Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Các Giải pháp phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông hồng đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.52 KB, 45 trang )

Lời nói đầu
Trong số những thành tích đạt đợc của công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nớc,
trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có những bớc đột phá
ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng lên, bộ mặt nông thôn đợc cải
thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm bảo an toàn lơng thực cho đời sống xã hội.
Thế nhng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong thời kì
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế mạnh
mẽ nh hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam
vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát
triển những hình thức sản xuất phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô
hình tốt có thể áp dụng để đáp ứng yêu cầu này.
Đã manh nha từ rất lâu, nhng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây, vai trò của
kinh tế trang trại mới thực sự đợc công nhận và đợc quan tâm chú ý, đặc biệt là sau khi
nghị quyết số 03/2000-CP của Chính phủ ngày 02/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời, thì
kinh tế trang trại mới có đợc một sự trợ giúp của Nhà nớc về cơ chế, chính sách nh là hỗ
trợ cho các doanh nghiệp thông thờng của nền kinh tế thị trờng. Sự tăng nhanh về số l-
ợng, gia tăng về giá trị sản lợng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức sản xuất nông
nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn nớc ta, giúp nông dân làm
giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô đất đai
lớn nh ở vùng trung du miền núi phía Bắc hay vùng đồng bằng phía Nam, nhng đồng
bằng sông Hồng vốn là vùng có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ
thâm canh cao nhất cả nớc. Nhng để ngành nông nghiệp của vùng đáp ứng đợc yêu cầu
phát triển trong thời kì mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông nghiệp nhằm
khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng nh khả năng lao động của con ngời
vùng châu thổ này, và mô hình kinh tế trang trại là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh
tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng đã có nhiều thành tích đáng khích lệ, nhng thật
sự vẫn cha phát triển tơng xứng với tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: khả năng phát
triển kinh tế trang trại của vùng đến đâu? Làm sao để mô hình đợc áp dụng đem lại hiệu
quả kinh tế xã hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: Các
giải pháp phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010.


*Đối tợng nghiên cứu: các trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng
*Phạm vi nghiên cứu: thực trạng phát triển kinh tế trang trại và các yếu tố ảnh h-
ởng, cùng các biện pháp nhằm thúc đẩy qt phát triển của các trang trại.
*Phơng pháp nghiên cứu:
+Phơng pháp thống kê
+Phơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+Phơng pháp quan sát vĩ mô
1
Chơng I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh
tế trang trại
I. Khái niệm, đặc trng và tiêu chí phân loại
Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế kỷ 20,
kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô hình sản xuất phổ
biến nhất của nền nông nghiệp các nớc phát triển, chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai
cũng nh khối lợng nông sản, đặc biệt ở các nớc Anh, Pháp, Nga- nơi bắt đầu cuộc cách
mạng khoa học kĩ thuật đầu tiên của nhân loại.
Trải qua hàng mấy thế kỉ, đến nay, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở những n-
ớc t bản chủ nghĩa lâu đời cũng nh các nớc đang phát triển, các nớc công nghiệp mới và
đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy mô sản xuất khác nhau.
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đợc thừa nhận và đặc biệt là từ sau khi
có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4/98) về đổi mới quản lý kinh tế nhà nớc, kinh tế hộ
nông dân mới từng bớc phục hồi và phát triển, phần lớn họ trở thành những chủ thể tự
sản xuất. Cùng với các hộ gia đình công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích luỹ
về vốn, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm quản lý, tiếp cận đợc với thị trờng, thì sản
xuất nông nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp tự túc và vơn tới nền sản xuất hàng hoá.
Kinh tế trang trại ra đời.
Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn đợc trình bày theo nhiều khía
cạnh khác nhau.
1. Khái niệm về kinh tế trang trại

a. Trang trại
Có thể hiểu trang trại là một đơn vị sản xuất nông, lâm, ng nghiệp với quy mô lớn
theo hớng sản xuất hàng hoá.
b. Kinh tế trang trại
PGS.PTS Lâm Quang Huyên, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp cho rằng:
Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp, hình thành và phát triển
trong nền kinh tế thị trờng từ khi phơng thức này thay thế phơng thức sản xuất phong
kiến. Trang trại đợc hình thành từ các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ tự cấp tự túc
khép kín, vơn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trờng, từng bớc thích
nghi với nền kinh tế cạnh tranh
(1)
(1)
Báo cáo chuyên đề: Chính sách phát triển trang trại và tác động của nó đến việc làm và thu nhập của lao động nông
thôn, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2002.
2
Khái niệm này đã chỉ đúng bản chất sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại nhng
lại sailầm khi cho rằng nguồn gốc cuả các trang trại chỉ là xây dựng từ kinh tế của các
hộ tiểu nông.
Trong nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại. Chính
phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại nh sau: Kinh tế trang trại là hình
thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia
đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông-
lâm- thuỷ sản.
Khái niệm này khá đầy đủ, nêu ra đợc cơ sở, chức năng, hình thức sản xuất của
trang trại nhng cha hớng đến tính chất hàng hoá hớng ra thị trờng của trang trại.
Theo quan điểm của trờng Đại học Kinh tế Quốc dân: Kinh tế trang trại là hình
thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông- lâm- ng nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất
hàng hoá, t liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hay thuộc quyền sử dụng của một chủ thể
độc lập, sản xuất đợc tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất đợc tập

trung đủ lớn với cách tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kĩ thuật cao, hoạt động tự chủ
và luôn gắn với thị trờng.
Đây là một khái niệm đầy đủ về kinh tế trang trại.
c. Tiêu chí xác định một trang trại.
Không phải nhà nớc bỏ qua hình thức tổ chức sản xuất này, nhng vì đến trớc
những năm 2000, do cha có một sự thống nhất về khái niệm cũng nh tiêu chí xác định
trang trại nên mang đầy đủ đặc điểm của một đơn vị sản xuất kinh doanh nhng chủ trang
trại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc xin hởng các chế độ hỗ trợ của nhà nớc.
Thông thờng các nhà thống kê vẫn sử dụng những chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định l-
ợng mà tính định lợng không cao, và các chỉ tiêu này không đợc thống nhất trong cả n-
ớc.
*Tiêu chí định tính:
Có thể dùng tiêu chí này để nhận dạng thế nào là một trang trại, tức là căn cứ vào
mức độ sản xuất nông sản hàng hoá của trang trại để phân biệt kinh tế trang trại với kinh
tế hộ gia đình.
*Tiêu chí định l ợng :
Dùng để phân biệt rõ ràng trang trại và không phải trang trại, và để phân loại các
trang trại khác nhau. Ngày 23/6/2000, Liên bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn-
Tổng cục Thống kê đã ra thông t số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK hớng dẫn tiêu chí để
xác định kinh tế trang trại. Cụ thể nh sau:
3
I.Các đối tợng và ngành sản xuất đợc xem xét để xác định là kinh tế trang trại
Hộ nông dân, hộ công nhân viên nhà nớc và lực lợng vũ trang đã nghỉ hu, các loại
hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm nhiệm các hoạt động dịch vụ phi
nông nghiệp ở nông thôn.
II.Tiêu chí định lợng để xác định là kinh tế trang trại:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản đợc xác định là
trang trại phải đạt đợc cả hai tiêu chí định lợng sau đây:
1.Giá trị sản lợng hàng hoá và dịchvụ bình quân 1 năm:

- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
2.Quy mô sản xuất phải tơng đối lớn và vợt trội so với kinh tế nông hộ tơng ứng
với từng ngành sản xuất và với từng vùng kinh tế.
a.Đối với trang trại trồng trọt:
(1)Trang trại trồng cây hàng năm:
- Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
(2)Trang trại trồng cây lâu năm:
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
- Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
- Trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên.
(3)Trang trại lâm nghiệp:
- Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nớc.
b.Đối với trang trại chăn nuôi:
(1)Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v...
- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thờng xuyên từ 10 con trở lên
- Chăn nuôi lấy thịt có thờng xuyên từ 50 con trở lên
(2)Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v...
- Chăn nuôi sinh sản có thờng xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối với dê,
cừu từ 100 con trở lên
4
- Chăn nuôi lợn thịt có thờng xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa), dê
thịt từ 200 con trở lên.
(3)Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v... có thờng xuyên từ 2000 con trở
lên (không tính số đầu con dới 7 ngày tuổi).
c.Trang trại nuôi trồng thuỷ sản:
- Diện tích mặt nớc có để nuôi trồng thuỷ sản từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi
tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
d.Đối với các loại sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có tính chất

đặc thù nh: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy sản và thuỷ đặc
sản, thì tiêu chí xác định là sản lợng hàng hoá.
2. Đặc trng của kinh tế trang trại
Hầu hết các ý kiến đều thống nhất về đặc trng của kinh tế trang trại ở 3 điểm sau
đây:
2.1.Mục đích sản xuất của kinh tế trang trại là sản xuất nông- lâm- thuỷ sản hàng hoá
với quy mô lớn
Knh tế trang trại là kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hóa, khác với kinh tế tiểu
nông tự cấp tự túc. K.Marx đã phân biệt chủ trang trại với ngời tiểu nông nh sau:
- Chủ trang trại bán ra thị trờng toàn bộ sản phẩm làm ra
- Ngời tiểu nông dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt.
Đây là điểm khác biệt lớn nhất của kinh tế trang trại so với kinh tế cá thể sản xuất
nông nghiệp trớc đây. Sản xuất hàng hoá đòi hỏi các trang trại phải có quy mô lớn để
giảm chi phí đầu vào, tạo ra sản phẩm hàng hoá với giá thành cạnh tranh, chất lợng cao.
Đến lợt nó, sản xuất quy mô lớn lại càng đòi hỏi phải làm ra sản phẩm hàng hoá để trao
đổi trên thị trờng vì rõ ràng ngơì chủ trang trại không thể tiêu dùng hết đợc.
Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu tiểu
nông. Nó đợc đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị sản lợng làm ra
trong một năm hoặc đo bằng tỉ suất hàng hoá của trang trại.
2.2.Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu t dẫn đến chuyên môn hoá và hình thành
các vùng chuyên canh
Bất kì một hình thức sản xuất nông nghiệp nào cũng cần có sự tập trung đất đai và
vốn ở mức độ nhất định. Do tính chất sản xuất hàng hoá quy mô lớn, quá trình phát triển
kinh tế trang trại sẽ dần tạo ra những vùng, tiểu vùng sản xuất nông nghiệp với cơ cấu
sản xuất khác nhau:
5
- Cơ cấu sản xuất độc canh: là mức phát triển thấp của kinh tế trang trại. Trang
trại chỉ sản xuất kinh doanh một loại cây (con) nhất định, tính chuyên nghiệp,
chuyên môn và tính chất hàng hoá cha cao.
- Cơ cấu sản xuất đa dạng: trang trại kết hợp nhiều loại cây trồng vật nuôi để tận

dụng mọi năng lực sản xuất của mình.
- Cơ cấu sản xuất chuyên môn hoá: đây là giai đoạn trang trại đã tích luỹ đủ về
đất đai, vốn, năng lực và kinh nghiệm quản lý để tham gia vào hệ thống phân
công lao động xã hội. Khác với cơ cấu độc canh, sản xuất chuyên môn hoá đòi
hỏi ứng dụng rộng rãi những tiến bộ khoa học kĩ thuật và đạt đến trình độ, tính
chất sản xuất hàng hoá cao. Dần dần, nhiều trang trại cùng chuyên môn hoá
một loại cây trồng, vật nuôi có thể hình thành nên những vùng chuyên canh
rộng lớn.
2.3.Tổ chức và quản lý sản xuất theo phơng thức tiến bộ
Dựa trên cơ sở thâm canh, chuyên môn hoá sản xuất, các trang trại phải có cơ chế
tổ chức và quản lý sản xuất nh là các đơn vị kinh doanh khác, tức là phải hạch toán,
điều hành sản xuất hợp lý và thờng xuyên tiếp cận với thị trờng, khác với lối sản xuất
làm tới đâu thì tới của kinh tế tiểu nông. ở đây hiệu quả kinh tế đợc đặt lên hàng đầu
nên tất cả các hoạt động sản xuất đều phải tính toán lợi ích- chi phí bỏ ra.
Lao động trong trang trại có hai bộ phận: lao động quản lý (thờng là chủ trang
trại) và lao động trực tiếp (lao động gia đình và lao động làm thuê). Số lợng lao động
thuê mớn thay đổi tuỳ loại hình trang trại và quy mô trang trại khác nhau.
Chủ trang trại là ngời có kiến thức và kinh nghiệm, trực tiếp điều hành sản xuất,
biết áp dụng khoa học công nghệ. Thu nhập của trang trại vợt trội so với kinh tế hộ.
3. Phân loại kinh tế trang trại
3.1. Theo quy mô đất sử dụng, có thể chia 4 loại:
- Trang trại nhỏ: dới 2 ha
- Trang trại vừa: 2-5 ha
- Trang trại khá lớn: 5-10 ha
- Trang trại lớn: trên 10 ha
3.2. Phân loại theo cơ cấu sản xuất, chia thành:
* Trang trại trồng trọt:
- Trang trại trồng rừng: thờng có quy mô lớn và đợc phát triển ở các vùng núi
phía Bắc. Loại hình trang trại này không chỉ đòi hỏi lợng vốn lớn mà thời gian
thu hồi vốn lại dài (5-10 năm hoặc hơn) cho nên để ngời kinh doanh trang trại

có điều kiện nhận thì phải có cơ chế chính sách hỗ trợ về lâu dài.
6
- Trang trại trồng cây ăn quả: Đây là loại hình trang trại phổ biến không chỉ ở
miền núi mà còn rất thích hợp với vùng đồng bằng, đặc biệt là Đồng bằng Bắc
Bộ và Đồng bằng Nam Bộ. Tuỳ điều kiện đất đai, khí hậu và ý tởng kinh
doanh mà chủ trang trại có thể lựa chọn trồng một hay nhiều loại cây ăn quả
khác nhau.
- Trang trại trồng cây công nghiệp: Loại hình này thờng chỉ phù hợp với những
vùng đất có tính chất đặc thù. Có lẽ đây là loại hình trang trại ra đời ở Việt
Nam sớm nhất, bắt đầu từ những đồn điền cao s của các ông chủ ngời Pháp.
Đến nay, cây công nghiệp đợc trang trại lựa chọn rất đa dạng, bao gồm cả cây
công nghiệp dài ngày (cà phê, tiêu, điều...) và cây công nghịp ngắn ngày
(đay...)
- Trang trại trồng cây lơng thực, thực phẩm: quy mô đất nhỏ. Rất phù hợp với
điều kiện đất đai và khí hậu vùng đồng bằng. Trong nhóm này, cây lúa chiếm
một vị trí đáng kể.
- Trang trại kinh doanh đặc thù: đó là các trang trại trồng hoa cảnh, cây cảnh,
hoặc nuôi vật cảnh, cung cấp giống cho nông dân... Loại này không đòi hỏi
diện tích đất đai lớn, vốn lớn nhỏ tuỳ loại sản phẩm nhng phải có trình độ khoa
học kĩ thuật. Rất phù hợp với các vùng đồng bằng vốn đất đai hạn chế.
*Trang trại chăn nuôi:
Loại hình trang trại này cũng rất đa dạng. Nếu là vùng núi trung du rộng lớn, th-
ờng chăn nuôi các loại đại gia súc (bò, dê...) còn ở vùng đồng bằng là các loại gia súc
nhỏ (lợn, đà điểu,...) và gia cầm.
*Trang trại thuỷ sản: loại hình trang trại này rất đặc thù, nhất thiết phải có mặt nớc nuôi
trồng thuỷ sản với một diện tích nhất định. Ven biển Đồng bằng Sông Hồng có rất nhiều
yếu tố để phát triển ngành này. Tuy nhiên, các trang trại thủy sản cũng rất thờng xuyên
phải đối mặt với những rủi ro về khí hậu do những đặc trng riêng của ngành.
*Trang trại kinh doanh tổng hợp: chủ trang trại có thể kết hợp trồng trọt với chăn nuôi,
trồng trọt với nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất với dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp hoặc thậm

chí tất cả các hình thức miễn sao có lợi.
3.3. Phân loại trang trại theo chủ thể kinh doanh
Chủ trang trại có thể sở hữu hoặc đi thuê t liệu sản xuất. Trờng hợp phổ biến là
chủ trang trại sở hữu quyền sử dụng đất nhng phải đi thuê máy móc, thiết bị, chuồng
trại, kho tàng. ở Việt Nam, ngời chủ trang trại chỉ có quyền sử dụng đất (t liệu sản xuất
chủ yếu) chứ không có quyền sở hữu nên tốt nhất không phân loại theo loại hình sở hữu
về t liệu sản xuất.
Theo chủ thể kinh doanh, có thể chia kinh tế trang trại thành:
7
-Trang trại nhà nớc: nh nông trờng quốc doanh, công ty nông nghiệp nhà nớc, th-
ờng có quy mô lớn nên hình thành nên nhiều cấp trung gian. Các nông trờng các công ty
này lại khoán cho gia đình công nhân lập trang trại gia đình.
-Các hợp tác xã nông nghiệp: sau khi luật hợp tác xã ra đời, nhiều hợp tác xã
nông nghiệp chuyển thành hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra cho các hộ gia đình nông
dân. Hợp tác xã nông nghiệp cũng có thể hình thành nhờ sự hợp tác sản xuất của các xã
viên. Hình thức này ngày nay rất ít tồn tại.
-Trang trại của công ty hợp doanh: Là loại hình kinh doanh nông nghiệp quy mô
lớn theo hớng sản xuất hàng hoá của các công ty hợp doanh. Họ có thể trực tiếp sản xuất
hoặcgiao cho các hộ gia đình hay một đơn vị kinh tế khác làm, hùn vốn hay góp phần
lớn vốn góp.
-Trang trại gia đình: Đây là loại hình phổ biến nhất của kinh tế trang trại trên thế
giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Loại hình này thực chất là các hộ nông dân từ
kinh tế tiểu nông sản xuất tự túc, tiến lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá với các
mức độ khác nhau. Trang trại gia đình rất đa dạng về quy mô, về sở hữu và sử dụng
ruộng đất, về chủng loại và số lợng lao động với số lợng khác nhau, về nguồn vốn và
khoa học công nghệ, về ngành nghề, mặt hàng sản xuất.Trong hình thức này, mỗi gia
đình là một chủ thể kinh tế, họ bỏ vốn và sức lao động để sản xuất, tự lo cả đầu vào và
đầu ra cho sản phẩm.
-Trang trại t nhân kinh doanh nông nghiệp: là loại trang trại của cá nhân các nhà
t bản, công thơng gia, hoặc công ty cổ phần , hoặc thuê đất đai, thuê lao động sản xuất

kinh doanh nông nghiệp nghĩa là họ hoàn toàn sử dụng lao động làm thuê nh các doanh
nghiệp t nhân kinh doanh công nghiệp, dịch vụ khác của nền kinh tế.
II. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế-xã hội
vùng
Bất kì một hình thức sản xuất nào cũng gây ảnh hởng đến đời sống kinh tế xã hội
nói chung. Là một thực thể kinh tế, các trang trại hình thành và phát triển đã có những
đóng góp không nhỏ cả về mặt tăng trởng kinh tế và phát triển xã hội, làm thay đổi bộ
mặt nông nghiệp- nông thôn.
1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển sản xuất
nông nghiệp- nông thôn
Các ngành sản xuất đều có xu hớng tích luỹ về vốn và các yếu tố sản xuất khác: t
liệu, lao động, kinh nghiệm, trình độ quản lý... Trong nông nghiệp cũng vậy. Những
năm cuối thế kỷ 17 ở các nớc bắt đầu công nghiệp hoá, đã có chủ trơng thúc đẩy các quá
trình tập trung ruộng đất, xây dựng các xí nghiệp nông nghiệp t bản quy mô lớn với hi
vọng mô hình này sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ hơn sản xuất gia đình
phân tán. Lúc đầu Marx cũng cho rằng đây là điều tất yếu trong qúa trình công nghiệp
8
hoá nền nông nghiệp t bản chủ nghĩa nhng trong tác phẩm cuối cùng của mình, ông đã
viết: Ngay ở nớc Anh nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất có lợi nhất không
phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng
lao động làm thuê.
(2)
Sở dĩ nh vậy là vì sản xuất nông nghiệp có đặc trng khác với công
nghiệp ở chỗ là phải tác động vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên không phù
hợp với hình thức tổ chức sản xuất tập trung quy mô quá lớn.
Công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới nông nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu
cách đây gần hai chục năm. Cơ chế thị trờng không chỉ tác động mạnh mẽ đến hoạt
động của các ngành công nghiệp, dịch vụ mà còn làm thay đổi căn bản mục đích và do
đó thay đổi cả phơng thức sản xuất trong nông nghiệp. Sự phát triển của trao đổi hàng
hoá đặt ra yêu cầu làm ra sản phẩm phải là hàng hoá với giá cả hợp lý và chất lợng đảm

bảo hơn. Không chỉ là các nông trại lớn, ngay cả các đơn vị sản xuất nhỏ nh hộ gia đình
cũng hiểu rõ mục đích sản xuất của mình: sản phẩm để bán chứ không phải để tiêu
dùng.
Khi nông nghiệp đã có một bớc chuyển mình đáng kể, nhiều hộ nông dân đã giàu
lên, nhận thức và hiểu biết về khoa học kĩ thuật ngày càng sâu sắc, kinh nghiệm và khả
năng quản lý, tổ chức sản xuất ngày càng đợc nâng cao, vốn tích luỹ đạt đến một mức
độ nhất định, thì cũng là lúc ngời kinh doanh nông nghiệp phải nghĩ đến một hình thức
tổ chức sản xuất nông nghiệp mới, có quy mô lớn hơn, tỉ suất lợi nhuận cao hơn. Thế là
họ bỏ vốn, lập nên các trang trại, thuê nhân công và hoạt động nh một nhà kinh doanh
thật sự.
Nhận thức đợc vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong phát triển kinh tế nói
chung, phát triển nông nghiệp- nông thôn nói riêng, Chính phủ đã có khá nhiều văn bản
quan trọng về các vấn đề: đất đai cho trang trại, vốn sản xuất cho trang trại, hỗ trợ khâu
cung ứng đầu vào, đầu ra... Có thể nói, cha bao giờ kinh tế trang trại đợc quan tâm đúng
mức nh những năm gần đây.
Tuy vậy, kinh tế nớc ta đang trong qúa trình chuyển từ một nền kinh tế tự cung tự
cấp sang một nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trờng, sự quá độ của nền
kinh tế lại quy định tính đa dạng của nó, về trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, về
sở hữu t liệu sản xuất... Tính không đồng đều về trình độ sản xuất, một mặt dẫn tới
những hình thức tổ chức sản xuất khác nhau, mặt khác, dẫn tới sự không thống nhất của
mỗi hình thức tổ chức sản xuất. Do vậy trang trại nớc ta cũng không thể thuần nhất khi
mà kinh tế còn trong thời gian quá độ. Đó cũng là một quy luật phát triển nh quy luật
phát triển của các mô hình sản xuất khác mà thôi.
Nh vậy, kinh tế trang trại là một thực thể khách quan, xuất hiện nh là kết quả của
quá trình tích luỹ về vốn, kinh nghiệm, năng lực của ngời chủ sản xuất, do tác động của
cơ chế thị trờng, mà trong đó, trang trại gia đình (với một số u thế riêng sẽ đợc xem xét
ở phần sau) là mô hình đợc lựa chọn số 1.
(2)
K.Marx, Toàn tập, tập 25, phần 2.
9

2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản xuất nông
nghiệp
2.1. Góp phần chuyên môn hoá sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp- nông
thôn, phát triển kinh tế hàng hoá
Nh đã nói, đặc trng của kinh tế trang trại là mức độ tập trung cao về đất đai và
tích luỹ lâu dài về vốn, đã dần tạo nên một quy mô vợt trội so với sản xuất của hộ gia
đình. Với riêng mỗi trang trại, trong giai đoạn đầu do còn thiếu vốn và khả năng sản
xuất cũng nh kinh nghiệm quản lý, họ thờng kết hợp sản xuất nhiều loại nông sản khác
nhau nhng sau đó, do sự tích luỹ về các yếu tố trên, trang trại sẽ hớng theo một vài loại
sản phẩm dođó quy mô của loại sản phẩm này cũng lớn lên. Do ảnh hởng của các lợi thế
về quy mô, ta sẽ thấy các trang trại ở trong cùng một vùng có điều kiện tự nhiên giống
nhau sẽ trồng hay nuôi cùng một loại cây, con nh nhau, xây dựng các mô hình thâm
canh, chuyên canh, tiếp cận các biện pháp canh tác hiện đại, từ đấy các vùng chuyên
canh, vùng chuyên môn hoá hình thành, trở thành vùng cung cấp nguyên liệu rộng lớn
cho các cơ sở chế biến.
Đến lúc này, sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật
vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp, chất lợng cao và đồng đều. Vì mục
đích của kinh tế trang trại là thị trờng: sản xuất cái gì, khối lợng bao nhiêu, chất lợng ở
mức độ nào,... đều phải bắt kịp các tín hiệu của thị trờng. Và vì xu hớng của trang trại là
ngày càng đòi hỏi sản phẩm có chất lợng cao hơn, nên cơ cấu sản xuất của trang trại
cũng thay đổi, hàm lợng khoa học kĩ thuật trong sản phẩm nông nghiệp thậm chí tăng
lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại sẽ tăng tỉ lệ chăn nuôi, giảm tỉ lệ trồng trọt, một số
tiểu ngành nh sản xuất thực phẩm cao cấp, hoa kiểng... ngày càng phát triển, đem lại
nguồn thu lớn.
2.2. Góp phần làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp
Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...) giúp
các trang trại tạo ra một khối lợng sản phẩm lớn. Trang trại có điều kiện thuận lợi trong
cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc
biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, sử dụng máy móc, trang
thiết bị hiện đại trong hoạt động sản xuất. Với các hộ gia đình, chi phí cho các thiết bị

này chiếm tỉ lệ quá lớn so với thu nhập và giá trị sản phẩm làm ra, nên thông thờng họ
phải đi thuê, tỉ suất lợi nhuận vì thế cũng thấp, khiến cho giá trị của cả ngành nông
nghiệp giảm theo.
Cũng nhờ quy mô lớn, chuyên môn hoá cao, cùng với tính chất sản xuất hàng hoá
mà sản phẩm của trang trại là những sản phẩm có giá trị cao. Thông thờng thì ngời làm
trang trại hiểu rõ mục đích sản xuất của mình là cung cấp cho thị trờng, nên họ chỉ chọn
kinh doanh những loại cây, con sao cho có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng đúng yêu cầu
mà thị trờng đòi hỏi. Hơn thế nữa, sản phẩm làm ra thờng có giá thành cạnh tranh, chất
lợng đồng đều, có khả năng cung cấp với khối lợng lớn nên thờng dễ đợc các cơ sở chế
10
biến và ngời tiêu dùng chấp nhận. Giá trị sản phẩm cao không chỉ đem lại thu nhập cho
chủ trang trại mà trong phạm vi toàn ngành, nó sẽ là phần đóng góp đáng kể để gia tăng
giá trị ngành sản xuất nông nghiệp.
2.3. Góp phần vào sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ, đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp- nông thôn
Sản phẩm nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công nghiệp, đặc biệt
là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lợng, chất lợng, giá cả nông sản cung cấp cho
một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm nhà
máy này. Không những thế, sản phẩm của trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành
công nghiệp cơ khí, công nghiệp năng lợng trong các mối liên hệ ngợc với các ngành
này. Để làm ra sản phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lợng,
cần đợc cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang trại kinh
doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này cần đợc sự giúp đỡ
của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm... Mối quan hệ qua lại này chỉ ra
rằng: sự phát triển của ngành này là động lực phát triển của ngành kia.
Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một bộ phận
nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghiệp- nông thôn tăng lên kéo theo sự khởi sắc
của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trờng.
Nh vậy, kinh tế trang trại không chỉ là lực lợng xung kích đi đầu trong lĩnh vực
sản xuất nông sản hàng hoá, mà còn là lực lợng đi đầu trong ứng dụng khoa học công

nghệ nông nghiệp, do đó là nhân tố cơ bản cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp- nông thôn nớc ta. Điểm yếu của công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn
là tính chất lạc hậu, manh mún, phân tán của sản xuất nông nghiệp nớc ta nói chung và
vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng (cho dù vùng Đồng bằng sông Hồng vẫn là vùng
có trình độ thâm canh cao nhất cả nớc) nên đã hạn chế khả năng thay đổi cách thức sản
xuất từ thủ công sang lao động bằng máy móc hiện đại. Quy mô đất đai và vốn lớn của
các trang trại sẽ khắc phục nhợc điểm này.
Nói chung, trong điều kiện kinh tế thị trờng, với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc, mô hình kinh tế trang trại là một hớng đi đầy triển vọng cho nông
nghiệp Việt Nam. Chắc chắn trong tơng lai, sự phát triển của nông nghiệp vùng Đồng
bằng Sông Hồng phải bao gồm cả sự phát triển của mô hình kinh tế trang trại.
3. Tác động về mặt xã hội và môi trờng
3.1. Góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Cho đến nay Đồng bằng Sông Hồng vẫn còn đến hơn 70% lao động là ở nông
thôn. Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất nông nghiệp cùng với việc mở rộng dần
phạm vi ứng dụng của máy móc hiện đại càng làm tăng tỉ USD lệ thất nghiệp trá hình.
Theo ớc tính, lao động ở khu vực nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian
lao động nông nghiệp, nh vậy là đã lãng phí một lợng lớn lao động nông thôn. Trong số
11
đó thậm chí nhiều ngời thậm chí còn hoàn toàn không có cả việc làm. Một phần lao
động d thừa ấy sẽ đợc giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại không chỉ giải
quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng nh ngời nhà của họ mà còn thu hút đợc
một lực lợng đáng kể lao động làm thuê.
3.2. Phát triển lựclợng sản xuất và quan hệ sản xuất
Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lợng sản xuất xét ở 3 khía
cạnh:
Một là, nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn thu nhập
cao hơn cho ngời lao động tham gia sản xuất và trong thực tế, rất nhiều nông dân đã
giàu lên thực sự bằng con đờng này. Không những thế, những lao động làm thuê cũng đ-
ợc hởng một mức thu nhập cao hơn trớc đây, nhờ đó đời sống đợc cải thiện cả về mặt vật

chất và tinh thần.
Hai là, dựa vào u thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học
kĩ thuật mà trình độ kĩ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá nông nghiệp của vùng
nói chung đợc nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này, máy móc là bộ phận vô cùng quan
trọng của lực lợng sản xuất nông nghiệp, và sự phát triển của máy móc (xét cả về số l-
ợng và chất lợng) chính là sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Ba là, kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối quan hệ giữa
nông dân- nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê nhân công, đồng thời đẩy
mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất- chế biến- tiêu thụ của quy trình sản
xuất hàng hoá. Tiếp theo đó là mối liên hệ giữa các chủ trang trại và nhà cung cấp, cũng
đợcnâng lên thông qua các loại hình dịch vụ và chuyển giao kĩ thuật.
3.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn
Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại cần
phải đợc đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại. Nhằm nâng cao
hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp với các địa phơng, cùng
các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề chung này (giao thông, điện, nớc,
thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...), các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các
phơng tiện vận tải đợc mở rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của
các trang trại. Và vì không phải trang trại nào cũng có khả năng tự xây dựng hệ thống
này nên cần có những sự giúp đỡ của nhà nớc.
Đi đôi với việc phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất là hệ
thống cơ sở phục vụ đời sống nhân dân, hệ thống trờng học, trạm xá, chợ, các công trình
văn hoá, thể thao... Một số thị tứ đã hình thành cùng với sự phát triển của kinh tế trang
trại.
Đồng bằng Sông Hồng, đóng góp của kinh tế trang trại sẽ là góp phần xây dựng
mới, tu sửa va mở rộng mạng lới thuỷ lợi, hệ thống đờng sá nối khu vực nông thôn với
12
thành thị và các khu vực nông thôn với nhau, nhất là các vùng ngoại thành xa trung tâm
đô thị, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các trung tâm nghiên cứu khoa học.
3.4.Khai thác hiệu quả các nguồn lực

Thực tế cho thấy trong các mô hình kinh tế trang trại các yếu tố nguồn lực thờng
đợc sử dụng hiệu quả hơn so với kinh tế hộ. Không còn mang tính chất tự sản tự tiêu, cơ
chế thị trờng buộc các doanh nghiệp trang trại phải hạch toán kinh doanh do đó vì lợi
nhuận, các yếu tố đầu vào nh đất đai, chi phí mua giống, phân bón, trang thiết bị máy
móc, thuê mớn nhân công,... đều đợc tính toán sao cho đem lại tỉ suất lợi nhuận cao.
Rộng hơn, kinh tế trang trại còn góp phần tích cực vào việc huy động tiền vốn đọng
trong một bộ phận lớn nông dân lâu nay vào sản xuất nông nghiệp.
3.5. Những lợi ích về môi trờng:
Đối với vùng Đồng bằng Sông Hồng, các trang trại trồng rừng gần nh không đáng
kể, nhng số lợng số lợng các trang trại còn lại đã góp phần đáng kể vào công cuộc xây
dựng một nền nông nghiệp đa dạng, sinh thái, bền vững.
Tóm lại, mô hình kinh tế trang trại không chỉ là một mô hình thích hợp với sản
xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng mà nó còn phù hợp với cơ chế thị trờng
và đem lại những lợi ích to lớn cả về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về vai trò
của nó cha đủ để chúng ta xây dựng đợc hệ thống các giải pháp hiệu quả, bởi vì ta còn
phải xem xét các yếu tố ảnh hởng đến phát triển kinh tế trang trại nữa.
III. Các nhân tố ảnh hởng đến phát triển kinh tế trang trại vùng
Đồng bằng Sông Hồng
1. Nhóm các nhân tố tài nguyên thiên nhiên
1.1. Đất đai
Quan trọng nhất đối với sản xuất nông nghiệp là yếu tố đất đai. Dù áp dụng bất cứ
hình thức sản xuất nào, kinh doanh bất cứ loại nông sản nào, chủ trang trại cũng phải
phát triển trêncơ sở một diện tích đất đai nhất định. ảnh hởng của đất đai đến phát triển
kinh tế trang trại quyết định bởi:
- Quy mô đất đai: tức là diện tích cần thiết để tạo ra một khối lợng nhất định sản
phẩm. Nói chung, một quy mô đất sản xuất rộng lớn là một điều kiện thuận lợi cho kinh
tế trang trại.
- Đặc điểm của đất đai: Đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng cần phải tính đến
khi tiến hành sản xuất, nhất là với các trang trại trồng trọt. Nh ta đã biết, Đồng bằng
Sông Hồng vốn là một vùng châu thổ, đất phù sa bồi lắng hàng nghìn năm màu mỡ, nh-

ng theo tiến trình khai thác mộtcách lạc hậu và không tính đến hậu quả lâu dài cho nên
đến nay, nhiều vùng đất đã trở nên bạc màu, muốn trồng trọt phải chi phí cải thiện đất
13
rất tốn kém. Bên cạnh đó còn các vùng đất mặn, đất phèn, đất nhiều khoáng sản,... rất
khó canh tác, nhng cũng còn nhiều đất màu thuận lợi chocác loại cây trồng phát triển.
Nếu là một trang trại chăn nuôi thì đất đai cha phải là một yếu tố quan trọng lắm.
Tuy rằng một trang trại phát triển trên vùng đất đai rộng lớn thì thờng có khả
năng phát đạt nhanh, nhng thực tế, vẫn có những trang trại nhỏ mà hiệu quả kinh doanh
lại lớn. Vấn đề là ở chỗ chủ trang trại biết và vận dụng những sự hiểu biết về khoa học kĩ
thuật, sử dụngmáy móc để tiến hành thâm canh, chuyên canh sao cho thật hiệu quả, nhất
là trong điều kiện đất đai ngày càng trở nên khan hiếm, khi đó kinh tế trang trại mới
thực sự chứng tỏ tính u việt của mình so với kinh tế hộ gia đình.
1.2. Thời tiết, khí hậu
Yếu tố thời tiết ảnh hởng mạnh mẽ đến cơ cấu sản xuất của cả trang trại chăn
nuôi và trang trại trồng trọt, bởi lẽ chúng là những đối tợng sống đợc đặt trong một
môi trờng sống ảnh hởng trực tiếp đến khả năng sinh trởng và sinh sản. So với các
vùng trong cả nớc, khí hậu của vùng Đồng bằng Sông Hồng có thể xếp vào bậc nhất về
mức độ thuận lợi và đa dạng, thích hợp với rất nhiều loài động, thực vật khác nhau. Nhờ
số giờ nắng cao, tính chất nóng ẩm của mùa hè và không khí lạnh của mùa đông, vùng
Đồng bằng Sông Hồng có điều kiện để đa dạng hoá cơ cấu cây trồng của mình, cả các
loài cây nhiệt đới và cây ôn đới. Không những thế, sự phong phú của khí hậu ở các
vùng, miền khác nhau, ở các độ cao khác nhau cũng tạo điều kiện để có một cơ cấu chăn
nuôi đa dạng cho cả vùng.
2. Các nhân tố kinh tế xã hội
2.1. Lao động của trang trại
Bao gồm lao động quản lý và lao động sản xuất trực tiếp, xét trên 2 khía cạnh: số lợng
và chất lợng.
-Số lợng lao động tuỳ thuộc vào: quy mô sản xuất của trang trại, trình độ cơ giới
hoá, yêu cầu về nhân công do đặc trng của ngành sản xuất, và khả năng thuê mớn lao
động của chủ trang trại. Chắc chắn, so với kinh tế hộ, số lao động của trang trại sẽ nhỏ

hơn, nhng đó là điều cần thiết để có hiệu quả kinh doanh cao, tạo ra động lực cho cả
ngành nông nghiệp phát triển. Hiện nay, do có sự d thừa lao động nông thôn mà các chủ
trang trại có thể dễ dàng thuê lao động với chi phí thấp.
-Chất lợng lao động phụ thuộc: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, kinh nghiệm, tay
nghề, mức độ tận tuỵ của ngời lao động. Nhìn chung, lao động cung cấp cho các trang
trại thờng là nông dân (ngay cả bản thân chủ trang trại cũng thờng xuất thân nh vậy) nên
mức độ linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trờng còn thấp. Phần vốn lớn nhất mà họ có
là kinh nghiệm và những hiểu biết truyền thống về sản xuất nông nghiệp. Dù sao, Đồng
bằng Sông Hồng cũng là vùng mà nông nghiệp đợc cơ giới hoá nhanh và sớm nhất cả n-
ớc, tiếp cận với sản xuất hàng hoá sớm nhất nên ít nhiều khả năng đáp ứng của ngời lao
động cũng có phần nhỉnh hơn những vùng khác.
14
Sự phát triển của kinh tế trang trại còn phụ thuộc vào trình độ tổ chức và quản lý
của chủ trang trại. Họ là những ngời có kinh nghiệm hoặc ít ra cũng là những ngời mạnh
dạn, có hiểu biết về thị trờng, về kinh tế hàng hoá, về cách thức sản xuất hiện đại.
Trong điều hiện hiện nay, có rất nhiều lao động có kinh nghiệm, có trình độ, am
hiểu khoa họckĩ thuật, và lựclợng này cung cấp cho trang trại một đội ngũ nhà nghiên
cứu, những kĩ s nông nghiệp... chính họ bằng lao động chất xám của mình sẽ góp phần
nâng cao sản lợng và chất lợng của nông phẩm.
2.2. Sự tích tụ vốn sản xuất:
Đây là điều kiện cần thiết để kinh tế hộ chuyển thành kinh tế trang trại. Kinh tế
trang trại là một mô hình sản xuất lớn có tỉ suất hàng hoá cao, chấp nhận cạnh tranh
ngày càng gay gắt và đặc biệt là luôn vận động theo các quy luật khách quan của cơ chế
thị trờng, nên ngày càng cần phải đợc tăng nguồn vốn đầu t cho phát triển.
Nguồn vốn cung cấp cho các trang trại bao gồm: sự hỗ trợ từ ngân sách địa ph-
ơng, từ phía nhà nớc, vốn tự có của chủ trang trại, vốn vay, vốn tín dụng, trong đó chủ
yếu là vốn của chủ trang trại, phần hỗ trợ từ phía nhà nớc là rất hạn hẹp, vì thế khả năng
tích luỹ vốn để mở rộng kinh doanh, đầu t trang trại thiết bị công nghệ tiên tiến là rất
khó khăn.
2.3. Những tác động của thị trờng

Cùng với vốn, thị trờng, là vấn đề sống còn của kinh tế trang trại, bao gồm cả thị
trờng đầu vào và thị trờng đầu ra, đặcbiệt là thị trờng tiêu thụ sản phẩm. Chúng tác động
một cách mạnh mẽ tới t duy và cáchthức hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại,
đẩy nhanh phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá ở nông thôn, nhờ đó dân c thoát khỏi
t duy kinh tế theo lối tiểu nông.
Vì là sản xuất hàng hoá nên vấn đề cung ứng vật t (thị trờng đầu vào) là rất quan
trọng. Nó ảnh hởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của trang trại, và rõ ràng là một thị
trờng đầu vào có sự độc quyền sẽ gây ra rất nhiều điều bất lợi, chủ trang trại sẽ phải mua
vật t với giá cao mà chất lợng không đảm bảo. Vì vậy cũng cần có sự quan tâm của nhà
nớc trong lĩnh vực này.
Còn thị trờng sản phẩm đầu ra là một trong những vấn đề các trang trại quan tâm
nhất, nó phát đi các tín hiệu định hớng cho các thị trờng nên sản xuất loại nông sản nào,
khối lợng, chất lợng ra sao, sản xuất nh thế nào thì hiệu quả... Tuy vậy, hiện nay có một
hạn chế rất lớn là cho đến nay, hầu hết các trang trại là hình thành tự phát, hoạt động
chủ yếu mới ở khâu sản xuất và mới chỉ tạo ra sản phẩm nguyên liệu nên thờng xuyên
rơi vào tình trạng không có đầu ra hoặc tiêu thụ chậm, bị ép giá sản phẩm (nhất là các
sản phẩm tơi sống) làm ảnh hởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.
2.4. Tiến bộ khoa học công nghệ
15
Khoa học công nghệ ảnh hởng trực tiếp đến sản xuất của trang trại vò đâu là một
hình thức sản xuất ứng dụng rộng rãi những thành tựu của nó, từ máy móc thiết bị, đến
kĩ thuật canh tác, tạo ra nhiều giống mới có năng suất, chất lợng cao cung cấp cho thị tr-
ờng, đặc biệt là trong khâu chế biến nông sản. Công nghệ phù hợp, không chỉ giải quyết
hết nhu cầu chế biến sản phẩm, mà còn là một trong những biện pháp để giảm giá thành,
nâng cao sức cạnh tranh.
2.5. Cơ sở hạ tầng nông thôn
Đây chính là bầu không khí sống của kinh tế trang trại, là yếu tố hỗ trợ cho
kinh tế trang trại và trong nhiều trờng hợp, nó mang tính quyết định. Một hệ thống thuỷ
lợi tốt, một nạng lới điện và thông tin liên lạc đồng bộ, đầy đủ, giáo dục đào tạo và một
hệ thống thơng mại đáp ứng đúng nhu cầu, là điều kiện thuận lợi nh là sự thuận lợi với

các yếu tố đầu vào khác. Một hệ thống đờng giao thông hoàn chỉnh nối vùng sản xuất-
chế biến- tiêu thụ là một trong những điều kiện cần thiết để tạo ra một cơ chế sản xuất
liên hoàn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
Những tác động phức tạp của các yếu tố kinh tế- xã hội sẽ đợc đơn giản hoá và có
lợi nếu các chủ trang trại linh hoạt, khéo léo tận dụng những thời cơ mà chúng đem lại,
có phơng án phòng tránh rủi ro, đồng thời phải có sự can thiệp của một chủ thể mà nhờ
đó, mục tiêu kinh doanh của trang trại mới trở nên hoàn chỉnh: đó là Nhà nớc.
3. Vai trò của Nhà nớc.
Trong một nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa nh nền kinh tế nớc ta,
những chính sách, thể chế mà nhà nớc ban hành luôn là yếu tố ảnh hởng trc tiếp và
mạnh mẽ đến các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, cũng nh đến sự phát triển của
kinh tế trang trại. ảnh hởng này thể hiện ở các điểm sau đây:
- Quy hoạch đất đai và các quy hoạch vùng chuyên môn hoá
- Các chính sách về đất đai
- Các chính sách về vốn đầu t, tín dụng và thuế
- Chính sách lao động
- Chính sách thị trờng
- Chính sách khoa học- công nghệ- môi trờng
- Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu t cho trang trại
- Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
- Môi trờng pháp lý.
Những chính sách này đã khuyến khích kinh tế trang trại phát triển đúng hớng,
phát huy đợc các mặt mạnh và thuận lợi, hạn chế khắc phục khó khăn và trở ngại trong
16
điều kiện các mối quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành và phát triển của kinh tế
trang trại vốn rất đa dạng, tinh tế và phức tạp.
IV. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở một số nớc châu á
1. Đặc điểm kinh tế trang trại ở các nớc châu á
Qua khảo sát tình hình phát triển kinh tế trang trại của các nớc ở khu vực Châu á,
có những đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội gần gũi với nớc ta, chúng ta có thể rút ra

những nhận xét, kinh nghiệm thực tế, bổ ích để tham khảo và vận dụng có chọn lọc vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Từ khi bắt đầu công nghiệp hoá, kinh tế trang trại ở các nớc Châu á đã hình thành
và phát triển và đến khi đạt trình độ công nghiệp hoá cao, kinh tế trang trại vẫn tồn tại,
và đóng vai trò của lực trong nền công nghiệp sản xuất nông sản hàng hoá, giống nh ở
các nớc công nghiệp phát triển Âu Mĩ. Thực tế đã chứng minh kinh tế trang trại là loại
hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, là lực lợng
xung kích sản xuất nông sản hàng hoá.
Đặc điểm của kinh tế trang trại các nớc Châu á là quy mô nhỏ bé, phổ biến quy
mô bình quân trên dới 1 ha chỉ bằng 1/20- 1/10 của các nớc Tây Âu và bằng 1/200-
1/100 của các nớc Bắc Mĩ. Nhng các trang trại quy mô nhỏ Châu á vẫn còn những tính
chất cơ bản của kinh tế trang trại, nh đảm bảo tỉ suất hàng hoá cao, khối lợng nông sản
nhiều (khi các trang trại sản xuất chuyên môn hoá từng mặt hàng ở vùng tập trung) vẫn
dung nạp đợc các trình độ khoa học công nghệ nông nghiệp từ các trang trại nhỏ tren dới
1 ha đã có cơ giới liên hoàn, đồng bộ các khâu sản xuất lúa, và nhiều cây khác... Tất
nhiên, quy mô đất đai của các trang trại lớn hay nhỏ không phải là điều kiện quyết định
năng lực sản xuất nông sản hàng hoá và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
Kinh tế trang trại ở các nớc Châu á đến nay vẫn có nhiều quy mô cực nhỏ (dới 0,5
ha), nhỏ (trên dới 1 ha), vừa (3-5 ha) và lớn (8-10ha), cơ cấu quy mô khác nhau nay tiếp
tục tồn tại lâu dài.
Tiêu chí phân biệt kinh tế trang trại với kinh tế tiểu nông chủ yếu là dựa vào tiêu
chí sản xuất hàng hoá tỉ suất cao, khối lợng và giá trị sản lợng nhiều, không phải dựa
vào quy mô lớn, vốn đầu t nhiều, số lợng lao động sử dụng nhiều...
Kinh tế trang trại ở Châu á có hai loại hình phổ biến: trang trại sản xuất theo ph-
ơng thức gia đình và trang trại sản xuất theo phơng thức t bản chủ nghĩa.
Trang trại gia đình là loại trang trại phổ biến nhất ở các nớc Châu á cũng nh ở các
nớc Âu Mĩ. Còn trang trại t bản t nhân chiếm số lợng và tỉ USD trọng không lớn trong
tổng số trang trại, vì sản xuất kinh doanh nông nghiệp trực tiếp, thành phần đầu t vốn
nhiều, dài hạn, thu hồi chậm, lợi nhuận thấp, không hấp dẫn đối với các nhà đầu t t bản
t nhân.

17
Kinh tế trang trại ở các nớc Châu á phát triển ở tất cả các vùng kinh tế: đồi núi,
đồng bằng, ven biển, nhng ở mỗi nớc có bớc đi cỵthể riêng, tuỳ thuộc vào đặc điểm tự
nhiên- kinh tế- xã hội. ở Nhật Bản đồi núi và đồng bằng đan xen nhau, nên ltr phát triển
đồng thời ở các vùng trong cả nớc. ậ Thái Lan, phát triển trang trại trồng lúa và chăn
nuôi lợn gà, xuất khẩu tập trung ở đồng bằng trung tâm, trang trại trồng sắn xuất khẩu
vùng đồi núi và trang trại nuôi tôm xuất khẩu ở vùng ven biển. Malaysia, Indonesia thì
tập trung phát triển kinh tế trang trại ở vùng đồi núi trớc là vùng sản xuất cao su, cọ dầu,
hồ tiêu, ca cao, là những nông sản xuất khẩu có giá trị còn ở đồng bằng thì trồng lúa,
kinh tế trang trại phát triển chậm phát triển hơn vì ở đây quỹ đất hạn chế, sản lợng hàng
hoá ít.
2. Bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông
Hồng
-Trớc hết cần xoá bỏ ngay quan niệm về kinh tế trang trại là phải sản xuất trên
những diện tích đất đai rộng lớn nhất là khi mà ở vùng Đồng bằng Sông Hồng, điều kiện
này không dễ đáp ứng. Chúng ta nên nhận định trang trại từ tính chất sản xuất hàng hoá
của nó.
-Phải nhanh chóng nâng cao trình độ cơ giới hoá trong các trang trại để sản xuất
không bị lạc hậu.
-Trong giai đoạn đầu, cơ cấu sản xuất của các trang trại còn hỗn tạp để tận dụng
mọi năng lực sản xuất hiện có, nhng sau dần chuyển sang cơ cấu mang tính chuyên
canh và một loại nông, lâm, hải sản nhất định.
-Mô hình trang trại gia đình đang và sẽ là loại hình trang trại phổ biến và thích
hợp. Nó bao gồm trang trại gia đình tiểu chủ vừa sử dụng lao động gia đình vừa thuê
thêm lao động thời vụ và thờng xuyên với số lợng khác nhau, đợc nhà nớc chủ trơng
khuyến khích. Chính loại lao động tiểu chủ là lực lợng lao động có nhiều tiềm năng sản
xuất nông sản hàng hóa hiện nay. Mô hình này có nhiều u điểm nổi bật:
+ Có khả năng dung nạp những trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các cấp độ công nghệ khác nhau

+ Có khả năng liên kết các loại hình kinh tế khác nhau: kinh tế gia đình, kinh tế
cá thể, kinh tế hợp tác, kinh tế nhà nớc.
Các chính sách phát triển kinh tế trang trại của nhà nớc sẽ phải tạo điều kiện
thuận lợi để các hộ gia đình nông dân có thể sản xuất theo mô hình này.
-Xuất phát từ đặcđiểm tự nhiên, kinhtế xã hội của vùng, từ yêu cầu đặt ra của
công nghiệp hoá, chúng ta có thể vận dụng một cách sáng tạo những bài học của các nớc
bạn, phát triển trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm, sản xuất thóc gạo hàng hoá ở những
18

×