hàng cho khách
hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Tín dụng tuần hoàn : Được coi là tín dụng trung dài hạn khi thời hạn của
hợp đồng được kéo dài trên 1 năm trong đó ngân hàng cam kết dành cho
doanh nghiệp một hạn mức tín dụng. Khách hàng rút tiền ra khi cần và trả
được nợ khi có nguồn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
- Cho vay đồng tài trợ : Là quá trình cho vay của một nhóm TCTD ( từ hai
TCTD) cho một dự án do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối hợp với
các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của các TCTD. Cho vay
hợp vốn được thể hiện chủ yếu qua 2 phương thức : cho vay hợp vốn trực
tiếp và cho vay hợp vốn gián tiếp. Cho vay hợp vốn trực tiếp là phương
thức cho vay trong đó các ngân hàng tham gia đều ký kết một hợp đồng tín
dụng riêng đối với doanh nghiệp xin vay, doanh nghiệp và mỗi ngân hàng

9
chỉ có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với hợp đồng mà hai bên đã ký kết,
ngoài ra đối với các hợp đồng khác họ không chịu trách nhiệm liên quan.
Còn đối với cho vay hợp vốn gián tiếp là phương thức cho vay mà có nhiều
ngân hàng cùng tài trợ vốn cho doanh nghiệp nhưng chỉ thông qua một hợp
đồng tín dụng duy nhất giữa một ngân hàng làm đại diện với doanh nghiệp.
Vì thế có thẻ có hai trường hợp xảy ra : có thể mỗi ngân hàng là một thành
viên trong hợp đồng tín dụng, khi đó trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi ngân
hàng thành viên trong hợp đồng tín dụng cao hơn và ngược lại doanh
nghiệp vay vốn phải có trách nhiệm hoàn trả vốn vay đối với các ngân
hàng thành viên trong hợp đồng tín dụng. Với trường hợp ngân hàng tham
gia cho vay không phải là thành viên trong hợp đồng tín dụng thì ngân
hàng tham gia không có quan hệ pháp lý hoặc nghĩa vụ trực tiếp với doanh
nghiệp đi vay.
4. Rủi ro tín dụng trong cho vay DNV&N
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất
của ngân hàng thương mại - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ
cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là
cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín
dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có
thể dự đoán chính xác vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có
thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng không có khả
năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ
ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm
nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế,
chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến
lược hoạt động chung của ngân hàng.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Quản lý rủi ro tín dụng cần
xác định những nguyên nhân cụ thể, xác thực gây rủi ro tín dụng để có biện pháp hạn
chế.

Những nguyên nhân gây bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất
khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay
đổi tầm vĩ mô (thay đổi Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…) vượt
quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
10
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, với
bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn.
Trong những trường hợp khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả
nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên
nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu
kém trong quản lý, chủ định lừa đảo các bộ ngân hàng, chây ì… là nguyên nhân gây
rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi
nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó
với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc, …Nhiều người vay đã không
tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể
xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong
trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng
đúng thời hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu
càng tốt.
Chất lượng cán bộ kém không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá
không tốt, cố tình làm sai,…là một trong nhưng nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
Nhân viên ngân hàng phải tiép cận với nhiều nghành nghề, nhiều vùng, thậm chí
nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng
kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề
liên quan đến người vay…Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng,
liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa
đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống trong môi trường
“tiền bạc”, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ
tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân viên ngân hàng

bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro
tín dụng.
Để hạn chế rủi ro tín dụng thì một trong những nội dung quan trọng ngân hàng
cần phải làm là nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng trước khi cấp tín dụng cho
khách hàng.
III. Phương pháp đánh giá chất lượng thẩm định tín dụng đối với
DNV&N của NHTM
1. Sự cần thiết của công tác thẩm định tín dụng trong cho vay DNV&N
11
Nghiệp vụ cho vay mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, song con
đường tìm kiếm lợi nhuận của các ngân hàng luôn gặp phải một rào cản đó là rủi ro.
Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro các ngân hàng đã áp dụng nhiều biện pháp, trong đó
biện pháp cơ bản, có vị trí quan trọng số một là phải phân tích, đánh giá khách hàng
một cách toàn diện. Nếu khách hàng được đánh giá là tốt thì sẽ được ngân hàng xem
xét cho vay. Ngược lại, nếu khách hàng nào không đáp ứng được yêu cầu của ngân
hàng thì ngân hàng có quyền từ chối cho vay.
Nội dung của việc thẩm định tín dụng là ngân hàng phân tích, đánh giá mọi
khía cạnh của doanh nghiệp : năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự,
năng lực tài chính, năng lực kinh doanh, thẩm định phương án. dự án kinh
doanh,...Kết quả thu được từ quá trình phân tích, đánh giá là cơ sở cho ngân hàng đưa
ra các quyết định tín dụng như : giá trị tài trợ, lãi suất tài trơ, thời hạn cho vay. Đây
cũng là cơ sở để ngân hàng thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Thông qua hoạt động thẩm định tín dụng ngân hàng đã giảm được sự không
cân xứng về thông tin giữa ngân hàng và doanh nghiệp, giúp cho ngân hàng giảm
thiểu rủi ro khi cấp tín dụng. Với các cán bộ làm công tác tín dụng có kinh nghiệm
thực tế, tiếp xúc với nhiều dự án trong các lĩnh vực khác nhau, mặt khác họ lại dứng ở
vị trí khách quan là người cung ứng vốn khi thực hiện thẩm định dự án, phương án
của doanh nghiệp có thể đưa ra những lời khuyên có giá trị cho doannh nghiệp, nâng
cao tính khả thi của dự án.
Như vậy công tác thẩm định khách hàng là DNV&N trong hoạt động tín dụng

là hết sức cần thiết và cực kỳ quan trọng, đòi hỏi ngân hàng cần có sự đầu tư cả về tài
chính, con người, công nghệ để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng.Việc nâng
cao chất lượng tín dụng sẽ giúp ngân hàng lựa chọn chính xác các phương án, dự án
khả thi để cho vay, đẩy mạnh hoạt động cho vay một cách có hiệu quả, giảm thiểu các
rủi ro. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng,
sự phát triển của DNV&N mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy
mở rộng phát triển, hiệu quả cho nền kinh tế
2. Nguồn thông tin làm cơ sở cho công tác thẩm định tín dụng
Thông tin để phân tích, đánh giá DNV&N nhìn chung gồm hai loại : thông tin
tài chính và thông tin phi tài chính. Các thông tin này có thể thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau.
a. Thông tin trong hồ sơ vay của khách hàng :
12
Khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn sẽ gửi bộ hồ sơ tới ngân hàng, tuỳ theo
từng hệ thống ngân hàng mà các ngân hàng sẽ thực hiện theo văn bản hướng dẫn về
các tài liệu mà doanh nghiệp cần gửi cho ngân hàng. Trong hệ thống BIDV thì bộ hồ
sơ mà doanh nghiệp cần lập và gửi đến ngân hàng bao gồm :
- Hồ sơ pháp lý : chứng minh năng lực pháp lý của doanh nghiệp.
- Hồ sơ khoản vay : Chứng minh khả năng tài chính của doanh nghiệp trong
việc sử dụng vốn và khả năng hoàn trả vốn của doanh nghiệp.
- Hồ sơ về phương án, dự án : chứng minh mục đích vay vốn.
- Hồ sơ bảo đảm tiền vay
b. Thông tin từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp với chủ doanh nghiệp ( hoặc
người đại diện )
Các thông tin này một mặt giúp cho ngân hàng xác minh được các thông tin
trong hồ sơ, ngân hàng có thể có thời gian tìm hiểu những thông tin có liên quan về
khoản vay mà nó không được thể hiện trong hồ sơ. Mặt khác thông qua việc phỏng
vấn, tiếp xúc trực tiếp giúp cho CBTD cảm nhận về tính cách, phẩm chất đạo đức của
chủ doanh nghiệp.
c. Thông tin từ bên ngoài ngân hàng bao gồm :

- Thông tin từ những nhà cung cấp, những nhà phân phối cho doanh nghiệp :
mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp, các nhà phân phối sẽ được quyết
định việc thanh toán đúng hạn và đủ giá trị.
- Thông tin thu được từ các tổ chức cung cấp thông tin. Đây là nguồn thông
tin có độ tin cậy cao và có giá trị. Ngân hàng phải trả phí khi sử dụng thông
tin này. Hiện nay ở Việt Nam đã có Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
trực thuộc NHNN, trung tâm này tập hợp được một lượng lớn các thông tin
về các doanh nghiệp trong cả nước : tình hình kinh doanh, tình hình nhân
sự, điều hành, lịch sử tín dụng của các doanh nghiệp,...phục vụ cho công
tác phân tích tín dụng của các NHTM.
- Thông tin từ bên ngoài khác : các thông tin từ các cơ quan hữu quan, cơ
quan chủ quản của các DNV&N, từ phương tiện thông tin đại chúng ( báo,
tạp chí ), từ các ngân hàng khác,... đã giúp cho ngân hàng có cơ sở vững
chắc để đưa ra quyết định tín dụng hợp lý.
- Thông tin thu thập được qua điều tra tại cơ sở hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, giúp cho CBTD có cái nhìn thực tế về tình hình hoạt động
13
của doanh nghiệp : cơ sở vật chất, cơ cấu tổ chức, số lượng lao động, sổ
sách kế toán,...
d. Thông tin từ nội bộ ngân hàng
Đây là thông tin mà ngân hàng có được trong quá trình hoạt động cung ứng
dịch vụ cho doanh nghiệp. Nó vô cùng quan trọng và đáng tin cậy để ngân hàng phân
tích, đánh giá khách hàng. Mối quan hệ tín dụng bên trong quá khứ, việc chấp hành
về thời hạn trả nợ sẽ là cơ sở để ngân hàng tin tưởng vào khả năng trả nợ của doanh
nghiệp.
Từ những thông tin thu thập từ các nguồn khác nhau, áp dụng các phương
pháp phân tích đánh giá CBTD sẽ thu được những thông tin mới có giá trị hơn các
thông tin ban đầu phục vụ cho công tác ra quyết định tín dụng..
3. Quy trình thẩm định tín dụng
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách

hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là các bước
(hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân
hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.

Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất, chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ
yếu là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử
dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu
các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lý thông tin:
Phỏng vấn trực tiếp là rất quan trọng, bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân
hàng và người vay vốn: Thăm quan nhà xưởng văn phòng, nói chuyện với giám đốc
và người lao động, xem xét vật thế chấp…Phỏng vấn trực tiếp giúp cán bộ ngân hàng
loại trừ các báo cáo “ma”, cảm nhận cái đang diễn ra…
Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian (qua các thông tin quản
lý, qua các bạn hàng chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư
vấn). Rất nhiều người vay lần đầu tiên đến với ngân hàng, hoặc chuyển từ ngân hàng
này sang ngân hàng khác. Tìm hiểu khách hàng này trong thời gian ngắn là không
đơn giản. Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian giúp phân tích người
14
vay qua các mối liên hệ của họ, cho thấy uy tín, tình trạng rủi ro, phát triển hay suy
thoái.
Thông qua các thông tin có được từ báo cáo của người vay. Ngân hàng luôn
yêu cầu người vay vốn phải gửi cho ngân hàng các báo tài chính như bảng cân đối kế
toán (bảng cân đối tài sản), báo cáo thu nhập, báo cáo bán hàng…ngân hàng cũng yêu
cầu hoặc mua các thông tin về giám đốc, đội ngũ nhân sự, công nghệ,…của khách
hàng. Các báo cáo này cho thấy các số liệu trong nhiều năm đã qua, vì vậy giúp ngân
hàng có cơ sở để dự đoán về tình hình của khách hàng trong tương lai gần. Ngân hàng
sử dụng các báo cáo này để ước tính nhu cầu vốn, trong đó có nhu cầu tài trợ, các
thiệt hại có thể xảy ra nếu khách hàng không trả, hoặc không trả đầy đủ, giá trị các tài

sản có thể phát mại khi cần thiết…
Nội dung thẩm định bao gồm:
• Thẩm định tư cách và uy tín của doanh nghiệp
• Thẩm định năng lực pháp lý của doanh nghiệp
• Thẩm định điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp
• Thẩm định tài chính của doanh nghiệp
• Thẩm định phương án kinh doanh, dự án đầu tư của doanh nghiệp
Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tin dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ
(khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách
hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi
suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính tính pháp luật xác định quyền
và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều
khoản của pháp luật, quy định. Do vậy cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cần cân nhắc
kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Sau đây là nội dung chính của hợp đồng
tín dụng:
 Khách hàng: họ tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân(nếu có)
 Mục đích sử dụng: khách hàng phải ghi rõ vay để làm gì.
 Số lượng tín dụng: là số tiền (hoặc hạn mức tín dụng) ngân hàng cam kết cấp
cho khách hàng. số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời gian
khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau.
15
 Lãi suất: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng trả đồng thời
xác định tính chất của lãi suất (là lãi suất cố định hay biến đổi trong suốt kỳ hạn tín
dụng). Nếu lãi suất có thay đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó.
 Phí: để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho ngân
hàng một khoản phí (ví dụ phí cam kết) được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức
cam kết. Mức phí và các điều kiện nộp phải được thể hiện trong hợp động tín dụng.
 Thời hạn tín dụng: Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày,
tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam

kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể tính từ lúc đồng
vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu
về. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại
quan hệ tín dụng với khách hàng. Có khoản cho vay không xác định trước thời hạn
như cho vay luân chuyển. Khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng
được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có
tiền. Thời gian tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân hạn và
thời gian trả nợ; thời gian trả nợ có thển được chi thành nhiều kỳ hạn trả nợ nhỏ.
Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại của thương phiếu. Thời hạn bảo
lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh, được thỏa thuận ghi trong hợp đồng bảo
lãnh. Nếu là cho thuê, thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách
hàng đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê.
 Các loại đảm bảo: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có)
cho các khoản tín dụng (kèm theo các hợp đồng phụ) như hợp đồng bảo lãnh, vật tư
hàng hoá trong kho, tài sản cố định, hoặc các chứng khoán có giá…Các nội dung
quan trọng liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc
bán, định giá, bảo hiểm, người bảo quản, quyền sử dụng đối với các đảm bảo…đều
phải được xác định và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.
 Giải ngân: Hợp đồng tín dụng thường xác định các điều kiện và kỳ hạn giải
ngân. Thường các khoản cho vay nhỏ và trong thời gian ngắn, ngân hàng cấp tiền vay
môt lần vào đầu kỳ. Đối với các khoản vay lớn và trong thời gian dài, ngân hàng cấp
tiền theo nhiều kỳ hạn và với các điều kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn. Ví dụ, hợp
đông ký cho vay 300 triệu trong thời hạn 9 tháng để thanh toán tiền hàng nhập khẩu.
Điều kiện giả ngân là hàng nhập về đến đâu cho vay đến đó (kèm chứng từ), hoặc trả
song khoản vay đợt trước mới cấp tiền đợt sau.
16
 Điều kiện thanh toán: bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng và
khách hàng thoả thuận về cách thức thanh toán gốc và lãi (ngày trả, cách trả).
 Các điều kiện khác: bao gồm các thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng
về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay,

phong toả tài sản, điều kiện và phương thức phát mại tài sản, nộp báo cáo định kỳ,
phạt vi phạm hợp đồng…
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp
tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp
tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng
tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu
hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ…Quá trình này cho phép ngân hàng thu nhập thêm
các thông tin về khách hàng. nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy
chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị
đe dọa, ngân hàng cần có các biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi
nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng
có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay…khi thấy cần
thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do
vậy cho tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ
sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng chính là quá trình
ngân hàng thu nhập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra các
quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín
dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số
trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ, đúng hạn.
việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “trục trặc” trong hoạt
động của khách hàng. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân
hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín
dụng.
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa,
hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án
17
thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ, bao gồm

phong tỏa và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi…
Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm
cách khắc khục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm
gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
4. Nội dung thẩm định tín dụng
4.1 Thẩm định tư cách và uy tín của doanh nghiệp
Tư cách và uy tín của doanh nghiệp đi vay là vấn đề quan trọng đầu tiên ngân
hàng quan tâm. Tư cách của doanh nghiệp thể hiện ở thiện chí trả nợ, còn uy tín của
doanh nghiệp thể hiện ở lòng tin của các chủ thể kinh tế có quan hệ kinh doanh với
doanh nghiệp. Ngân hàng thường gặp khó khăn trong trong việc phân tích, đánh giá
tư cách, uy tín của doanh nghiệp có quan hệ lần đầu với ngân hàng. Vì vậy, việc thẩm
định tư cách, uy tín của khách hàng phải dựa trên những thông tin về doanh nghiệp và
kỹ năng, kinh nghiệm của cán bộ thẩm định tín dụng. Ngân hàng cần xem xét và làm
rõ những vấn đề sau:
• Các thông tin mà doanh nghiệp trình bày có nhất quán với những thông tin
trong bộ hồ sơ mà doanh nghiệp cung cấp hay không ?
• Những thông tin trong quá khứ của doanh nghiệp có tốt hay không? Những
thông tin này thể hiện trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong
những năm trước và thông tin những lần vay nợ trước. Các hoạt động trong quá khứ
của doanh nghiệp cho thấy cách thức kinh doanh, phẩm chất đạo đức cũng như văn
hoá kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó phản ánh chính xác tư cách cũng như uy tín
của doanh nghiệp.
• Những lý lẽ mà doanh nghiệp đưa ra để thuyết phục vay vốn ngân hàng có
cường điệu quá trong điều kiện hiện tại hay không? Ngân hàng cần phải so sánh
những vấn đề khách hàng trình bày với điều kiện thực tế. Nếu doanh nghiệp cường
điệu những khả năng hiện có của mình, biến những bất lợi thành tiềm năng, cơ hội có
tính khả thi cao thì chứng tỏ tư cách của doanh nghiệp là không tốt và ngân hàng cần
xem xét kỹ.
• Đối với những doanh nghiệp lần đầu có quan hệ với ngân hàng thì ngân hàng
cần xem xét, tìm hiểu kỹ tại sao doanh nghiệp lại tìm đến ngân hàng mình chứ không

phải ngân hàng khác. Đặc biệt là mối quan hệ của doanh nghiệp với những ngân hàng
trước.
18
4.2 Thẩm định năng lực pháp lý của doanh nghiệp
Năng lực pháp lý là khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghĩa vụ
phải thực hiện. Đối với doanh nghiệp đi vay thì năng lực pháp lý của doanh nghiệp
chính là khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghĩa vụ trả nợ. Một doanh
nghiệp có năng lực pháp lý phải thoả mãn những điều kiện sau :
- Được nhà nước hoặc pháp luật thành lập hoặc thừa nhận.
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm trước
tài sản đó.
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Để đánh giá được tư cách pháp nhân của DNV&N, ngân hàng thường đòi hỏi
doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng các tài liệu như : quyết định thành lập doanh
nghiệp, giấy phép dăng ký kinh doanh do cấp có thẩm quyền cấp, quyết định bổ
nhiệm giám đốc hay những tài liệu chứng minh quyền điều hành hợp pháp của lãnh
đạo doanh nghiệp. Mục đích của việc đánh giá năng lực pháp lý của doanh nghiệp để
đảm bảo rằng ngân hàng sẽ được pháp luật bảo vệ khi các doanh nghiệp vi phạm các
cam kết.
4.3 Thẩm định năng lực kinh doanh của doanh nghiệp
Ngân hàng thường đánh giá năng lực kinh doanh của doanh nghiệp dưới 2 góc
độ : Nguồn lực và năng lực điều hành của doanh nghiệp
- Nguồn lực của doanh nghiệp : Bao gồm nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực
của doanh nghiệp. Nguồn lực vật chất đó là : cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật,
nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào, quy mô, hiện trạng TSCĐ, khả năng khai
thác công suất tài sản, các tài sản vô hình của doanh nghiệp,...trong đó phải kể
đến tính tiên tiến và hiện đại của tái sản đó. Nguồn nhân lực là số lượng lao
động và chất lượng lao động có khả năng đáp ứng kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp,nguồn nhân lực cần đáp ứng các yêu cầu tối thiểu

như : trình độ, kỹ năng, văn hóa,...
- Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp : còn thể hiện ở năng lực điều hành
của lãnh đạo doanh nghiệp. Khi xem xét phân tích, CBTD cần đánh giá họ về
năng lực chuyên môn, năng lực điều hành, năng lực tài chính và uy tín người
19
lãnh đạo,... Điều hành được thể hiện trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp như : khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh, cách thức phản ứng với sự
thay đổi của thị trường, uy tín trong nội bộ và uy tín với các bạn hàng, kiến
thức, kinh nghiệm trong quản lý doanh nghiệp,..
4.4 Thẩm định môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm môi trường vi mô và môi trường vĩ mô
- Môi trường vĩ mô : Là tổng thể các nhân tố về kinh tế, văn hoá xã hội,
chính sách điều hành của nhà nước, lạm phát, tỷ giá,... ảnh hưởng tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi nền kinh tế đang trong
thời kỳ tăng trưởng doanh nghiệp có cơ hội mở rộng sản xuất vì vậy vốn
vay từ ngân hàng sẽ phát huy hiệu quả, doanh nghiệp có xác suất vỡ nợ
thấp. Còn khi nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái điều kiện kinh
doanh sẽ trở nên khó khăn hơn cho doanh nghiệp, việc cho doanh nghiệp
vay cần được xem xét kỹ lưỡng mục đích vay. Hay khi nhà nước có chính
sách ưu tiên cho phát triển DNV&N thì việc cho vay với các doanh nghiệp
cũng sẽ được các ngân hàng khuyến khích.
- Môi trường vi mô : là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh của DNV&N. Bao gồm các nhân tố : Người cung cấp, người
mua, sự gia nhập ngành, sản phẩm thay thế. Với DNV&N hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất thì nhà cung cấp đóng vai trò quyết định số lượng và chất
lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp bị phụ thuộc vào nhà cung cấp thì có
thể xảy đến tình trạng các nhà cung cấp câu kết với nhau trong hạn chế
nguồn cung ứng, hoặc nâng giá bán, hạ chất lượng. CBTD cần tư vấn cho
doanh nghiệp đa dạng hoá nguồn hàng cung cấp hoặc tìm các nguyên vật

liệu thay thế.
CBTD cũng cần phải xem xét mặt hàng kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp
là gi ? Đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng như thế nào? Sản phẩm này có nhiều sản
phẩm thay thế khác trên thị trường hay không? Tính khác biệt của sản phẩm doanh
nghiệp?...Dự báo xu hướng biến đổi của người mua kết hợp với kế hoạch phát triển
của doanh nghiệp trong tương lai để đánh giá tiềm năng phát triển của doanh nghiệp.
20
Tóm lại, thông qua phân tích, đánh giá môi trường kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ giúp cho CBTD có cơ sở đánh giá cơ hội và thách thức của doanh nghiệp.
Từ đó đưa ra những lời tư vấn cho doanh nghiệp khi thực hiện.
4.5 Thẩm định năng lực tài chính của doanh nghiệp
Thẩm định năng lực tài chính của khách hàng
Đánh giá tài sản của khách hàng:
Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản), trong đó
phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung
bình trong kỳ. Đối với hộ, hoặc người tiêu dùng ngân hàng yêu cầu các thông tin về
tình hình kinh doanh, tài sản cá nhân, lương và các khoản thu nhập khác. Các thông
tin về tài sản cho thấy quy mô, chất lượng tài sản, khả năng quản lý của khách hàng
rất quan trọng đối với quyết định cho vay. Hơn nữa, tài sản (tất cả hoặc một phần )
của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ
khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
• Ngân quỹ: Bao gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải
thu. Tiền gửi và tiền mặt là tài sản có thể dùng để chi trả ngay, song thường chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng tài sản của khách hàng. Các khoản phải thu (chủ yếu là tiền bán
hàng hoá và dịch vụ chưa thu được tiền ) luôn có khả năng chuyển thành tiền gửi
hoặc tiền mặt. Ngân hàng cần xem xét kỹ các khoản này để loại trừ các khoản bán
chịu không thu được, khó thu được hoặc đã bán lại cho người khác. Các khoản cho
vay ngắn hạn liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân quỹ của khách hàng, đặc biệt thời
hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số ngày của kỳ thu tiền.
• Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các tài

sản này tăng nguồn thu và có thể mang bán khi thiếu tiền mặt để chi trả.
• Hàng hoá trong kho: Rất nhiều các món vay ngắn hạn với mục tiêu tăng dự
trữ hàng hoá, có nghĩa là một phần hàng hoá trong kho được hình thành từ vốn ngân
hàng. Do đó, ngân hàng quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo hiểm,
rủi ro đối với hàng hoá trong kho. Ngoài xem xét trên sổ sách, ngân hàng còn yêu cầu
người vay mở kho hàng kiểm tra để loại trừ hàng hoá kém, mất phẩm chất, chậm tiêu
thụ, phát hiện hàng giả, hàng người khác gửi…
• Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận
chuyển, thiết bị văn phòng…thường là đối tượng tài trợ trung và dài hạn.
21
Đánh giá các khoản nợ
Nợ của người vay có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Về thời gian: gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay
trung và dài hạn); ngân hàng còn xem xét các khoản nợ đế hạn trong năm (các khoản
nợ ngắn và trung, dài hạn phải trả trong năm) và các khoản nợ phải trả trong các năm
sau. Nhìn chung, các khoản vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động,
còn các tài khoản trung và dài hạn dùng tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, tính tương
quan giữa chúng là đối tượng phân tích của ngân hàng. Nếu khoản cho vay của ngân
hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn của ngân quỹ trong năm của khách
hàng là hai yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân hàng. Ngân hàng cũng quan tâm
tới nợ quá hạn và các nguyên nhân.
Ngân hàng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của khách hàng: Có thể là các khoản
nợ cũ, các khoản nợ của ngân hàng khác, nợ người cung cấp, nợ người lao động. Vị
trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kỹ lưỡng. Nếu ngân
hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó dễ dàng thu được nợ hơn là vị trí khác.
Ngân hàng cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và nợ khác. Các
tài sản đã là đảm bảo cho khoản vay cũ cần phải được tính lại theo giá thị trường và
bị loại trừ; nếu chúng được lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính
toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ.
Phân tích luồng tiền

Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí có khả năng tạo ra
lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt chẽ tới
ngân quỹ của người vay (ví dụ cho vay tiêu dùng, nguồn trả nợ là các khoản thu nhập
bằng tiền của người vay, kỳ hạn thu nợ có thể lệch pha với các khoản thu của người
vay). Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng sinh lời, trên thực
tế, tỷ lệ dòng tiền /tổng các khoản nợ là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với việc dự đoán
các vấn đề tín dụng trong tương lai. Tuy nhiên, nhiều khoản mục liên quan đến dòng
tiền không được chỉ dẫn đầy đủ trong cân đối tài sản công ty: Phần lớn luồng tiền sau
tháng 12 đều không ghi vào bảng cân đối (các tài khoản chỉ ghi lại nhữ gì đã xảy ra
trong năm vừa qua), phần lớn các trách nhiệm thanh toán không được chỉ ra trong cân
đối khi mà vào thời điểm đó nó không tồn tại. Bán hàng là nguồn tiền quan trọng để
trả nợ song bảng cân đối trình bày rất ít về bán hàng.
22
Để hỗ trợ cho ngân hàng và khách hàng, các luồng tiền trong tương lai- phụ
thuộc vào kế hoạch chi tiêu trong tương lai- cần được dự kiến. Kế hoạch này ghi lại
vận động hàng tháng của các khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản thanh
toán hàng tháng. Người vay có lợi nhuận trong hiện tại có thể có dự án chi trong
tương lai cao và với doanh thu bán hàng không đổi, sẽ có thể có luồng tiền âm (không
có khả năng chi trả).
Phân tích tài chính doanh nghiệp thông qua các hệ số tài chính
Các chỉ tiêu chính dùng để phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được chia
làm bốn nhóm sau:
Nhóm các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Chỉ tiêu Khả năng thanh toán ngắn hạn : chỉ tiêu này thường được dùng trong
việc đo lường khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này có thể tính được
dựa vào số liệu từ Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp qua công thức sau
Khả năng thanh toán ngắn hạn =
Chỉ tiêu này cho thấy doanh nghiệp có đủ tài sản lưu động có thể chuyển đổi
ra tiền trong thời gian ngắn để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không. Rõ ràng
chỉ tiêu này cần phải lớn hơn 1, nếu không doanh nghiệp dễ gặp khó khăn trong thanh

toán nợ đúng hạn.
Nhược điểm của chỉ tiêu này là cho thấy tỷ lệ giữa TSLĐ và ĐT ngắn hạn và
Nợ ngắn hạn nhưng không cho thấy độ lớn tuyệt đối chênh lệch giữa hai khoản mục
này, từ đó không cho thấy khả năng thanh toán thực tế của doanh nghiệp khi so sánh
hai doanh nghiệp có cùng tỷ lệ thanh toán ngắn hạn. Để khắc phục nhược điểm của
chỉ tiêu này, người ta thường phân tích nó kết hợp với một chỉ tiêu phân tích nữa, đó
là chỉ tiêu Vốn lưu động ròng.
Chỉ tiêu Vốn lưu động ròng: là phần chênh lệch giữa TSLĐ và ĐT ngắn hạn
và Nợ ngắn hạn. hay nói cách khác, đây là phần tài sản lưu động được đầu tư bằng
nguồn vốn có tích chất trung và dài hạn
Vốn lưu động ròng = TSLĐ và ĐT ngắn hạn - Nợ ngắn hạn
Như vậy, nếu hai doanh nghiệp cùng loại, hoạt động cùng ngành nghề và có
cùng tỷ lệ thanh toán ngắn hạn, doanh nghiệp nào có vốn lưu động ròng tốt hơn thì sẽ
có khả năng thanh toán nợ tốt hơn.
23
Chỉ tiêu Khả năng thanh toán nhanh: trong nhiều trường hợp doanh nghiệp
không thể chuyển ngay toàn bộ tài sản lưu động sang thành tiền. Một bộ phận lớn
nguyên, nhiên, vật liệu được dự trữ để tạo ra thành phẩm cuối cùng. Thành phẩm này
lại được đưa vào dự trữ để bán dần. Ngoài ra, một bộ phận thành phẩm được bán ra
dưới dạng bán chịu. Có nghĩa là quá trình từ hàng tốn kho chuyển sang tiền không
phải lúc nào cũng diễn ra ngay lập tức mà phải trải qua một thời gian. Chỉ tiêu thanh
toán nhanh nhằm đo lường khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong trường hợp
không kể những tài sản chậm chuyển ra tiền trong tài sản lưu động. Có hai cách để
tính chỉ tiêu này:
Khả năng thanh toán nhanh =
Hoặc
Khả năng thanh toán nhanh =
Chỉ tiêu này bằng 1 thì qủa là lý tưởng cho các doanh nghiệp có vòng quay
hàng tồn kho chậm. Còn doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho nhanh thì chỉ tiêu
này có thể nhỏ hơn 1.

Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động
Chỉ tiêu Vòng quay hàng tồn kho: (Inventory turnover ratio)
Công thức:
Vòng quay hàng tồn kho =
Tử số trong chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho là giá vốn hàng bán vì hàng tồn
kho thường được định giá theo giá mua
Chỉ tiêu này cho thấy doanh nghiệp có quản lý hàng tồn kho hiệu quả hay
không. Nó đo lường số lần vốn đầu tư vào hàng tồn kho quay vòng trong năm. Nếu
vòng quay hàng tồn kho cao thì có thể doanh nghiệp dự trữ một mức hàng tồn kho
quá ít mà điều này có thể không tốt vì không đủ hàng hoá cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp có thể bị mất khách vì thiếu hàng. Nếu chỉ tiêu
này quá thấp thì có thể doanh nghiệp đã mua sắm hàng hoá, sản xuất hoặc kiểm soát
hàng tồn kho không tốt hoặc có thể doanh nghiệp đang trong tình trạng ứ đọng vốn.
Chỉ tiêu Kỳ thu tiền bình quân: (Average collection period ratio)
Công thức:
Kỳ thu tiền bình quân =
24
Chỉ tiêu này cho thấy thời hạn tín dụng thương mại bình quân mà doanh
nghiệp áp dụng cho khách hàng của mình. Ngoài ra, thời gian quay vòng các khoản
phải thu còn dùng để đánh giá hiệu quả việc kiểm soát các khoản phải thu của doanh
nghiệp và quy mô các khoản phải thu.
Cần chú ý rằng chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân có thể không phản ánh được thời
hạn tín dụng bình thường trong năm của doanh nghiệp nếu Bảng cân đối kế toán lập
ra ở một thời điểm đặc biệt.
Chỉ tiêu Vòng quay tài sản cố định: (Fixed assets turnover ratio)
Công thức:
Vòng quay tài sản cố định =
Chỉ tiêu này nếu quá thấp cho thấy năng lực sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bị hạn chế, còn nếu quá cao cho thấy doanh nghiệp đầu tư quá ít vào tài sản cố
định.

Chỉ tiêu Chu kỳ ngân quỹ: (Cash-to-cash cycle)
Công thức:
Chu kỳ ngân
quỹ
=
+ Kỳ thu tiền bq
+
Chỉ tiêu này đo lường vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp
Nhóm các chỉ tiêu cân nợ
Chỉ tiêu tỷ số nợ trên tổng tài sản: (Debt to total assets ratio)
Công thức
Tỷ số nợ =
Tỷ số này càng thấp thì sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào người cho vay
càng ít, món nợ mà ngân hàng cho vay càng được bảo đảm và do vậy việc cho vay
càng an toàn hơn và ngược lại sẽ kém an toàn hơn.Một tỷ số nợ nhỏ hơn hoặc bằng
0,5 (50%) được coi là lý tưởng vì nó cho thấy có ít nhất phân nửa tài sản của doanh
nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế, kể cả ở những
25

×