Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Quản lý chất lượng - thực trạng và một số giải pháp nhằm áp dụng một cách hợp lý và hiệu quả hệ thống quản trị chất lượng trong các DNCN Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.93 KB, 65 trang )

Lời mở đầu
Ngành dệt-may Việt Nam một vài năm trở lại đây, đặc biệt là trong 3 năm
cuối cùng của thiên niên kỉ, đã lên ngôi và tiếp tục khẳng định vị thế của mình trên
thơng trờng. Có đợc thành công này là do ngành đã đoán trớc đợc nhu cầu ngày
càng đa dạng của thị trờng. Bắt mạch thị trờng, ngành đã tìm ra hớng đi, chọn giải
pháp hợp lý, xây dựng cho ngành một chiến lợc kinh doanh nói chung và chiến lợc
sản phẩm đem lại hiệu quả cao.
Đa dạng hoá sản phẩm là một chiến lợc đợc rất nhiều nhà kinh tế biết đến
và đợc phần lớn các doanh nghiệp trên thế giới nói chung và các doanh nghiệp
Việt Nam nói riêng áp dụng. Nhng không phải doanh nghiệp nào, nớc nào cũng áp
dụng thành công mô hình chiến lợc này. Riêng ở Việt Nam, khi nói đến đa dạng
hoá sản phẩm, ngời ta không thể không nói đến ngành dệt may. Bởi lẽ, nhờ thực
hiện đa dạng hóa sản phẩm, ngành đã lên ngôi đầu bảng, đạt kim ngạch xuất nhập
khẩu cao và tiếp tục khẳng định vị thế của mình trên thơng trờng trong nớc, khu
vực và quốc tế trong một vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
đa dạng hoá sản phẩm, nhiều doanh nghiệp đã bộc lộ rõ nhiều vấn đề cần đợc xem
xét và hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn.
Đối với riêng bản thân em, đa dạng hoá sản phẩm là một mảng đề tài hết
sức hấp dẫn và thú vị. Vì vậy, em xin phép đợc trình bày quá trình thực hiện đa
dạng hoá sản phẩm tại nhà máy chỉ khâu Hà Nội và qua đó em xin đa ra một số ý
kiến nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ
khâu Hà Nội. Phải chăng nhà máy đã tạo dựng cho mình một hớng đi mang tính
xác thực, khoa học và hiệu quả? Chuyên đề này sẽ làm sáng tỏ điều đó.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là làm rõ cơ sở khoa học của đa dạng
hoá sản phẩm, luận giải những vấn đề cơ bản của đa dạng hoá sản phẩm trong nền
kinh tế thị trờng của các doanh nghiệp nói chung và của nhà máy Chỉ khâu nói
riêng. Trên cơ sở đó, chuyên đề đa ra một số ý kiến và một vài giải pháp cơ bản
nhằm góp phần hoàn thiện công tác đa dạng hóa sản phẩm ở nhà máy Chỉ khâu Hà
Nội.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề đợc trình bày thành ba
phần:


Phần I: Đa dạng hóa sảnphẩm - một khuynh hớng phổ biến giúp các doanh
nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trờng.
Phần II: Tình hình thực hiện đa dạng hóa sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu
Hà Nội.
Phần III: Một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác đa dạng hoá sản phẩm
tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội.
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
1
Nhờ sự hớng dẫn tận tình của cô giáo Trần Thị Thạch Liên, cùng với sự
giúp đỡ của các cô chú, các phòng ban nhà máy Chỉ khâu Hà Nội, đặc biệt là
phòng kinh doanh, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập.
Là một sinh viên, ớc mơ hoài bão thì nhiều nhng thực tế không cho phép,
trong chuyên đề này, em muốn đề cập đến nhiều vấn đề nhng vì điều kiện khuôn
khổ chuyên đề có hạn cũng nh kinh nghiệm còn hạn chế (chỉ là những kiến thức
trên ghế nhà trờng và thời gian ngắn thực tập tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội) nên
bài viết không đợc nh ý muốn, không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Rất mong
các thầy cô giáo, các cô chú nhà máy và bạn đọc góp ý để bài viết đợc hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
2
Phần thứ nhất:
Đa dạng hóa sản phẩm - một khuynh hớng phổ biến giúp
các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trờng.
I.Đa dạng hoá sản phẩm và phân loại đa dạng hoá
sản phẩm:
1.Sản phẩm:
1.1.Khái niệm sản phẩm:
Sản phẩm là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nó đợc tạo ra nhờ hoạt động của con ngời lên đối tợng lao động thông qua t liệu

lao động.
Theo quan điểm Maketing, sản phẩm công nghiệp là một tập hợp các đặc tr-
ng vật chất và phi vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của ngời tiêu dùng trên thị tr-
ờng.Theo quan điểm này, sản phẩm là một thứ có thể bán đợc trên thị trờng để chú
ý, mua, sử dụng hoặc tiêu dùng, có thể thoả mãn đợc một mong muốn hay nhu
cầu.
Đặc trng vật chất của sản phẩm công nghiệp bao gồm: kiểu dáng, chất lợng,
màu sắc, khẩu vị, kết cấu, bao bì, nhãn mác...
Đặc trng tâm lý của sản phẩm công nghiệp bao gồm: tên gọi, biểu tợng,
thẩm mỹ...
Sản phẩm công nghiệp đợc sản xuất ra phải xuất phát từ nhu cầu của thị tr-
ờng. Đối với doanh nghiệp, một sản phẩm là lời giải đáp của doanh nghiệp đó cho
một nhu cầu tìm thấy trên thị trờng. Còn đối với ngời mua, một sản phẩm là lời
hứa hẹn, là cái mà khách hàng mua để thoả mãn nhu cầu của mình. Do đó, doanh
nghiệp chỉ bán cái mà khách hàng cần chứ không bán cái mà mình có.
1.2.Phân loại sản phẩm:
1.2.1.Phân loại theo tính chất sử dụng:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm công
cộng và sản phẩm t nhân.
-Sản phẩm công cộng là sản phẩm mà việc tiêu dùng của ngời này không
làm ảnh hởng đến việc tiêu dùng của ngời khác nh đờng xá, cầu cống, các công
trình văn hoá, các di tích lịch sử...
-Sản phẩm t nhân là sản phẩm mà khi một ngời đã tiêu dùng thì ngời khác
không thể tiêu dùng sản phẩm đó. Vì vậy, khi ngời này tiêu dùng thì ngời khác
tiêu dùng ít đi nh: quần áo, xe, giầy dép...
Sản phẩm cá nhân có tính cạnh tranh mạnh mẽ, còn sản phẩm công cộng k
hông có tính cạnh tranh.
1.2.2.Phân loại sảnphẩm theo mối quan hệ với thu nhập:
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
3

Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá thông
thờng và hàng xa xỉ.
-Hàng thông thờng là những sản phẩm mà mọi tầng lớp trong xã hội đều có
thể tiêu dùng một cách bình thòng.
-Hàng xa xỉ là những sản phẩm dành cho các đối tợng có thu nhập cao trong
xã hội nh: ô tô, điều hoà...
1.2.3.Phân loại sản phẩm theo khả năng thay thế lẫn nhau:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá bổ
sung và hàng hóa thay thế.
-Hàng hoá bổ sung là hàng hoá khi tiêu dùng phải theo một cơ cấu và đồng
bộ nhau, không thể tách rời nhau đợc nh: ô tô và xăng, thuốc lá và bật lửa...
-Hàng hoá thay thế là hàng hoá khi tiêu dùng độc lập với nhauvà khi cần có
thể thay thế cho nhau nh: bật lửa và diêm, bia và rợu, bếp dầu và bếp gas...
1.2.4.Phân loại sản phẩm theo tuổi thọ của sản phẩm:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá lâu bền
và hàng hóa không lâu bền.
-Hàng lâu bền là hàng có thể sử dụng đợc trong một thời gian dài nh: ô tô,
xe máy, nhà cửa...
-Hàng không lâu bền là những vật rẻ tiền, mau hỏng nh: bút chì, tẩy...
1.2.5.Phân loại sản phẩm theo tần số mua:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng mua thờng
xuyên và hàng không mua thờng xuyên.
-Hàng mua thờng xuyên là hàng hoá cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và
ngời tiêu dùng nó phải thờng xuyên tiêu dùng nó nh: quần áo, giày dép...
-Hàng mua không thờng xuyên là hàng hoá mà ngời tiêu dùng không tiêu
dùng nó thờng xuyên nh: áo cới,
1.2.6.Phân loại sản phẩm theo mức độ cấp thiết:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng dùng ngay
và hàng đắn đo.
1.2.7.Phân loại sản phẩm theo mức độ chế biến sản phẩm:

Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm trung
gian và sản phẩm cuối cùng.
-Sản phẩm trung gian là những sản phẩm còn phải trải qua một hoặc một số
bớc chế biến nữa mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh phục vụ cho tiêu dùng nh: xơ
bông để kéo sợi, sợi để dệt vải, vải để may quần áo...
-Sản phẩm cuối cùng là những sản phẩm hoàn chỉnh có thể phục vụ cho
tiêu dùng nh: quần áo, giầy dép...
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
4
1.2.8.Phân loại sản phẩm theo công dụng kinh tế của sản phẩm:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm là t
liệu sản xuất và sản phẩm là t liệu tiêu dùng.
Tuỳ thuộc vào đối tợng sử dụng mà hàng hoá đó là t liệu sản xuất hay vật
phẩm tiêu dùng nh: chỉ nếu khách hàng là ngời tiêu dùng mua để khâu vá hay may
thì đó là vật phẩm tiêu dùng, nếu đó là doanh nghiệp mua để may thành quần áo,
giày dép hoàn chỉnh bán ra thị trờng thì đó là t liệu sản xuất.
2.Danh mục sản phẩm:
Một danh mục sản phẩm là một tập hợp tất cả những loại sản phẩm một ng-
ời bán cụ thể đa ra để bán cho ngời mua.
Danh mục sản phẩm của một công ty bao gồm chiêù rộng, chiều dài, chiều
sâu và mật độ.
-Chiều rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện doanh nghiệp
có bao nhiêu loại sản phẩm khác nhau.
-Chiều dài danh mục sản phẩm là tổng số mặt hàng trong danh mục sản
phẩm.
-Chiều sâu danh mục sản phẩm thể hiện doanh nghiệp có bao nhiêu phơng
án của mỗi sản phẩm trong loại. Ví dụ: 1 loại sản phẩm kem đánh răng Crest có 3
kích cỡ và 2 công thức nên chiều sâu của sản phẩm này là 6.
-Mật độ của danh mục sản phẩm thể hiện mối quan hệ mật thiết đến mức độ
nào giữa các loại sản phẩm khác nhau xét theo cách sử dụng cuối cùng, thiết bị

sản xuất...
Bốn chiều này của danh mục sản phẩm tạo nên những căn cứ để xác định
chiến lợc sản phẩm của công ty
Việc lập kế hoạch danh mục sản phẩm chủ yếu tuỳ thuộc vào trách nhiệm của
những ngời hoạch định chiến lợc của công ty căn cứ vào những thông tin do
những ngời làm công tác tiếp thị của công ty cung cấp. Họ phải đánh giá những
loại sản phẩm nào cần phát triển, cần duy trì, cần thu hoạch, và cần loại bỏ.
3.Đa dạng hoá sản phẩm:
3.1.Khái niệm đa dạng hoá sản phẩm
Để thực hiện hệ thống các mục tiêu kinh tế xã hội đã định, trong quá trình
sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ cấu sản
phẩm hợp lý. Một cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trờng, phù hợp với
khả năng, năng lực của doanh nghiệp và cho phép các doanh nghiệp tối đa hoá lợi
nhuận.
Trong điều kiện nhu cầu thị trờng rất đa dạng, thờng xuyên biến động, tiến
bộ khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ, thì cơ cấu sản phẩm phải đợc
coi là cơ cấu động, nghĩa là phải thờng xuyên đợc thay đổi, hoàn thiện, cải tiến
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
5
và đổi mới. Bởi đây là một trong những điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo cho
doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trờng đầy khắc nghiệt.
Quá trình hoàn thiện và đổi mới cơ cấu sản phẩm có thể đợc thực hiện theo
nhiều chiều hớng khác nhau nh:
-Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, kém
cạnh tranh hay những sản phẩm không tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
hông có tính cạnh tranh.
1.2.2.Phân loại sản phẩm theo mối quan hệ với thu nhập:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá thông
thờng và hàng xa xỉ.
-Hàng thông thờng là những sản phẩm mà mọi tầng lớp trong xã hội đều có

thể tiêu dùng một cách bình thòng.
-Hàng xa xỉ là những sản phẩm dành cho các đối tợng có thu nhập cao trong
xã hội nh: ô tô, điều hoà...
1.2.3.Phân loại sản phẩm theo khả năng thay thế lẫn nhau:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá bổ
sung và hàng hóa thay thế.
-Hàng hoá bổ sung là hàng hoá khi tiêu dùng phải theo một cơ cấu và đồng
bộ nhau, không thể tách rời nhau đợc nh: ô tô và xăng, thuốc lá và bật lửa...
-Hàng hoá thay thế là hàng hoá khi tiêu dùng độc lập với nhauvà khi cần có
thể thay thế cho nhau nh: bật lửa và diêm, bia và rợu, bếp dầu và bếp gas...
1.2.4.Phân loại sản phẩm theo tuổi thọ của sản phẩm:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá lâu bền
và hàng hóa không lâu bền.
-Hàng lâu bền là hàng có thể sử dụng đợc trong một thời gian dài nh: ô tô,
xe máy, nhà cửa...
-Hàng không lâu bền là những vật rẻ tiền, mau hỏng nh: bút chì, tẩy...
1.2.5.Phân loại sản phẩm theo tần số mua:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng mua thờng
xuyên và hàng không mua thờng xuyên.
-Hàng mua thờng xuyên là hàng hoá cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và
ngời tiêu dùng nó phải thờng xuyên tiêu dùng nó nh: quần áo, giày dép...
-Hàng mua không thờng xuyên là hàng hoá mà ngời tiêu dùng không tiêu
dùng nó thờng xuyên nh: áo cới,
1.2.6.Phân loại sản phẩm theo mức độ cấp thiết:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng dùng ngay
và hàng đắn đo.
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
6
1.2.7.Phân loại sản phẩm theo mức độ chế biến sản phẩm:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm trung

gian và sản phẩm cuối cùng.
-Sản phẩm trung gian là những sản phẩm còn phải trải qua một hoặc một số
bớc chế biến nữa mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh phục vụ cho tiêu dùng nh: xơ
bông để kéo sợi, sợi để dệt vải, vải để may quần áo...
-Sản phẩm cuối cùng là những sản phẩm hoàn chỉnh có thể phục vụ cho
tiêu dùng nh: quần áo, giầy dép...
1.2.8.Phân loại sản phẩm theo công dụng kinh tế của sản phẩm:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm là t
liệu sản xuất và sản phẩm là t liệu tiêu dùng.
Tuỳ thuộc vào đối tợng sử dụng mà hàng hoá đó là t liệu sản xuất hay vật
phẩm tiêu dùng nh: chỉ nếu khách hàng là ngời tiêu dùng mua để khâu vá hay may
thì đó là vật phẩm tiêu dùng, nếu đó là doanh nghiệp mua để may thành quần áo,
giày dép hoàn chỉnh bán ra thị trờng thì đó là t liệu sản xuất.
2.Danh mục sản phẩm:
Một danh mục sản phẩm là một tập hợp tất cả những loại sản phẩm một ng-
ời bán cụ thể đa ra để bán cho ngời mua.
Danh mục sản phẩm của một công ty bao gồm chiêù rộng, chiều dài, chiều
sâu và mật độ.
-Chiều rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện doanh nghiệp
có bao nhiêu loại sản phẩm khác nhau.
-Chiều dài danh mục sản phẩm là tổng số mặt hàng trong danh mục sản
phẩm.
-Chiều sâu danh mục sản phẩm thể hiện doanh nghiệp có bao nhiêu phơng
án của mỗi sản phẩm trong loại. Ví dụ: 1 loại sản phẩm kem đánh răng Crest có 3
kích cỡ và 2 công thức nên chiều sâu của sản phẩm này là 6.
-Mật độ của danh mục sản phẩm thể hiện mối quan hệ mật thiết đến mức độ
nào giữa các loại sản phẩm khác nhau xét theo cách sử dụng cuối cùng, thiết bị
sản xuất...
Bốn chiều này của danh mục sản phẩm tạo nên những căn cứ để xác định
chiến lợc sản phẩm của công ty

Việc lập kế hoạch danh mục sản phẩm chủ yếu tuỳ thuộc vào trách
nhiệm của những ngời hoạch định chiến lợc của công ty căn cứ vào
những thông tin do những ngời làm công tác tiếp thị của công ty cung
cấp. Họ phải đánh giá những loại sản phẩm nào cần phát triển, cần duy
trì, cần thu hoạch, và cần loại bỏ.
3.Đa dạng hoá sản phẩm:
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
7
3.1.Khái niệm đa dạng hoá sản phẩm
Để thực hiện hệ thống các mục tiêu kinh tế xã hội đã định, trong quá trình
sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ cấu sản
phẩm hợp lý. Một cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trờng, phù hợp với
khả năng, năng lực của doanh nghiệp và cho phép các doanh nghiệp tối đa hoá lợi
nhuận.
Trong điều kiện nhu cầu thị trờng rất đa dạng, thờng xuyên biến động, tiến
bộ khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ, thì cơ cấu sản phẩm phải đợc
coi là cơ cấu động, nghĩa là phải thờng xuyên đợc thay đổi, hoàn thiện, cải tiến
và đổi mới. Bởi đây là một trong những điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo cho
doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trờng đầy khắc nghiệt.
Quá trình hoàn thiện và đổi mới cơ cấu sản phẩm có thể đợc thực hiện theo
nhiều chiều hớng khác nhau nh:
-Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời,
kém cạnh tranh hay những sản phẩm không tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
-Giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản xuất, những sản phẩm cải tiến,
hoàn thiện về mặt hình thức và nội dung, kiểu dáng, mẫu mã, thế hệ sản phẩm
mới.
-Bổ sung thêm vào danh mục những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu và
xu hớng phát triển của thị trờng.
-Chuyển hoá vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm, tức là: đa những
sản phẩm ở hàng thứ lên vị trí hàng đầu và ngợc lại bằng cách thay đổi định lợng

sản xuất mỗi loại.
Những sản phẩm mới, bổ sung này có thể là mới tuyệt đối (mới đối với cả
doanh nghiệp và thị trờng), có thể là mới tơng đối (mới với doanh nghiệp và không
mới với thị trờng).
c.Hỗn hợp:
Doanh nghiệp kết hợp xen kẽ giữa biến đổi chủng loại sản phẩm và đổi mới
chủng loại sản phẩm, nghĩa là doanh nghiệp thực hiện đồng thời:
-Hoàn thiện, cải tiến một số sản phẩm đang sản xuất
-Loại bỏ sản phẩm (lỗi thời, kém cạnh tranh, khó tiêu thụ...)
-Bổ sung những sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm.
Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm theo hớng biến đổi danh mục sản phẩm,
doanh nghiệp phải theo sát sự biến động của nhu cầu sản phẩm trên thị trờng, tận
dụng quyền lực, giảm bớt rủi ro trong kinh doanh nhờ các tuyến sản phẩm bổ
sung, hỗ trợ nhau từ tài chính, vận chuyển, cơ sở vật chất kỹ thuật và thị trờng.
3.3.2.Xét theo tính chất của nhu cầu sản phẩm:
Theo cách phân loại này có các hình thức đa dạng hoá sản phẩm sau:
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
8
a.Đa dạng hoá theo chiều sâu nhu cầu mỗi loại sản phẩm:
Doanh nghiệp lấy sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu để mở rộng danh mục
sản phẩm bằng cách tăng thêm nhiều mâũ mã, kiểu cách, chức năng, công dụng để
đáp ứng toàn diện nhu cầu của các đối tợng/ khách hàng khác nhau về cùng một
loại sản phẩm.
Hình thức đa dạng hoá sản phẩm gắn liền với việc phân đoạn nhu cầu sản
phẩm (hay phân đoạn thị trờng sản phẩm )
b.Đa dạng hoá theo bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm:
Doanh nghiệp lấy sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu để mở rộng danh mục
sản phẩm bằng cách chế tạo một số loại sản phẩm có kết cấu, công nghệ sản xuất,
giá trị sử dụng cụ thể khác nhau, hay nói cách khác, doanh nghiệp sản xuất một số
loại sản phẩm bổ sung để thoả mãn đồng bộ một số nhu cầu có liên quan với nhau

của đối tợng tiêu dùng.
c.Đa dạng hoá theo h ớng thoát ly sản phẩm gốc:
Đa dạng hoá theo hớng thoát ly sản phẩm gốc là đa danh mục sản phẩm
mới không liên quan đến sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu cả về giá trị sử dụng
và công nghệ sản xuất vào danh mục sản phẩm của doanh nghiệp.
3.3.3.Xét theo mối quan hệ với sử dụng nguyên liệu chế tạo sản phẩm:
Có các hình thức đa dạng hoá sản phẩm sau:
-Sản xuất những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau nhng có chung
chủngloại sản phẩm gốc.
-Sử dụng các chất có ích chứa đựng trong một loại nguyên liệu để sản xuất
một số loại sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau.
3.3.4.Xét theo ph ơng thức thực hiện:
Có các hình thức đa dạng hoá sản phẩm sau:
a.Đa dạng hóa sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực hiện có:
Bằng việc áp dụng hình thức này, doanh nghiệp có thể tiết kiệm đợc đầu t,
giảm bớt thiệt hại do khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tận dụng đợc khả năng
sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp, tận dụng hết công suất thiết bị.
Tuy nhiên, sự tận dụng này lại dẫn đến hạn chế khả năng mở rộng danh
mục sản phẩm của doanh nghiệp.
b.Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở hiện có kết hợp với đầu t bổ sung:
Mở rộng danh mục sản phẩm đòi hỏi phải có đầu t, nhng đầu t ở đây chỉ
dừng lại ở nghĩa bổ sung, nhằm khắc phục khâu yếu kém, khâu thiếu khi thực hiện
đa dạng hoá sản phẩm. So với phơng thức trên, phơng thức này có khả năng mở
rộng danh mục sản phẩm cao hơn.
c.Đa dạng hoá sản phẩm bằng đầu t mới:
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
9
Hình thức này đợc áp dụng khi doanh nghiệp quyết định triển khai sản xuất
các sản phẩm mới mà khả năng, năng lực sản xuất hiện tại cha đáp ứng đợc.
Hình thức này thờng có nhu cầu đầu t cao mà rủi ro cũng cao, nhng khả

năng sản xuất đợc mở rộng. Hình thức này đòi hỏi nhà quản lý phải có tính mạo
hiểm, cơng quyết.
Nhận xét từ các hình thức đa dạng hoá sản phẩm:
-Trong phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, có
thể thấy nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm khác nhau. Các cách phân loại chỉ
là sự tiếp cận các hình thức đa dạng hoá sản phẩm theo những góc độ khác nhau.
-Mỗi hình thức đa dạng hoá sản phẩm có những u việt riêng và chúng chỉ
bộc lộ khi doanh nghiệp đảm bảo cho nó có những điều kiện thích hợp mà hình
thức này đòi hỏi.
-Dù áp dụng một hay nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm thì cũng làm
cho danh mục sản phẩm của mỗi doanh nghiệp đợc mở rộng, cơ cấu sản phẩm trở
nên phức tạp hơn và mỗi doanh nghiệp có thêm nhiều thang, dòng và mặt hàng sản
phẩm.
4.Tầm quan trọng của đa dạng hoá sản phẩm:
4.1.Sự cần thiết khách quan của đa dạng hoá sản phẩm:
Trong những năm gần đây, lý luận và thực tiễn quản trị có những thay đổi
to lớn và đợc sự chú ý của các nhà lý luận và các nhà quản trị thực tiễn. Để thấy đ-
ợc tầm quan trọng của đa dạng hoá sản phẩm, cần tìm hiểu những đặc điểm lớn
của môi trờng kinh doanh hiện đại. Những đặc điểm này chi phối và quyết định sự
tồn tại và phát triển của tất cả các doanh nghiệp hiện nay. Nó vừa tạo ra những cơ
hội, vừa tạo ra những thách thức cho sự phát triển.
Thứ nhất, đa dạng hoá sản phẩm là điều kiện đảm bảo doanh nghiệp công
nghiệp thích ứng với nhu cầu đa dạng của thị trờng và sự vận động biến đôỉ của thị
trờng.
Thị trờng luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng làm nảy sinh những
nhu cầu mới, những đòi hỏi mới cao hơn, khắt khe hơn những sản phẩm đã và
đang tồn tại, đào thải những sản phẩm đã lỗi thời. Sự vận động biến đổi ấy mang
tính chất tự nhiên, phổ biến, quy luật ở tất cả các nớc trên thế giới.
Đặt mình vào môi trờng kinh doanh đa dạng và luôn vận động nh vậy,
doanh nghiệp phải có đối sách để đảm bảo sự thích ứng với thị trờng, để tồn tại và

phát triển. Để làm đợc điều đó, mỗi doanh nghiệp phải luôn bám sát những diễn
biến của các quan hệ cung cầu trên thị trờng, định hớng sản xuất, xác định cho
mình một danh mục và cơ cấu sản phẩm hợp lý. Nghĩa là, doanh nghiệp phải luôn
hoàn thiện sản phẩm đang sản xuất ngay cả khi chúng đang ở giai đoạn hng thịnh
nhất. Song song với công việc ấy, doanh nghiệp cũng cần mở rộng danh mục sản
phẩm của mình để đạt tới cơ cấu sản phẩm có hiệu quả trong điều kiện mới của
môi trờng kinh doanh. Điều đó đòi hỏi ngời kinh doanh phải có tầm nhìn chiến lợc
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
10
xa, phải luôn biết hoàn thiện cái đang thực hiện và chuẩn bị đón lấy cái mới ngay
trong hiện tại, không chờ đến khi thị trờng từ chối sản phẩm của mình mới tự lo
ứng phó.
Chính nhờ sự chủ động này, doanh nghiệp có đợc tính tích cực trong hớng
dẫn tiêu dùng, tác động tích cực đến thị trờng, tạo nên lợi thế so với các đối
thủ cạnh tranh trên thị trờng.
Trong tình hình nhu cầu thị trờng kinh doanh đa dạng mà cơ hội không gõ
cửa hai lần, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cân nhắc kỹ lỡng, phải nắm
nhanh cơ hội kinh doanh, phát huy lợi thế tơng đối so với các doanh nghiệp khác.
Nh vậy, sự đa dạng và vận động của thị trờng đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
công nghiệp phải năng động cải biến, hoàn thiện cơ cấu sản phẩm của mình theo
hớng đa dạng hoá nếu không muốn bị đào thải khỏi trờng kinh doanh.
Thứ hai, đa dạng hoá sản phẩm gắn liền với tiến bộ khoa học công nghệ.
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra nh vũ bão. Với tốc độ này, một
khối lợng khổng lồ các kiến thức và công nghệ đợc tạo ra. Những lợi ích to lớn của
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật-công nghệ đã đợc biết đến nhiều song cũng tạo
ra những thách thức lớn cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Tiến bộ khoa học
công nghệ đợc áp dụng vào sản xuất và đời sống làm tăng thêm tính đa dạng của
nhu cầu, làm nảy sinh những nhu cầu mới, rút ngắn chu kì sống của sản phẩm và
tạo ra những khả năng sản xuất mới, làm xuất hiện những cơ hội kinh doanh mới.
Không những sản phẩm bị lỗi thời mà công nghệ cũng trong tình trạng tơng

tự. Sự lạc hậu của công nghệ và sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp phải tranh thủ
nắm bắt nhanh những thành tựu cải tiến của khoa học kỹ thuật và thể hiện nó trong
cơ cấu sản phẩm, phải khuyến khích mọi ngời sáng tạo.
Hiện nay, nhân loại đang chứng kiến những thành tựu to lớn về khoa học-kỹ
thuật-công nghệ. Doanh nghiệp nào không chú ý đến, không nắm bắt nhanh những
thành tựu ấy, tự hài lòng với những gì hiện có, doanh nghiệp sẽ bị đào thải khỏi th-
ơng trờng.
Thứ ba, cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp công nghiệp và giữa sản
phẩm công nghiệp đang diễn ra khốc liệt.
Hoạt động trong cơ chế thị trờng, doanh nghiệp bị chi phối bởi quy luật
cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải có những đối sách, chiến lợc thị trờng với
những vũ khí cạnh tranh có hiệu quả. Hàng hoá và dịch vụ trớc khi đa ra thị trờng
phải đợc nghiên cứu tỉ mỉ, doanh nghiệp cần phải biết mình xâm nhập bằng vũ khí
gì. Và có thể nói rằng việc xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm hợp lý là một
trong những vũ khí cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp.
Tóm lại, để có thể tồn tại và phát triển, đợc những thành công trong sản
xuất kinh doanh thích ứng với cơ chế thị trờng, tránh đợc rủi ro, lợi nhuận cao, thì
đa dạng hoá sản phẩm là một tất yếu khách quan đối với mỗi doanh nghiệp công
nghiệp.
4.2.Vai trò của đa dạng hoá sản phẩm:
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
11
Trớc những đặc điểm lớn vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các doanh
nghiệp đợc trình bày ở phần trên, đa dạng hoá sản phẩm có vai trò đặc biệt quan
trọng.
Tr ớc hết , đa dạng hoá sản phẩm nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh
nghiệp đã đề ra trong quá trình sản xuất kinh doanh nh mục tiêu về lợi nhuận, mục
tiêu về thế lực, mục tiêu về an toàn...
1.Khả năng sinh lời:
Mục đích của kinh doanh là tối đa hoá lơị nhuận trong điều kiện cho phép,

kinh doanh phải có lợi nhuận, không có lợi nhuận thì sẽ tiêu tan mọi mục đích
khác cũng nh toàn bộ sự nghiệp của một doanh nghiệp.
Đứng trên góc độ kinh tế mà xét, lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng
doanh thu và tổng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra. Ngoài ra, lợi nhuận còn đợc xét
bằng nhiều chỉ tiêu khác nh: tỷ suất lợi nhuận, tốc độ tăng trởng lợi nhuận...và
cuối cùng cần phải xác định đợc tổng mức lợi nhuận trong một thời gian nhất
định.
Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp luôn phải gắn liền với sự tăng lợi
nhuận. Đa dạng hoá sản phẩm đợc tạo dựng trớc hết vì điều này chứ không phải vì
bất kì một mục tiêu nào khác.
2.Thế lực của doanh nghiệp:
Thế lực là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt
với các đối thủ khác, doanh nghiệp phải tìm mọi cách để giành đợc lợi, xác định vị
trí của mình trên thơng trờng và tăng thế lực của mình lên cao hơn.
Thế lực của doanh nghiệp thờng đợc đo bằng thị phần mà doanh nghiệp
kiểm soát đợc, bằng tỷ trọng hàng hóa hay dịch vụ của doanh nghiệp so với tổng l-
ợng cung về hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trờng, bằng mức độ tích tụ và tập trung
của doanh nghiệp, khả năng liên doanh, liên kết và mức độ phụ thuộc của các
doanh nghiệp khác vào doanh nghiệp mình và ngợc lại...
Có thể nói, thế lực là một vũ khí tối u và có hiệu quả trong cạnh tranh với
các doanh nghiệp khác. Vì vậy, nó là mục tiêu chủ yếu cần đợc thực hiện trong
hoạch định chiến lợc của doanh nghiệp.
3.An toàn trong kinh doanh:
Kinh doanh không phải lúc nào cũng thành công và suôn sẻ, mà nó cũng
gắn liền với những thất bại, rủi ro không lờng hết đợc. Một phơng án táo bạo, cạnh
tranh càng gay gắt thì khả năng thu lợi càng lớn và mức độ rủi ro, nguy hiểm đối
với doanh nghiệp càng cao. Trong nền kinh tế thị trờng, rủi ro trong kinh doanh
tồn tại dới nhiều dạng khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro có thể là những yếu
tố trong nội bộ doanh nghiệp nh: công nghệ sản xuất, trình độ tay nghề, chất lợng
sản phẩm, giá cả, vốn... hoặc các yếu tố ngoại cảnh nh: thị hiếu tiêu dùng, các

chính sách, luật pháp của nhà nớc, tai họa do thiên tai...
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
12
Rủi ro trong kinh doanh là điều mà các nhà doanh nghiệp không mong đợi,
vì thế, khi xây dựng một phơng án, chiến lợc kinh doanh, các nhà quản trị đều phải
lựa chọn phơng pháp phòng ngừa rủi ro để đảm bảo an toàn trong kinh doanh cho
doanh nghiệp mình. Khi gặp rủi ro, doanh nghiệp có thể hạn chế, ngăn ngừa nó ở
mức thấp nhất, ít tổn hại đến thực lực của mình nhất.
Trên đây là ba mục tiêu chủ yếu, luôn ở vị trí hàng đầu trong các mục tiêu
mà chiến lợc vạch ra nhng vấn đề là phải chọn ra đợc những mục tiêu then chốt.
Xác định đúng và rõ ràng những mục tiêu then chốt sẽ là cơ sở và kim chỉ nam
cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, đa dạng hoá sản phẩm có vai trò tích cực trong việc đáp ứng những
nhu cầu muôn hình muôn vẻ của thị trờng.
Nhờ đa dạng hoá sản phẩm, danh mục sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng
và danh mục sản phẩm của toàn nền kinh tế nói chung trở nên phong phú, đa dạng,
tăng sức cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại, tăng sức tìm tòi sáng tạo chạy
đua của các doanh nghiệp. Và từ đó các doanh nghiệp trong nớc sẽ có chỗ đứng
trên thị trờng khu vực và quốc tế. Đa dạng hoá sản phẩm giúp cho đất nớc thoát
khỏi sự lạc hậu, tụt hậu để hoà nhập mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới.
Thứ ba, đa dạng hoá sản phẩm là điều kiện cần thiết để phát huy vai trò chủ
thể sản xuất hàng hoá của doanh nghiệp, phát huy quyền chủ động, tự chủ trong
sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trờng, mỗi doanh nghiệp công nghiệp là một chủ thể sản
xuất hàng hoá, vì vậy doanh nghiệp công nghiệp phải có những quyền hạn tơng
ứng, trong đó, chủ yếu và trớc hết là có quyền thực sự trong việc xác định nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh của mình qua việc xây dựng danh mục và cơ cấu sản phẩm
có hiệu quả.
Trong quá trình thực hiện vai trò chủ thể sản xuất hàng hoá của mình, mục
tiêu của doanh nghiệp và mục tiêu của xã hội có thể mâu thuẫn với nhau. Trong tr-

ờng hợp này, việc doanh nghiệp cỡng lại yêu cầu, mục tiêu, ý chí của xã hội là
không thể chấp nhận đợc. Ngợc lại, việc nhà nớc áp đặt t tởng chủ quan của mình,
can thiệp thô bạo vào hoạt động của doanh nghiệp dới bất kỳ hình thức nào cũng
đồng nghĩa với vi phạm chủ thể sản xuất hàng hoá của doanh nghiệp. Bởi vậy, cần
có những biện pháp kết hợp hài hoà các lợi ích và mục tiêu khác nhau.
Trong xác định cơ cấu sản phẩm của mình, trừ những sản phẩm trọng yếu
thuộc cân đối chung của nhà nớc, doanh nghiệp nhà nớc có quyền lựa chọn mặt
hàng kinh doanh phù hợp với năng lực sản xuất của mình, nhà nớc chỉ định hớng
phát triển chung và sử dụng những công cụ thích ứng, góp phần thực hiện những
mục tiêu chung của xã hội.
Thứ t , đa dạng hoá sản phẩm là giải pháp tích cực nâng cao hiệu quả kinh
tế, đảm bảo việc làm và nâng cao thu nhập cho ngời lao động.
Nâng cao hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh là nhiệm
vụ trung tâm của công tác quản lý doanh nghiệp. Trong từng doanh nghiệp, hiệu
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
13
quả kinh tế đạt đợc là tất cả tiềm lực đợc huy động và sử dụng cho việc thực hiện
cơ cấu sản phẩm đã xác định.
Trong thực tế, hiện tợng có tính phổ biến là các nguồn lực của các doanh
nghiệp công nghiệp không tận dụng hết mức sản xuất thực tế, mà thờng nằm dới
đờng giới hạn khả năng sản xuất. Việc đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn
lực sẵn có là cần thiết, cho phép tận dụng triệt để hơn hàm lợng các chất có ích
trong nguyên liệu, mở rộng chủng loại sản phẩm từ một loại nguyên liệu, tận dụng
các nguồn lực d thừa, phế liệu, phế phẩm... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, tăng năng lực sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống cho ngời
lao động và góp phần thoả mãn những nhu cầu đa dạng hoá của xã hội.
Thứ năm, việc mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp còn cho phép
doanh nghiệp phân tán rủi ro trong kinh doanh nhờ các tuyến sản phẩm có sự bổ
sung hỗ trợ nhau.
Đa dạng hoá sản phẩm là một khuynh hớng phát triển ngày càng phổ biến

của các doanh nghiệp công nghiệp, các tổ chức kinh tế lớn, các tập đoàn kinh
doanh...Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sự tiến bộ
của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật công nghệ và quy luật cạnh tranh trên thị tr-
ờng, các doanh nghiệp ngày càng sử dụng rộng rãi các hình thức đa dạng hoá sản
phẩm. Quá trình này đem lại những giá trị bổ sung khiến các doanh nghiệp phát
triển khá linh hoạt, nhạy cảm và có sức đề kháng cao trong cạnh tranh. Chính vì
vậy, đa dạng hoá sản phẩm đợc coi là một trong những giá trị kinh doanh phổ biến
giúp các doanh nghiệp chẳng những trụ vững mà ngày càng phát triển trên con đ-
ờng sản xuất kinh doanh.
II. Các nhân tố ảnh h ởng tới đa dạng hoá sản phẩm:
1.Những nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp:
1.1.Đặc điểm sản phẩm - chu kì sống của sản phẩm:
Đặc điểm sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đa dạng hoá sản
phẩm, ảnh hởng trực tiếp đến thị trờng tiêu thụ sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận,
vòng quay vốn...
Nếu sản phẩm là t liệu tiêu dùng, vật liệu, nhất là sản phẩm công nghiệp
nhẹ nh: chỉ thêu, chỉ ren, chỉ may... sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh. Vì vậy,
đối với những sản phẩm này đòi hỏi phải luôn có sự sáng tạo, tìm tòi cái mới, chất
liệu mới phù hợp với nhu cầu thị trờng...
1.2.Đặc điểm kỹ thuật sản xuất:
Máy móc thiết bị có vai trò rất quan trọng trong các doanh nghiệp công
nghiệp. Nó không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn doanh nghiệp mà còn
quyết định điều kiện và khả năng sản xuất kinh doanh. Máy móc thiết bị cũng là
một bộ phận quan trọng trong tổng nguồn lực của doanh nghiệp. Việc phát huy tới
mức tối đa hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị là nhân tố quan trọng giúp doanh
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
14
nghiệp có chỗ đứng vững chắc trong cơ chế thị trờng và có sức mạnh trong cạnh
tranh.
Đặc điểm kỹ thuật sản xuất tác động tới một số chỉ tiêu quan trọng phản

ánh chất lợng công tác xây dựng kế hoạch, chiến lợc nh: hệ số sử dụng thời gian,
công suất, định mức nguyên vật liệu, lao động, điều độ sản xuất, sự nhịp nhàng
cân đối dây chuyền.
Nếu kỹ thuật công nghệ kém, xuống cấp sẽ rất khó khăn trong việc nâng
cao chất lợng sản phẩm, độ bền, độ bóng, độ dai, dẻo, đàn hồi, đến màu sắc (độ
tán sắc) của sản phẩm.
Kỹ thuật, công nghệ kém sẽ khó nâng cao năng lực sản xuất, khó sản xuất
những mặt hàng có cùng công nghệ sản xuất với sản phẩm đang sản xuất, kết quả
là đa dạng hoá sản phẩm sẽ không đợc thực hiện.
Mặt khác nó cũng ảnh hởng đến công tác định mức, tiết kiệm nguyên vật
liệu, hạ giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ, mở rộng thị trờng, khó cạnh tranh với các
đối thủ của mình.
Kỹ thuật công nghệ kém phát triển làm tăng hao phí sửa chữa, tu sửa, tăng
hao phí nguyên vật liệu, lao động, giảm năng suất lao động...
1.3.Nguyên vật liệu:
Nguyên vật liệu là một trong 3 yếu tố của quá trình sản xuất, tạo nên thực
thể sản phẩm. Thiếu nguyên vật liệu thì quá trình sản xuất bị gián đoạn hoặc
không thể thực hiện đợc.
Chất lợng của nguyên vật liệu trực tiếp ảnh hởng đến chất lợng sản phẩm,
đến việc sử dụng vốn. Vấn đề đặt ra đối với yếu tố này trong công tác quản lý là
phải cung ứng đúng tiến độ, số lợng, chủng loại và quy cách. Chỉ trên cơ sở đó
mới đảm bảo nâng cao chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, sản xuất kinh doanh có lãi, chu kỳ
sống sản phẩm đợc kéo dài.
1.4.Nguồn nhân lực:
Nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất kinh doanh. Nhân
lực đợc chia làm 3 cấp: Ban giám đốc, cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp, cán bộ
quản lý trung gian và công nhân.
Trình độ, năng lực của mỗi cấp, mức độ liên kết, gắn bó giữa các cấp sẽ gây
ảnh hởng tích cực hoặc tiêu cực đến sức sáng tạo, tinh thần giám nghĩ giám làm
của các cấp. Một chiến lợc đa dạng hoá sản phẩm có đợc thiết lập và khả thi hay

không là phụ thuộc nhiều vào yếu tố này.
1.5.Vốn:
Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm liệu doanh nghiệp có phải đầu t thêm
không hay đầu t mới? đầu t vốn cố định hay vốn lu động? Tỉ lệ giữa vốn cố định
và vốn lu động là bao nhiêu? Liệu sau khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, máy
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
15
móc thiết bị có hoạt động hết công suất không? lãng phí hay quá tải?... Kết quả
liệu có bù đắp đợc chi phí bỏ ra hay không? Khả năng thanh toán của doanh
nghiệp sẽ ra sao? Vòng quay vốn cố định, vốn lu động nh thế nào?...
1.6.Chu kì sản xuất kinh doanh:
Chu kì sản xuất kinh doanh đợc chia làm hai giai đoạn:
-Giai đoạn thứ nhất là khoảng thời gian từ khi doanh nghiệp nhập kho
nguyên vật liệu cho đến khi giao hàng cho ngời mua.
-Giai đoạn thứ hai là kể từ khi giao hàng cho ngời mua cho đến khi nhận
tiền về.
Chu kì sản xuất kinh doanh ảnh hởng gián tiếp đến đa dạng hoá sản phẩm.
Chu kì sản xuất kinh doanh ngắn, doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, tích luỹ nhiều
vốn, có điều kiện mở rộng kinh doanh, có điều kiện đầu t chất xám, phát minh,
sáng kiến tạo sản phẩm mới u việt, có điều kiện nghiên cứu, tìm tòi nhằm đa dạng
hoá sản phẩm cả về nội dung và hình thức.
Chu kì sản xuất kinh doanh ảnh hởng đến tài chính mà tiềm lực tài chính là
nhân tố quan trọng không thể thiếu đợc đối với đa dạng hoá sản phẩm. Vì vậy, chu
kì sản xuất kinh doanh là vấn đề cần đợc quan tâm một cách đúng mức.
1.7.Tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh doanh:
Trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp có ảnh hởng lớn đến kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổ chức và quản lý tốt đảm bảo cho quá trình sản
xuất tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu, các bộ phận, các
đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp. Từ đó, hạn chế tình trạng ngừng việc của máy
móc thiết bị, tiết kiệm các yếu tố sản xuất, tăng tốc độ luân chuyển vốn.

2.Các nhân tố bên ngoài:
2.1.Thị tr ờng đầu vào:
Những ngời cung ứng là những công ty kinh doanh và những ngời cá thể
cung gấp cho công ty và các đối thủ cạnh tranh những nguồn cung ứng cần thiết
để sản xuất ra những mặt hàng cụ thể hay dịch vụ nhất định.
Những sự kiện xảy ra trong môi trờng ngời cung ứng có thể ảnh hởng
nghiêm trọng đến hoạt động của công ty. Nhà quản trị phải theo dõi giá cả các mặt
hàng cung ứng, bởi việc tăng giá vật t và những sự kiện khác có thể làm rối loạn về
cung ứng nguyên vật liệu. Trong ngắn hạn có thể làm bỏ lỡ khả năng tiêu thụ và
trong dài hạn có thể làm mất đi thiện cảm của khách hàng đối với công ty.
2.2.Thị tr ờng đầu ra (khách hàng)
Công ty cần phải nghiên cứu kỹ những khách hàng của mình. Nhìn chung
có năm dạng thị trờng khách hàng và dới đây là những định nghĩa ngắn gọn về
chúng:
1.Thị trờng ngời tiêu dùng: những ngời mua hàng hoá để sử dụng cho cá
nhân.
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
16
2. Thị trờng các nhà sản xuất: các tổ chức mua hàng và sử dụng chúng trong
quá trình sản xuất.
3.Thị trờng nhà buôn bán trung gian: Tổ chức mua hàng và dịch vụ sau đó
bán lại để kiếm lời.
4.Thị trờng các cơ quan nhà nớc: Tổ chức mua hàng và dịch vụ sau đó sử
dụng trong lĩnh vực dịch vụ công cộng hoặc chuyển giao cho những ngời cần đến
nó.
5.Thị trờng quốc tế: Những ngời mua hàng ở ngoài nớc bao gồm: những ng-
ời tiêu dùng, sản xuất, bán trung gian và các cơ quan Nhà nớc ở ngoài nớc.
Mỗi kiểu thị trờng đều có những nét đặc thù riêng của nó mà ngời bán cần
phải nghiên cứu kỹ.
2.3.Đối thủ canh tranh:

Mỗi công ty đều có nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau. Họ là mối nguy cơ
đe doạ sự sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phát hiện ra tất cả các
đối thủ và lu ý đặc biệt đến các nhãn hiệu cạnh tranh, bởi chính các nhãn hiệu làm
giảm sức tiêu thụ của công ty.
III.Hệ thống các chỉ tiêu đo l ờng mức độ đa dạng hoá sản
phẩm và đánh giá hiệu quả của đa dạng hoá sản phẩm:
1.Các chỉ tiêu đo l ờng mức độ đa dạng hoá sản phẩm:
1.1.Hệ số đa dạng hoá sản phẩm: (H
D
)
Trong đó:
D
O
: Doanh thu trớc khi đa dạng hoá.
D
S
: Doanh thu khi đa dạng hoá sản phẩm
H
D
= 0 thì không đa dạng hoá sản phẩm
0 < H
D
< 1: H càng lớn thì mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao.
1.2.Hệ số đổi mới chủng loại sản phẩm: H
m
Trong đó:
S
O
: chủng loại sản phẩm gốc cải tiến
S

m
: chủng loại sản phẩm mới
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
17
Ds
Do
H
D
= 1
S
SmSo

+
=
Hm
S: Số chủng loại sản phẩm chế tạo trong kỳ
H
m
= 0: không đa dạng hoá sản phẩm
0 H
m
1: H
m
càng lớn thì mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao
1.3.Hệ số kiểu sản phẩm: (H
k
)
Trong đó:
S
d

:Số kiểu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất
S
t
: Số kiểu sản phẩm trên thị trờng
0 < H
k
1: H
k
càng cao chủng loại sản phẩm doanh nghiệp sản xuất càng
lớn
1.4.Hệ số đảm bảo đồng bộ nhu cầu sản phẩm có quan hệ trong tiêu
dùng: H
B
Trong đó:
S
C
: Số loại sản phẩm cần có để thoả mãn đồng bộ nhu cầu mà doanh
nghiệp sản xuất
S
Q
: Số loại sản phẩm có quan hệ trong tiêu dùng
0 < H
B
< 1: H
B
càng lớn thì mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao
H
B
= 1: mức độ đa dạng hoá sản phẩm rất cao
1.5.Hệ số mở rộng loại sản phẩm:H

L
H
L
1: H
L
càng lớn thì mức dộ đa dạng hoá sản phẩm càng cao
Nh vậy, mức độ đa dạng hoá sản phẩm cha hoàn toàn thể hiện sự năng động
của doanh nghiệp trong kinh doanh. Mức độ hợp lý của đa dạng hoá sản phẩm còn
phụ thuộc vào quy mô, khả năng quản lý, quan hệ liên kết của doanh nghiệp và
đặc biệt là hiệu quả kinh tế mà đa dạng hoá mang lại.
2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của đa dạng hoá sản phẩm:
2.1.Sự biến đổi mức đảm nhận lao động sống:
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
18
St

Sd
H
K
=
Oq
S

C
B
S
H =
So
SmSo


+
=
L
H




=
=
=
=
=
n
i
n
i
m
j
m
j
ti
Di
ti
Dj
Kw
1
1
1
1

Trong đó:
Dj: Doanh thu sản phẩm j sau khi đa dạng hoá sản phẩm
Di: Doanh thu sản phẩm i trớc khi đa dạng hoá sản phẩm
tj: Lao động hao phí sau khi đa dạng hoá sản phẩm
ti: Lao động hao phí trớc khi đa dạng hoá sản phẩm
K
w
> 0: Đa dạng hoá sản phẩm có hiệu quả
K
w
0: Đa dạng hoá sản phẩm có hiệu quả
Nh vậy, muốn đa dạng hoá sản phẩm có hiệu quả cao thì phải tìm biện pháp
để giảm hao phí lao động sản xuất ra sản phẩm j hoặc tăng doanh thu sản phẩm j.
2.2.Sự biến đổi l ợng lao động hao phí:
Trong đó:
K
w
<0: đa dạng hoá sản phẩm có hiệu quả.
K
w
0: đa dạng hoá sản phẩm không có hiệu quả.
2.3.Mức tăng doanh lợi:
Trong đó:
P
O
và P
D
: Lợi nhuận trớc và sau khi đa dạng hoá sản phẩm
Z
O

và Z
D
: Giá thành sản phẩm trớc và sau khi đa dạng hoá sản phẩm
Trong đó:
V
O
và V
D
: Vốn sản xuất trớc và sau khi đa dạng hóa.
Trong đó:
I
O
và I
D
: Vốn đầu t trớc và sau khi đa dạng hoá.
E
đm
: Hệ số hiệu quả định mức của vốn đầu t (cho biết một đơn vị chi phí
đầu t bỏ thêm thì thu đợc bao nhiêu đơn vị lợi nhuận).
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
19




=
=
=
=
=

n
i
n
i
m
j
m
j
Di
ti
Dj
tj
Kw
1
1
1
1
O
O
D
D
Z
P
Z
P
Kp =
O
O
D
D

P
V
P
V
P
K =
'
OdmO
O
DOdmD
D
P
IEZ
P
IIEZ
P
K
.)(
''
+

++
=
Kp, Kp’, Kp’’>0: §a d¹ng ho¸ cã hiÖu qu¶.
Kp, Kp’, Kp’’≤0: §a d¹ng ho¸ kh«ng cã hiÖu qu¶.
sinh viªn thùc hiÖn: TrÞnh Ph¬ng Lan
20
Phần thứ hai:
Tình hình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy
Chỉ Khâu Hà Nội:

I. Quá trình hình thành và phát triển:
1.Thời kỳ tr ớc sát nhập:
Ngày 1/7/1985, theo quyết định của Bộ Công nghiệp nhẹ, nhà máy Chỉ
Khâu Hà Nội chính thức đợc thành lập, trực thuộc liên hiệp các xí nghiệp dệt, do
Bộ Công nghiệp nhẹ quản lý và trở thành nhà máy sản xuất chỉ may duy nhất tại
Hà Nội. Tiền thân của nhà máy là phân xởng chuyên sản xuất chỉ may của nhà
máy dệt 8/3 với năng suất thiết kế đạt 700-800 tấn/ năm.
Ra đời đúng vào lúc nền kinh tế nớc ta có sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp
sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa,
nên cũng nh nhiều doanh nghiệp khác, nhà máy Chỉ Khâu hết sức ngỡ ngàng, lúng
túng, gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý sản xuất cũng nh trong lĩnh vực tiêu
thụ sản phẩm: thị trờng bị thu hẹp, sản xuất đình đốn, đời sống công nhân gặp
nhiều khó khăn, năng suất chỉ còn 100 tấn/ năm (đạt 12,5-14% năng suất thiết kế
ban đầu). Mặt khác, do cha thích ứng với cơ chế mới nên việc hạch toán kinh
doanh trong nền kinh tế thị trờng đối với nhà máy còn nhiều mới mẻ.
Tuy nhiên, với sự năng động sáng tạo của ban lãnh đạo nhà máy, sự nhiệt
tình, lòng hăng say yêu nghề, tinh thần đoàn kết của đội ngũ cán bộ công nhân
viên, nhà máy đã nhanh chóng thích nghi với nền kinh tế thị trờng và từng bớc ổn
định sản xuất.
Chính nhờ sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, với tinh thần và ý thức
trách nhiệm cao của mỗi thành viên, nhà máy đã từng bớc tháo gỡ những khó
khăn, bế tắc. Cụ thể là hai năm 1986-1987, ngay sau khi mới thành lập, nhà máy
đã luôn hoàn thành vợt mức kế hoạch. Ngoài mặt hàng chính, nhà máy còn sản
xuất thêm nhiều mặt hàng phụ để nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho cán
bộ công nhân viên nhà máy và làm cho sản phẩm của nhà máy ngày càng đa dạng,
phong phú hơn.
Năm 1987, nhà máy đạt 106,2%, nộp ngân sách 102,9% kế hoạch đề ra. B-
ớc sang năm 1988, do sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế, nhiều sản phẩm
giả nhãn hiệu của nhà máy hoặc sản phẩm cùng loại với sản phẩm của nhà máy đ-
ợc tung ra thị trờng với giá rẻ hơn rất nhiều đã làm cho sản phẩm của nhà máy sản

xuất ra bị ứ đọng, không thể tiêu thụ đợc.
Trớc tình hình đó, nhà máy quyết tâm tìm biện pháp khắc phục để duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình. Để làm đợc việc này, nhà máy tiếp tục đổi mới cơ
chế quản lý, đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới tổ chức sản xuất nhằm phát huy vai
trò chủ động của các phân xởng.
Bớc sang những năm tiếp theo, việc tổ chức hạch toán kinh doanh của nhà
máy đã thích ứng đợc với cơ chế thị trờng, đã tự tạo lập đợc kế hoạch sản xuất
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
21
kinh doanh cho mình, đã quen với việc hạch toán kinh doanh trên cơ sở lấy thu bù
chi và có doanh lợi. Nhờ thực hiện đúng quan điểm đổi mới của Đảng và vận dụng
phù hợp vào thực tế sản xuất kinh doanh, nhà máy đã đứng vững và phát triển.
2.Thời kỳ sau sát nhập:
Ngày 1/7/1992, sau 7 năm hoạt động độc lập, Bộ Công nghiệp nhẹ đã ký
quyết định sát nhập nhà máy Chỉ Khâu Hà Nội và nhà máy dệt Phong Phú- thành
phố Hồ Chí Minh- mà sau này là công ty dệt Phong Phú.
Tên nhà máy: nhà máy Chỉ Khâu Hà Nội.
Địa chỉ: 378 Minh Khai.
Mục tiêu sản xuất kinh doanh của nhà máy là các mặt hàng chỉ may công
nghiệp, chỉ thêu, chỉ ren và một số chỉ đặc chủng giành cho y tế, các xí nghiệp sản
xuất xi măng, liên hiệp giày da...
Ngoài ra nhà máy còn tận dụng năng lực thiết kế để gia công xe sợi và tẩy
nhuộm sợi.
Năm 1992, sau khi sát nhập vào công ty dệt Phong Phú, nhà máy đầu t theo
phơng thức đa dạng hoá sản phẩm, phân xởng kéo sợi và phân xởng may ra đời
(1993).
Sản phẩm của nhà máy đã đạt hai huy chơng vàng tại hội chợ triển lãm
công nghiệp hàng tiêu dùng toàn quốc năm 1992.
Năm 1993-1994, nhà máy lắp đặt hệ thống máy con của Đức.
Ngày 15/3/1994, giám đốc quyết định khoán lơng theo sản phẩm. Đây là

một biện pháp hữu hiệu, có tác dụng nâng cao trách nhiệm ngời lao động và làm
tăng sản lợng sản phẩm sản xuất ra.
Năm 1994, doanh thu của nhà máy đạt 17.069.887.554 đồng, tăng 171% so
với năm 1993 và đạt 194% so với năm 1992, nộp ngân sách Nhà nớc đạt
1.834.396.000 đồng.
Năm 1996, nhà máy bỏ phân xởng may.
Sau hơn 20 năm xây dựng và trởng thành, nhà máy đã trải qua bao khó khăn
thăng trầm và trong những năm trở lại đây, nhà máy đã phát triển nhanh chóng về
cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ quản lý, kinh doanh năm sau luôn đạt hiệu quả
cao hơn so với năm trớc, sản phẩm ngày càng đợc đa dạng hoá, nâng cao về chất l-
ợng, mẫu mã, luôn đợc khách hàng a chuộng và ngày càng chiếm đợc uy tín trên
thị trờng.
Hiện nay, nhà máy đã đứng vững trên thị trờng và là một đơn vị làm ăn có
lãi, nộp đủ các khoản thu ngân sách trên địa bàn thành phố Hà nội.
Sau đây là một số chỉ tiêu nhà máy thực hiện qua các năm:
biểu số 1:
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
22
Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999
Tổng vốn 12.396.260.434 14.530.242.541
Doanh thu 33.139.470.549 38.485.777.534
Lợi nhuận 632.052.000 943.926.000
Lợi nhuận/vốn 0,051 0,065
Lợi nhuận/doanh thu 0,019 0,0245
Doanh thu/vốn 0,0267 0,0265
2.Một số đặc điểm kinh tế- kỹ thuật chủ yếu:
2.1.Đặc điểm tổ chức quản lý:
Nhà máy Chỉ khâu Hà Nội, liên doanh Coast Tootal Phong Phú, nhà máy
Hải Vân, nhà máy may Monilet là bốn thành viên của công ty dệt Phong Phú, chịu
sự quản lý và điều hành trực tiếp của tổng giám đốc và các phòng ban của công ty

dệt Phong Phú.
SƠ Đồ 1: Cơ cấu tổ chức
Tuy nhà máy Chỉ khâu Hà Nội là một đơn vị trực thuộc của công ty dệt
Phong Phú nhng việc tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy
có tính chất độc lập tơng đối, việc tổ chức quản lý và điều hành đợc thực hiện theo
chế độ một thủ trởng (nghĩa là, giám đốc có quyền quyết định và điều hành mọi
hoạt động của nhà máy theo đúng kế hoạch, chính sách, pháp lệnh của Nhà nớc và
nghị quyết của Đại hội công nhân viên chức), có t cách pháp nhân, có con dấu
riêngvà hạch toán độc lập, đợc giao dịch trực tiếp với các tổ chức tài chính- ngân
hàng và trực tiếp làm nghĩa vụ với Nhà nớc.
Vì vậy, cũng nh các xí nghiệp thành viên khác, để quản lý và điều hành sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, nhà máy phải tổ chức đợc một bộ máy quản lý
phù hợp với đặc điểm sản xuất của mình. Do đó, nhà máy đã tổ chức một bộ máy
quản lý theo mô hình trực tuyến- tham mu (trực tuyến-chức năng), nghĩa là giám
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
23
Tổng giám đốc
Các phòng ban
Các đơn vị thành viên:
Nhà máy
Chỉ khâu

Nội
Liên
doanh
Coast
Tootal
Phong Phú
Nhà
máy

may
Hải
Vân
Nhà
máy
may
Monilet
đốc là ngời quyết định cao nhất, mọi quyết định quản lý của giám đốc đi theo
tuyến thẳng. Giúp giám đốc điều hành có một phó giám đốc, một kế toán trởng và
các phòng ban chức năng. Các phòng ban nghiên cứu, bàn bạc tìm ra các giải pháp
tối u cho những vấn đề phức tạp giúp giám đốc, làm việc nh các chuyên gia hay
hội đồng t vấn.
Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức quản lý ở nhà máy Chỉ khâu Hà Nội:

Chú thích: có quyền ra quyết định trực tiếp
có quyền ra quyết định khi đợc ban lãnh đạo uỷ quyền
Các bộ phận chức năng (phòng ban) không có quyền quyết định hành chính
trực tiếp với các bộ phận cấp dới (phân xởng, bộ phận sản xuất), mà chúng chỉ tồn
tại nh những bộ phận giúp việc cho ngời lãnh đạo trong phạm vi của mình.
Các quyết định hành chính của các bộ phận chức năng chỉ có ý nghĩa đối
với các bộ phận trực tuyến khi đã đợc ngời lãnh đạo (ban giám đốc thông qua hoặc
uỷ quyền).
Toàn nhà máy gồm: ban giám đốc, 5 phòng ban, 2 phân xởng.
Chức năng, nhiệm vụ của ban giám đốc và các phòng ban nh sau:
Ban giám đốc gồm: 1 giám đốc và 1 phó giám đốc. Giám đốc là ngời có
quyền cao nhất, chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của
nhà máy. Phó giám đốc có nhiệm vụ tổ chức quản lý và chỉ đạo công tác kinh
doanh của nhà máy, Đồng thời, phó giám đốc kinh doanh là ngời kiểm tra việc
thực hiện sản phẩm kinh doanh của công ty.
Phòng bảo vệ:

sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
24
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng
tổ
chức
hành
chính
Phòng
kỹ thuật
Phòng
kinh
doanh
Phòng
bảo
vệ
Phòng
tài
chính
kế
toán
PX
I
PX
II
-Có nhiệm vụ bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa
-Bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự an toàn.
Phòng tổ chức hành chính:
-Tham mu giúp giám đốc về tổ chức, quản lý lao động-tiền lơng của nhà

máy, đào tạo và tuyển dụng lao động một cách hợp lý và khoa học, đáp ứng yêu
cầu của sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trờng, trên cơ sở gắn thu nhập của
ngời lao động với hiệu quả công tác và năng suất lao động.
-Làm tốt công tác tổng hợp hành chính, pháp chế, công tác đối nội, đối
ngoại.
-Chăm lo đời sống, sức khoẻ cho các cán bộ công nhân viên.
Phòng kinh doanh:
-Tham mu giúp giám đốc trong các lĩnh vực quản lý kế hoạch sản xuất,
quản lý khoa học kỹ thuật, quản lý tiêu thụ.
-Nghiên cứu sản phẩm mới.
-Tìm khách hàng và mở rộng thị trờng.
-Điều hành, chắp nối các kế hoạch sản xuất kinh doanh giữa các phòng ban,
phân xởng trong nhà máy để hợp thành một kế hoạch kinh doanh tổng thể phù
hợp, giúp nhà máy thực hiện mục tiêu, kế hoạch đề ra một cách đồng bộ.
-Xác định giá bán, chính sách bán, các kế hoạch phân phối...
-Cung ứng, bảo quản vật t, đảm bảo chất lợng nguyên vật liệu...
Phòng kỹ thuật:
-Tìm cách giảm tiêu hao vật t, máy móc thiết bị, phân tích các chỉ tiêu lý
hoá.
-Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản
xuất để nâng cao chất lợng sản phẩm.
-Chuyên trách kiểm tra, giám định chất lợng sản phẩm, bán thành phẩm trên
dây chuyền công nghệ sản xuất và sản phẩm nhập kho.
-Ngoài ra, tìm biện pháp khắc phục sản phẩm hỏng, sự cố bất ngờ
-Quản lý toàn bộ máy móc thiết bị, lập kế hoạch sửa chữa
-Tập hợp những nghiên cứu, sáng kiến, chế thử sản phẩm mới.
Phòng tài chính kế toán:
-Theo dõi tình hình tài chính của nhà máy.
-Phân phối và sử dụng hiệu quả đồng vốn và nguồn vốn.
-Làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nớc, chính quyền địa phơng.

-Tìm cách hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí sản xuất kinh doanh.
sinh viên thực hiện: Trịnh Phơng Lan
25

×