Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Luận văn xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 91 trang )

LƯƠNG CƠNG HẬU

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
  

XỬ LÝ KỶ
ĐÃ

LƯƠNG CÔNG HẬU
MSSV: 1753801014053

XỬ LÝ KỶ LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
ĐÃ NGHỈ VIỆC, NGHỈ HƯU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2017 – 2021

Người hướng dẫn khoa học: Ths. MAI THỊ LÂM

NĂM 2021

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH   

LƯƠNG CÔNG HẬU
MSSV: 1753801014053

XỬ LÝ KỶ LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC


ĐÃ NGHỈ VIỆC, NGHỈ HƯU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2017 – 2021

Người hướng dẫn khoa học: Ths. MAI THỊ LÂM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số
liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình, luận văn, luận án nào trước đây. Luận văn có kế thừa các tư
tưởng, kết quả nghiên cứu từ những người đi trước. Các thông tin tham khảo trong
luận văn đều được tác giả trích dẫn một cách đầy đủ và cẩn thận. Tôi xin chịu trách
nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả luận văn

Lương Công Hậu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

1


XLKLCB, CC

Xử lý kỷ luật cán bộ, công chức

2

3

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 Luật Cán bộ, Công chức và Luật
Viên chức ngày 25 tháng 11 năm
2019

Nghị định 06/2010/NĐ-CP

4

Nghị định 34/2011/NĐ-CP

5

Nghị định 112/2020/NĐ-CP

6

UBND

Nghị định 06/2010/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 25 tháng 01 năm 2010 quy
định những người là công chức đã

được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định
138/2020/NĐ-CP của Chính Phủ
ngày 27 tháng 11 năm 2020 quy định
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
cơng chức
Nghị định 34/2011/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 17 tháng 5 năm 2011 quy
định về xử lý kỷ luật đối với cơng
chức
Nghị định 112/2020/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 18 tháng 9 năm 2020
quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công
chức, viên chức
Uỷ ban nhân dân


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ KỶ LUẬT
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ĐÃ NGHỈ VIỆC, NGHỈ HƯU..................................... 7

1.1 Một số khái niệm cơ bản và đặc điểm của xử lý kỷ luật cán bộ, công chức
đã nghỉ việc, nghỉ hưu.......................................................................................... 7
1.1.1 Khái niệm cán bộ....................................................................................... 7
1.1.2 Khái niệm công chức................................................................................. 7
1.1.3 Khái niệm cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu................................. 8
1.1.4 Khái niệm xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu............9
1.2 Ý nghĩa của việc quy định xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc,
nghỉ hưu.............................................................................................................. 11

1.2.1 Đối với cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị......................................11
1.2.2 Đối với cán bộ, cơng chức....................................................................... 12
1.3 Những quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức
đã nghỉ việc, nghỉ hưu........................................................................................ 13

1.3.1 Hành vi vi phạm kỷ luật của cán bộ, cơng chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu. .13
1.3.2 Các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu . 14

1.3.3 Nguyên tắc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
18
1.3.4 Thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
22

1.3.5 Thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã nghỉ việc,
nghỉ hưu............................................................................................................ 24
1.3.6 Các trường hợp được miễn trách nhiệm kỷ luật đối với cán bộ, công chức
đã nghỉ việc, nghỉ hưu...................................................................................... 28
1.3.7 Thủ tục xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu .. 28

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...................................................................................... 34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ XỬ LÝ KỶ LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ĐÃ NGHỈ VIỆC, NGHỈ HƯU
35
2.1 Tình hình vi phạm của cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát
hiện vi phạm trong thời gian công tác.............................................................. 35


2.1.1 Trước khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công chức và
Luật Viên chức năm 2019 có hiệu lực (trước ngày 01 tháng 7 năm 2020) ... 35


2.1.2 Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công chức và
Luật Viên chức năm 2019 có hiệu lực (sau ngày 01 tháng 7 năm 2020)..........40
2.2 Thực trạng về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
42
2.2.1 Bất cập pháp luật về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ
hưu.................................................................................................................... 42
2.2.2 Những hạn chế trong thực tiễn xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc,
nghỉ hưu............................................................................................................ 51

2.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã
nghỉ việc, nghỉ hưu............................................................................................. 57
2.3.1 Nguyên nhân khách quan......................................................................... 57
2.3.2 Nguyên nhân chủ quan............................................................................ 58
2.4 Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ
việc, nghỉ hưu..................................................................................................... 60

2.4.1 Kiến nghị về mặt pháp luật...................................................................... 60
2.4.2 Kiến nghị về mặt thực tiễn....................................................................... 67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...................................................................................... 69
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................ 70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC: CÁC QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH KỶ LUẬT NGƯỜI ĐÃ NGHỈ
VIỆC, NGHỈ HƯU ĐƯỢC BAN HÀNH TRƯỚC THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC
CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC VÀ LUẬT VIÊN CHỨC NĂM 2019 (TRƯỚC NGÀY 01/7/2020)


1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ, công chức là lực lượng quan trọng tham gia vào việc tổ chức, điều
hành và quản lý nhà nước. Đồng thời cũng là nguồn nhân lực đóng vai trị quyết
định trong các khâu của quản lý hành chính và tổ chức bộ máy nhà nước. Với vai
trò quan trọng như vậy, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
việc bồi dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống và năng lực chuyên môn
công tác cho cán bộ, công chức. Người cho rằng: “Muôn việc thành công hoặc thất
1
bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” . Đúng như vậy, đội
ngũ cán bộ, công chức là quần chúng tiên phong quyết định đến sự thành bại trong
mỗi công việc; đặc biệt là vấn đề xây dựng và cống hiến vào sự nghiệp chung của
đất nước. Tiếp nối những tư tưởng và lời dạy của Bác về công tác cán bộ, toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta - đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức cố gắng
quyết tâm ra sức phấn đấu cải cách một nền hành chính hiện đại; xây dựng một mơi
trường nhà nước trong sạch vững mạnh. Do đó, việc tập trung bồi dưỡng đạo đức
cán bộ, công chức được vô tư và liêm khiết ngày càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19 tháng 5 năm 2018 của Ban chấp hành
Trung ương khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”
là một minh chứng một lần nữa khẳng định Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm sát
sao và bám sát công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực chun
mơn; đủ phẩm chất đạo đức để đáp ứng kịp với sự phát triển của xã hội và yêu cầu
trong tình hình cũng như bối cảnh mới của cả nước và thế giới.
Tình hình hiện nay, chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức nhìn chung có những
bước tiến đi lên đáng ghi nhận. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật của cán bộ,
cơng chức nói chung và vi phạm kỷ luật, kỷ cương nói riêng còn diễn ra nhiều; trải dài
từ các cơ quan nhà nước ở trung ương cho đến các địa phương. Gần đây nhất, năm
2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 05 tháng 09 năm 2016
về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Đây
là điểm nhấn đặc biệt quan trọng, tạo tiền đề chấn chỉnh việc xử lý kỷ luật cũng như

đẩy mạnh việc kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật cán bộ, công chức trong các cấp
chính quyền. Theo Nghị quyết 26-NQ/TW đã đề cập ở trên, vấn đề kiểm soát chặt chẽ
quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền đã đặt ra nội dung xử lý
nghiêm các cá nhân vi phạm. Đáng chú ý nhất là khơng có “vùng cấm” trong việc xử lý
vi phạm nói chung và xử lý kỷ luật nói riêng.
Nối tiếp tinh thần của Nghị quyết và Chỉ thị như trên, các văn bản quy phạm
pháp luật cũ liên quan đến vấn đề xử lý kỷ luật cán bộ, công chức (gọi tắt là XLKL CB,
CC) đã được bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung. Thay vào đó là ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật mới có tính chất cập nhật tinh thần Nghị quyết, Chỉ thị và sửa đổi, bổ sung
văn bản cũ cho phù hợp với tình hình mới hiện nay. Cụ thể như: Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Cán bộ, Công chức và Luật Viên chức ngày 25 tháng 11 năm
2019 (gọi tắt là Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019) và đặc biệt nhất là Nghị định
112/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 9 năm 2020 quy định về xử lý
1Hồ Chí Minh tồn tập (2011), Tập 5, NXB. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 280.


2
kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức (gọi tắt là Nghị định 112/2020/NĐ-CP). Nổi bật là
tinh thần xử lý kỷ luật khơng cịn “vùng cấm” đã được luật hóa trong luật và nghị định.
Đã khơng cịn việc “hạ cánh an toàn”, “về hưu xem như là hết” trong xử lý kỷ luật. Nếu
như trong thời gian đương nhiệm công tác mà phát hiện vi phạm dẫn tới xử lý kỷ luật
thì khơng có gì phải bàn. Tuy nhiên, khi đã nghỉ việc, nghỉ hưu lại phát hiện
vi phạm lúc còn đang đương nhiệm lại là vấn đề đáng bàn và pháp luật cần vào cuộc để
điều chỉnh cho vấn đề này. Vi phạm này là vi phạm những điều cấm mà cán bộ, công
chức không được làm hoặc rộng hơn là vi phạm pháp luật trong thời gian công tác
nhưng sau khi đã nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện ra vi phạm lúc còn đương nhiệm.
Đứng trước thực trạng đó, pháp luật cần có cơ chế để khắc phục những vi phạm cũng
như “khoảng trống pháp lý” về mặt quy định đối với vấn đề này. Đồng thời, việc quy
định trách nhiệm xử lý kỷ luật đối với những cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
sẽ góp phần sẽ đảm bảo sự răn đe và giáo dục cho những cá nhân vi phạm. Mặt khác,

chấn chỉnh và làm tốt công tác xử lý kỷ luật cũng là một tiền đề để tạo động lực xây
dựng và đưa đất nước đi lên vững mạnh trong giai đoạn hiện nay.

Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, tuy nhiên đây lại là quy định mới
của pháp luật. Cho nên đâu đó sự chỉnh chu trong cơng tác lập pháp, ban hành pháp
luật của cơ quan nhà nước cũng còn một số hạn chế. Dẫn đến vẫn còn nhiều thiếu
sót, bất cập cần phải hồn thiện trong thời gian tới. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề
tài: “Xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu” để làm Khóa luận
tốt nghiệp cuối khóa của mình. Hy vọng kết quả đạt được của đề tài sẽ góp phần vào
việc hồn thiện quy định của pháp luật về XLKL CB, CC nói chung và XLKL CB,
CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu nói riêng.
2. Tổng hợp tình hình nghiên cứu trong và ngồi trường
Đề tài mà tác giả chọn để thực hiện khóa luận của mình nếu xét về tính thời sự
thì đây một điểm mới được đề cập và quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019
và Nghị định 112/2020/NĐ-CP. Xét về mặt thực tiễn, thơng qua q trình tìm kiếm tài
liệu tham khảo trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành Luật cũng như các khóa luận,
luận văn,…đã thực hiện trước đây để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tác giả nhận
2
thấy rằng: Vì là quy định mới “có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2020” cho nên hầu
như chưa có cơng trình khoa học nào đã cơng bố liên quan đến đề tài này. Đối với các
tạp chí chuyên ngành Luật, từ năm 2019 đến nay, lúc Quốc hội ta đang trong giai đoạn
3
lấy ý kiến, góp ý cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 thì có ba bài viết bàn
về dự thảo Luật này và có đề cập đến vấn đề XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu.
4
Tuy nhiên qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thì có hai bài viết chỉ dừng lại ở mức độ
đề cập khái quát mà chưa đi sâu vào phân tích quy định

2 Điều 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công chức và Luật Viên chức ngày 25 tháng 11
năm 2019.

3 Trần Anh Tuấn (2019), “Một số nội dung sửa đổi Luật Cán bộ, Công chức và Luật Viên chức”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, (số 14).
Hồng Minh Khơi (2020), “Xây dựng đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong cơ
quan nhà nước”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 293).
Cao Vũ Minh (2020), “Xử lý kỷ luật đối với người đã nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi phạm
trong thời gian cơng tác”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 08).
4 Trần Anh Tuấn (2019), “Một số nội dung sửa đổi Luật Cán bộ, Công Chức và Luật Viên chức, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp”, (số 14).


3
5

của pháp luật; một bài viết thì đã chỉ ra quy định của pháp luật, có phân tích cũng
như đưa ra được những ý kiến bình luận khoa học xoay quanh vấn đề này.
Bên cạnh đó, đã có một số cơng trình nghiên cứu trong Trường Đại học Luật
TP.HCM về xử lý kỷ luật cơng chức nói chung như:
Lâm Tiến Thạch (2018), Xử lý kỷ luật công chức tại tỉnh Sóc Trăng, Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Nguyễn Xuân Vui (1999),
Trách nhiệm pháp lý của cơng chức theo luật hành chính Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp,Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Phan Thị Ngọc Thanh (2002),
Trách nhiệm kỷ luật của công chức - Lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Đồn Văn Năng (2013), Xử lý cán bộ cơng
chức trong đấu tranh phịng chống tham nhũng ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Ngọc Đức (2014), Xử lý kỷ
luật cơng chức, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Hà
Thị Minh Châu (2014), Quy trình xử lý kỷ luật cơng chức, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Ngồi ra là các cơng trình nghiên cứu về kỷ luật cơng chức nói chung được
thực hiện ở ngồi trường Đại học Luật TP.HCM như:

Đối với sách:
Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cơng chức
hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội; Phạm Hồng Thái (2004),
Công vụ, cơng chức nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội; Nguyễn
Minh Đoan (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm pháp lý của
nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan nhà nước ở Việt Nam, NXB Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Trần Nghị (2017), Trách nhiệm của công chức trong
thực thi công vụ đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước, NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Đối với bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành Luật:
Lương Thanh Cường (2009), “Các quy định về xử lý kỷ luật đối với cán bộ,
công chức trong Luật Cán bộ, Công chức”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 165); Cao
Vũ Minh (2010), “Một số điểm tiến bộ và bất cập của Luật Cán bộ, Công chức năm
2008 và những văn bản hướng dẫn thi hành”,Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 03); Đinh
Văn Mậu (2010), “Về kỷ luật nhà nước và trách nhiệm cơng chức”, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, (số 04); Bùi Thị Đào (2010), “Một số vấn đề về kỷ luật cán bộ, cơng chức”,
Tạp chí Luật học, (số 06); Cao Vũ Minh - Nguyễn Thị Thiện Trí (2012), “Một số bất
cập của pháp luật về xử lý kỷ luật cơng chức”, Tạp chí Luật học, (số 11); Lê Như
Thanh (2012), “Về kỷ luật hành chính đối với cán bộ, cơng chức”, Tạp chí Quản lý nhà
nước, (số 201); Cao Vũ Minh (2019), “Một số vấn đề về xử lý kỷ luật công chức
vi phạm pháp luật về phịng, chống tham nhũng”, Tạp chí Nội chính, (số 72); Trần
Anh Tuấn (2019), “Một số nội dung sửa đổi Luật Cán bộ, Cơng chức và Luật Viên
chức”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 14); Hồng Minh Khơi (2020), “Xây dựng
Hồng Minh Khơi (2020), “Xây dựng đạo đức cơng vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong cơ
quan nhà nước”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 293).
5Cao Vũ Minh (2020), “Xử lý kỷ luật đối với người đã nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi phạm
trong thời gian cơng tác”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 08).


4

đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan nhà
nước”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 293); Vũ Thư (2020), “Một số vấn đề về
hoàn thiện chế định trách nhiệm kỷ luật hành chính ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, (số 06); Cao Vũ Minh (2020), “Xử lý kỷ luật đối với người đã nghỉ
việc, nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi phạm trong thời gian cơng tác”, Tạp chí
Khoa học Pháp Lý, (số 08).
Theo đó, các cơng trình nghiên cứu khoa học này đã đề cập đến việc XLKL
CB, CC. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức khái quát chung vấn đề. Tức chỉ giải quyết
vấn đề về XLKL CB, CC lúc các chủ thể này đang đương nhiệm mà chưa đi sâu vào
cũng như đề cập vấn đề, đánh giá bình luận sự tiến bộ hay hạn chế của pháp luật
phát sinh trong việc XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Xét về tình hình nghiên
cứu, hiện nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu nào ở góc độ là một Khóa
luận tốt nghiệp về vấn đề XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu.
Thiết nghĩ, thực trạng vi phạm của cán bộ, công chức lúc đang đương nhiệm
nhưng khi nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện; dẫn đến việc đặt ra trách nhiệm xử lý
kỷ luật là một vấn đề mới và lần đầu tiên được quy định trong luật. Trên thực tế thì
phát hiện rất nhiều trường hợp vi phạm. Nhận thức được điều đó, cho nên tác giả đã
chọn đề tài: “Xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu” để làm
Khóa luận tốt nghiệp cuối khóa của mình.
3. Mục tiêu của đề tài
Thơng qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả mong muốn làm rõ những vấn đề
lý luận và pháp lý về vấn đề XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Từ đó, đưa ra
được những giải pháp về mặt pháp lý nhằm khắc phục những bất cập của pháp luật
liên quan đến vấn đề này.
Dưới góc độ thực tiễn, tác giả mong muốn đề tài nghiên cứu có thể đưa ra được
những ý nghĩa và tầm quan trọng của việc XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu trong
vấn đề siết chặt kỷ luật, kỷ cương của Đảng và Nhà nước. Đồng thời qua đó, đưa ra
được những phân tích; đánh giá những mặt tích cực cũng như hạn chế trong XLKL CB,
CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu hiện nay. Qua đó, có kiến nghị về mặt thực tiễn góp phần
hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả trong công tác XLKL CB,

CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Để cuối cùng, tác giả mong muốn đóng góp một phần
sức lực trong việc thực hiện thành công đường lối của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước về chế định XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước và
Pháp luật. Bên cạnh đó, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, tác giả còn vận dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê,..
nhằm bảo đảm sự hiệu quả, tính khách quan, tồn diện góp phần làm sáng tỏ các
vấn đề đặt trong đề tài.


5
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là:
Phương pháp tổng hợp, thống kê: Tổng hợp các quy định pháp luật có liên
quan, quan điểm của các nhà khoa học, các tác giả, các đề tài nghiên cứu có liên
quan. Thống kê các số liệu, vụ việc thực tiễn, các quyết định thi hành kỷ luật cán
bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu đã ban hành trên thực tế để minh họa cho các
nội dung của đề tài.
Phương pháp so sánh: So sánh sự khác nhau trong quy định pháp luật về vấn
đề XLKL CB, CC nói chung ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển
của pháp luật hành chính; so sánh sự khác nhau giữa pháp luật Việt Nam với pháp
luật Đức trong vấn đề XLKL công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu; so sánh quy định
trong pháp luật hành chính và pháp luật hình sự về vấn đề thời hiệu.
Phương pháp phân tích: Tiến hành phân tích các luận điểm, số liệu thu thập
được trong q trình nghiên cứu. Phân tích các quy định pháp luật nhằm tìm ra
những điểm bất cập, hạn chế trong việc quy định về XLKL CB, CC đã nghỉ việc,
nghỉ hưu theo quy định hiện hành và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định pháp luật về XLKL CB, CC đã
nghỉ việc, nghỉ hưu trong Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 và các văn bản hướng
dẫn thi hành như Nghị định 112/2020/NĐ-CP. Ngồi ra, tác giả cịn nghiên cứu thực
tiễn XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu thông qua việc nghiên cứu các quyết
định thi hành kỷ luật được ban hành trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu là một vấn đề mang tính “cập nhật”
của pháp luật. Đây là một quy định mới tiến bộ và xóa bỏ quan niệm “hạ cánh an
toàn” trong vấn đề XLKL CB, CC. Vấn đề này có thể nghiên cứu ở những góc độ
khác nhau và tùy vào cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của từng tác giả.
Trong phạm vi của đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề XLKL CB,
CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu trong cơ quan hành chính nhà nước thơng qua các quy
định của pháp luật hiện hành. Từ việc nghiên cứu và tìm hiểu toàn diện các vấn đề
pháp lý cũng như thực tiễn có liên quan đến nội dung đề tài; tác giả đề xuất những
kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề pháp lý đã đặt ra. Việc này góp phần
nhằm nâng cao hiệu quả đối với công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ
việc, nghỉ hưu trong cơ quan hành chính nhà nước và đồng thời nâng cao năng lực
của đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống từ chung đến
riêng; từ lý luận đến thực tiễn nhằm làm rõ một số vấn đề cơ bản quy định của pháp
luật về XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Bên cạnh việc nghiên cứu, sẽ đưa ra
được thực trạng và các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật. Qua đó,
góp phần nâng cao hiệu quả xử lý XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu theo quy
định của pháp luật hiện hành.


6

Kết quả nghiên cứu của khóa luận cịn là tài liệu tham khảo cho sinh viên và
những ai quan tâm đến vấn đề này. Mặt khác, trong quá trình đổi mới và cải cách
thủ tục hành chính thì hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm
công tác thực tiễn và trực tiếp áp dụng quy định của pháp luật vào vấn đề XLKL
CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi lời mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu khóa luận gồm
2 chương như sau:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ KỶ LUẬT
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ĐÃ NGHỈ VIỆC, NGHỈ HƯU
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XỬ LÝ KỶ LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ĐÃ NGHỈ VIỆC, NGHỈ HƯU


7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ KỶ
LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ĐÃ NGHỈ VIỆC, NGHỈ HƯU
1.1 Một số khái niệm cơ bản và đặc điểm của xử lý kỷ luật cán bộ, công chức
đã nghỉ việc, nghỉ hưu
1.1.1 Khái niệm cán bộ
Tùy vào mỗi chế độ chính trị của các quốc gia thì sẽ có những quan niệm, khái
niệm khác nhau về từng lĩnh vực cụ thể. Ở đây, vấn đề đang bàn là khái niệm về “cán
bộ”. “Các nước tư sản không có khái niệm cán bộ. Khái niệm này chỉ sử dụng trong hệ
6
thống công vụ của các nước xã hội chủ nghĩa…trong đó có Việt Nam” . Đối với Việt
Nam ta, khái niệm về “cán bộ” không chỉ được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, mà nó cịn là một khái niệm trong khoa học pháp lý.
Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) có định nghĩa
về cán bộ tại khoản 1 Điều 4 như sau: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ
7
ngân sách nhà nước”. Bên cạnh đó, ngồi phạm vi cán bộ nói chung như trên thì tại
khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2019)
cũng đưa ra quy định về cán bộ xã, phường, thị trấn như sau: “Cán bộ xã, phường, thị
trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ
theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí
thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân
Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban
nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” Đây là nhóm
cán bộ được quy định riêng với những tính chất, đặc thù riêng và hoạt động ở cấp cơ sở
trong bộ máy hành chính nước ta.
Đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, có thể hiểu cán bộ là những
người được nhận diện bằng các dấu hiệu pháp lý sau:
Thứ nhất, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh.
Thứ hai, làm việc theo nhiệm kỳ.
Thứ ba, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.2 Khái niệm công chức
Công chức là một thuật ngữ với nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu. Trong mỗi
quốc gia cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này. Phạm vi khái niệm rộng
hay hẹp tùy thuộc vào pháp luật thực định của từng nước. “Ví dụ, có những nước coi
cơng chức là tất cả những người làm việc trong bộ máy nhà nước (bao gồm các cơ
quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp hay các lực lượng vũ trang, công an). Trong
khi đó, có những nước lại chỉ giới hạn cơng chức là những người làm việc trong các cơ
quan quản lý nhà nước, hay hẹp hơn nữa là trong các cơ quan quản lý

6 Nguyễn Cảnh Hợp (2011), Thể chế công vụ, NXB. Tư pháp, TP. Hồ Chí Minh, tr. 86.
7 Khoản 1 Điều 1 Luật Cán bộ, Công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008.



8
8

hành chính nhà nước” . Như vậy, tùy thuộc mỗi quốc gia thì lại có những quan
niệm khác biệt. Điều này có thể lý giải bởi các yếu tố như chính trị, lịch sử, kinh tế xã hội.
Ngày 25 tháng 11 năm 2019, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung năm
2019. Theo đó, thuật ngữ “cơng chức” đã được sửa đổi so với Luật Cán bộ, Công
chức 2008, cụ thể như sau: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải
là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Cơng an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ
chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
9
nhà nước” . Đối chiếu với thuật ngữ “công chức” được quy định trong Luật Cán bộ,
Công chức 2008 so với Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019, những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công
lập khơng cịn là cơng chức nữa và xác định tư cách các chủ thể này là viên chức
theo quy định của Luật Viên chức 2010.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, nếu cán bộ nhận diện bằng dấu
hiệu pháp lý là “bầu” và làm việc theo “nhiệm kỳ” thì cơng chức được nhận diện
bằng các dấu hiệu pháp lý sau:
Thứ nhất, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào chức vụ, chức danh.
Thứ hai, có ngạch cơng chức.
Thứ ba, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Với những đặc trưng đó, những người được xác định là công chức được liệt
kê cụ thể tại Nghị định 06/2010/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 25 tháng 01 năm 2010

quy định những người là công chức (gọi tắt là Nghị định 06/2010/NĐ-CP). Nghị
định này đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 138/2020/NĐ-CP của Chính Phủ
ngày 27 tháng 11 năm 2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
1.1.3 Khái niệm cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
Từ các khái niệm cán bộ, cơng chức như đã phân tích và trình bày. Có thể
thấy, điểm khác nhau để phân biệt cán bộ, công chức đang đương nhiệm so với cán
bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu là dựa vào dấu hiệu nghỉ việc, nghỉ hưu.
10

“Nghỉ việc là thôi, không tiếp tục công việc, chức vụ đang làm” . Đối với thuật
ngữ nghỉ hưu thì theo Từ điển Tiếng Việt, “nghỉ hưu” hay nói cách khác là về hưu cũng
có nghĩa tương tự với từ nghỉ việc. Tức là thôi, không tiếp tục một cơng việc nào đó.
Tuy nhiên, nếu hiểu như vậy thì vẫn chưa làm rõ điểm khác nhau giữa hai thuật ngữ
“nghỉ việc” và “nghỉ hưu”. Vì suy cho cùng, từ điển dùng chung một định nghĩa cho
hai khái niệm. Ở một cách tiếp cận khác, có thể xét tới từ “hưu trí”, cụ thể “Hưu trí là
11
nói đến cơng chức thôi việc khi tuổi già” . Về mặt câu chữ, có thể

8 Trần Nghị (2017), Trách nhiệm của cơng chức trong thực thi công vụ đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành
chính nhà nước, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 06.
9 Khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công chức và Luật Viên chức ngày 25
tháng 11 năm 2019.
10
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 677.
11

(truy cập ngày 01 tháng 4 năm 2021).


9

khác nhau. Tuy nhiên xét dưới khía cạnh ngữ nghĩa, có thể đây là từ sát nghĩa nhất với
từ “nghỉ hưu”. Theo đó, tiêu chí để phân biệt “nghỉ việc” hay “nghỉ hưu” là dựa vào độ
tuổi. Nếu nghỉ việc là không tiếp một công việc trong độ tuổi lao động thì nghỉ hưu là
khơng tiếp tục một cơng việc khi đã quá độ tuổi lao động (hay nói cách khác là nghỉ
việc khi đã già). Chính dấu hiệu này là đặc trưng quan trọng để phân định ai là cán bộ,
công chức đang tại vị và ai là cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu.

Do vậy, khái niệm cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu ở đây có thể
hiểu là những người đã từng là cán bộ, công chức nhưng khi nghỉ việc, nghỉ hưu thì
họ khơng cịn là cán bộ, cơng chức nữa. Thay vào đó, có thể gọi những chủ thể này
là nguyên cán bộ, công chức.
1.1.4 Khái niệm xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
“Chế độ kỷ luật của cán bộ, công chức được hiểu là một chế định pháp luật,
là tổng thể các quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo trật tự, nề nếp hoạt động của
12
mọi cơ quan, tổ chức” . Cụm từ “chế độ kỷ luật”, trong một chừng mực nào đó, có
thể xem gần sát nghĩa với cụm từ “xử lý kỷ luật”. Do đó, ở phạm vi chung nhất, có
thể hiểu thuật ngữ xử lý kỷ luật như sau: Xử lý kỷ luật là hoạt động của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân xem xét và giải quyết đối với những vi phạm của các chủ thể
trong cơ quan, tổ chức đó nhằm chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm nề nếp trật
tự cho cơ quan, tổ chức.
Từ cách hiểu thông thường về các khái niệm cán bộ, công chức đã nghỉ việc,
nghỉ hưu và xử lý kỷ luật như đã giải thích ở trên. Có thể hiểu XLKL CB, CC đã
nghỉ việc, nghỉ hưu như sau:
Xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu là việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng những hậu quả pháp lý bất lợi đối với những cán bộ,
công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu do khi đương nhiệm vi phạm kỷ luật nhưng nghỉ
việc, nghỉ hưu mới phát hiện vi phạm đó; mà theo quy định của pháp luật phải bị xử
lý kỷ luật nhằm trừng phạt cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu; chấn chỉnh nề
nếp, kỷ cương và bảo đảm trật tự cho cơ quan, tổ chức.

Dựa vào khái niệm đã nêu ở trên, XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu có
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, cơ sở để XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu là phải có hành vi
vi phạm trong thời gian công tác.
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vẫn chưa có quy định cụ
thể như thế nào được xem là hành vi vi phạm kỷ luật. Pháp luật chỉ liệt kê các hành
vi bị xử lý kỷ luật tại Điều 6 Nghị định 112/2020/NĐ-CP. Do đó, có thể hiểu “hành
vi vi phạm kỷ luật là những hành vi có lỗi, vi phạm các quy tắc và nghĩa vụ trong hoạt
13
động công vụ của cán bộ, công chức nhà nước” . Vi phạm kỷ luật là vi phạm các quy
định của Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 và Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. Trách
nhiệm kỷ luật được đặt ra khi cán bộ, công chức không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng những nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Cụ thể là làm những việc cán bộ, công
chức không được làm liên quan đến đạo đức cơng vụ, bí mật nhà nước,
12
13

Phạm Hồng Thái (2004), Công vụ công chức nhà nước, NXB. Tư pháp, TP. Hồ Chí Minh, tr. 177.

Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, tr. 550.


10
sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng;
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của
pháp luật cũng như của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, đối tượng bị áp dụng xử lý kỷ luật ở đây là những cán bộ, công
chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu.
Điều này khác so với việc XLKL CB, CC thông thường - những người đang

đương nhiệm công tác với tư cách là cán bộ, cơng chức. Cịn đối tượng bị áp dụng
xử lý kỷ luật ở đây là những người đã nghỉ việc, nghỉ hưu nhưng lại phát hiện sai
phạm trong thời gian công tác. Tức những người bị xử lý theo quy định này từng là
nguyên; hoặc hiện đang là nguyên cán bộ, công chức.
Thứ ba, trong quan hệ XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu thì chủ thể có
thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với người bị kỷ luật đã từng tồn tại mối quan hệ ràng
buộc về mặt công tác.
“Xét theo trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm hình sự thì người có thẩm
14
quyền quyết định và người vi phạm khơng có quan hệ trực thuộc” . Tuy nhiên đối
với trách nhiệm kỷ luật thì đây là điểm khác so với các dạng trách nhiệm pháp lý
khác. Mặt dù đã nghỉ việc, nghỉ hưu nhưng việc xử lý kỷ luật vẫn mang tính chất
nội bộ của cơ quan tổ chức đơn vị. Chỉ những người đã từng có mối quan hệ ràng
buộc với nhau về mặt công tác đối với cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
(như có quyền phê chuẩn, quyết định phê duyệt kết quả bầu cử, bổ nhiệm vào chức
vụ, chức danh lúc cán bộ, cơng chức đó đương vị) mới có thẩm quyền XLKL CB,
CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Ở đây, người có thẩm quyền xử lý kỷ luật là những chủ
thể hiện đang có thẩm quyền xử lý theo quy định. Không xét những chủ thể có thẩm
quyền xử lý kỷ luật lúc cán bộ, cơng chức vi phạm đang đương nhiệm. Ví dụ: ơng
Nguyễn Văn A từng là Bộ trưởng Bộ X, có hành vi vi phạm kỷ luật năm 2015, lúc
này ông Nguyễn Văn B là Thủ tướng Chính Phủ. Tháng 9/2019 ơng A nghỉ hưu, tuy
nhiên tháng 11/2021 mới phát hiện ra hành vi vi phạm lúc đang đương nhiệm của
ông A. Vào cùng thời điểm đó, ơng Nguyễn Văn C hiện đang là Thủ tướng Chính
Phủ. Cho nên trong trường hợp này, người có thẩm quyền xử lý kỷ luật là ơng
Nguyễn Văn C chứ không phải ông Nguyễn Văn B.
Thứ tư, xử lý kỷ luật có thể áp dụng đồng thời với các dạng trách nhiệm
pháp lý khác như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm vật
chất.
Theo đó, nếu cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm
pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật hành chính trong thời gian cơng tác hoặc gây

thiệt hại về vật chất cho tài sản của nhà nước trong khi thi hành cơng vụ. Ngồi việc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự, gánh chịu trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm
vật chất thì cán bộ, cơng chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu đó cịn phải bị xử lý kỷ luật.
Đây là điểm khác so với trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm hình sự bởi lẽ một
khi thực hiện hành vi làm phát sinh trách nhiệm hình sự thì khơng thể làm phát sinh
trách nhiệm hành chính và ngược lại.
Thứ năm, thủ tục XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu là thủ tục hành
chính.

14
Phan Thị Ngọc Thanh (2002), Trách nhiệm kỷ luật của công chức-Lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật TP.HCM, tr. 06.


11
Thủ tục XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu được thực hiện theo trình tự
thủ tục mà pháp luật quy định. Kết quả của việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật cán
bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu là ban hành ra văn bản có tên gọi là “quyết
định xử lý kỷ luật”. Để ban hành được quyết định này, các chủ thể có thẩm quyền
xử lý phải tuân thủ quy định về trình tự thủ tục XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ
hưu được quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019; Nghị định 112/2020/NĐ-CP
và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
1.2 Ý nghĩa của việc quy định xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ
hưu
1.2.1 Đối với cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị
Cán bộ, cơng chức là đội ngũ nắm vai trò đặc biệt quan trọng. Họ là nhân tố
con người trong hoạt động của bộ máy Nhà nước, bên cạnh chủ trương và chính
sách pháp luật. Việc xử lý kỷ luật hướng đến mục đích trừng trị, răn đe và giáo dục
những đối tượng có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, mục đích cao nhất có thể thấy đó là
bảo vệ sự ổn định của cơ quan, tổ chức; trật tự nội bộ bên trong của cả hệ thống

chính trị nói chung và cơ quan nhà nước nói riêng.
Xử lý kỷ luật là một dạng trách nhiệm pháp lý. Chế định này có vai trò bảo
vệ sự ổn định của pháp luật bên cạnh việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong các cơ
quan nhà nước. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu góp phần bảo vệ pháp chế
trong hoạt động của cơ quan nhà nước đó.
Đối với cán bộ, cơng chức thì u cầu pháp chế đòi hỏi cao hơn. Bởi đây là
những chủ thể trực tiếp thực thi và áp dụng pháp luật trong hoạt động quản lý nhà
nước. Do đó, nếu cán bộ, công chức vi phạm kỷ luật mà đã nghỉ việc, nghỉ hưu
nhưng sau đó mới phát hiện ra sai phạm thì vơ hình chung đã ảnh hưởng đến việc
thực hiện mục tiêu pháp chế trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó,
việc thực hiện và chấp hành pháp luật không nghiêm chỉnh sẽ dẫn tới yêu cầu pháp
chế đặt ra sẽ khơng cịn hiệu quả. Ngồi ra, tính pháp chế cịn địi hỏi lúc đương
nhiệm, đội ngũ cán bộ, công chức phải chú trọng vào nhiệm vụ, quyền hạn để thực
hiện cho đúng chức trách của mình theo quy định pháp luật. Điều này góp phần vào
mục tiêu bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hạn chế đến mức tối thiểu việc lạm
quyền và sai phạm trong công tác quản lý nhà nước.
Thứ hai, việc XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu nhằm hướng đến mục
tiêu cuối cùng là thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính; nâng cao năng lực
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Cán bộ, công chức là lực lượng quan trọng trong việc tạo ra năng lực quản trị
hành chính của một quốc gia. “Nếu khơng đề cao trách nhiệm xử lý kỷ luật, năng lực
hoạt động của nền hành chính nhà nước sẽ bị giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu
15
lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước” . Mặt khác, tổ chức bộ
máy nhà nước là có sự phân cơng, phân nhiệm, phối hợp giữa các nhánh quyền lực; mà
con người là yếu tố trung tâm. Do đó, nếu cán bộ, cơng chức sai phạm dẫn đến việc
một mắt xích trong chu trình quản lý bị gián đoạn. Nếu phát hiện ra thì xử
15
Hồng Thị Ngân (2012), “Nâng cao vai trị của kỷ luật hành chính trong quản lý cán bộ, cơng

chức”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 201), tr. 74.


12
lý kỷ luật. Điều này dẫn đến ảnh hưởng tới hiệu quả và năng lực của cả một chu
trình hoạt động trong bộ máy nhà nước.
Thứ ba, XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu đảm bảo cho việc duy trì, tăng
cường và nâng cao kỷ luật trong thực thi cơng vụ của cơ quan nhà nước.
Theo đó, duy trì, tăng cường và nâng cao kỷ luật trong thực thi cơng vụ góp
phần quan trọng đáng kể trong việc tạo niềm tin của nhân dân đối với hoạt động của
cơ quan nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: “Phải nâng cao kỷ luật, giữ vững
16
kỷ luật.” . Phát hiện kịp thời và xử lý kỷ luật nghiêm minh các hành vi vi phạm kỷ
luật có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao hiệu quả thực thi công vụ. Ngoài ra,
với việc vi phạm kỷ luật của một bộ phận khơng ít cán bộ, cơng chức đã nghỉ việc,
nghỉ hưu như hiện nay thì việc chấn chỉnh và siết chặt xử lý kỷ luật mới đủ sức khơi
dậy niềm tin vững chắc của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
1.2.2 Đối với cán bộ, công chức
Pháp luật không chỉ được xây dựng trên nền tảng lý luận cơ bản mà còn phải
phù hợp và bám sát với yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Việc quy định xử lý kỷ cán bộ,
công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu là một minh chứng cho yêu cầu tất yếu đó. Ngồi
việc có nhiều ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan nhà nước và hệ thống chính
trị, XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu còn ý nghĩa trong việc giáo dục, trừng trị
và phòng ngừa đối với cán bộ, cơng chức nói chung và cán bộ, cơng chức đã nghỉ
việc, nghỉ hưu mới phát hiện ra vi phạm nói riêng.
Thứ nhất, về mặt giáo dục.
“Giáo dục làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực
17
hiện những hành vi tốt và tránh thực hiện những hành vi xấu” . Có thể thấy, cơng
tác giáo dục pháp luật, chính trị, tư tưởng ln được Đảng và nhà nước quan tâm.

Đặc biệt là vấn đề giáo dục tư tưởng đạo đức và nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công
chức. Nếu cán bộ, công chức đang đương nhiệm mà nhận thức được trách nhiệm kỷ
luật khi mình thực hiện hành vi sai phạm sẽ góp phần giảm và khơng có việc xử lý
kỷ luật khi đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Điều này khiến cho cán bộ, công chức nâng cao
tinh thần trách nhiệm; tự giác thực hiện tốt hơn nhiệm vụ và công việc được giao.
Cán bộ, công chức sẽ điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với quy định
của pháp luật. Hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp bị xử lý kỷ luật. Thơng
qua đó, góp phần tạo hiệu ứng tốt vào q trình cải cách hành chính và nâng cao
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, về mặt răn đe, trừng phạt.
Pháp luật đặt ra khơng chỉ nhằm mục đích quản lý xã hội cho ổn định mà còn
đặt ra những chế tài trừng trị những cá nhân vi phạm. Quy định xử lý kỷ luật được
đặt ra cũng nhằm đạt được mục đích cao cả đó. Nếu cán bộ, cơng chức có thành tích
tốt thì được biểu dương, khen thưởng. Ngược lại, những cán bộ, cơng chức vi phạm
kỷ luật, đạo đức thì cần phải bị xử lý kỷ luật theo quy định. Trong đó có việc XLKL
CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Đặt ra trách nhiệm kỷ luật nhằm tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc xử lý vi phạm. Đảm bảo tính răn đe và thống nhất với quy định
16
17

Hồ Chí Minh Tồn tập (1984), NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 116.
Hoàng Thị Ngân (2012), “Nâng cao vai trị của kỷ luật hành chính trong quản lý cán bộ, cơng
chức”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 201), tr. 74.


13
về kỷ luật của Đảng. Đồng thời đây cũng là chế tài thích đáng cho những người từng là
cán bộ, công chức lúc đương nhiệm sai phạm, nhưng khi đã nghỉ việc, nghỉ hưu mới
phát hiện ra vi phạm. Qua đó, các cán bộ, cơng chức dù khơng vi phạm nhưng sẽ lấy
việc XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu để làm gương; răn đe chính mình trong thực

hiện nhiệm vụ để không vi phạm tương tự. “Đây là sự “trừng trị” của Nhà nước đối
với những người là “cơng bộc” của nhân dân nhưng khơng hồn thành tốt vai trị,
18
chức trách của mình” . Thật ra, với các loại trách nhiệm pháp lý thì ln có ý nghĩa
răn đe, cịn ý nghĩa trừng phạt thì trong trách nhiệm hình sự sẽ nổi bật hơn. Với trách
nhiệm kỷ luật, tính trừng phạt được thể hiện đặc biệt ở việc phải trả giá cho
vi phạm đã gây ra bất chấp hoàn cảnh khách quan hay chủ quan là đã nghỉ việc hay
nghỉ hưu. Đây là giá trị lớn nhất mà XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu đạt được
so với trách nhiệm kỷ luật áp dụng đối với cán bộ, công chức đang đương nhiệm tại
vị.

Thứ ba, về mặt phịng ngừa.
Quy định xử lý kỷ luật cán bộ, cơng chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu có tác dụng
phịng ngừa vi phạm pháp luật đối với cán bộ, công chức vi phạm và cả những cán
bộ, công chức không vi phạm. Qua đó, cán bộ, cơng chức phải nhận thấy và có ý
thức tuân thủ quy định của pháp luật. Biết điều gì nên làm và khơng nên làm để
tránh và không vi phạm pháp luật trong lúc đang đương nhiệm công tác.
1.3 Những quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức
đã nghỉ việc, nghỉ hưu
1.3.1 Hành vi vi phạm kỷ luật của cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
Việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu được tiến hành
khi xác định được trên thực tế có hành vi vi phạm kỷ luật đã xảy ra. Hay nói cách
khác, cơ sở của việc đặt ra trách nhiệm xử lý kỷ luật là vi phạm kỷ luật. Đối với cán
bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện sai phạm trong thời gian cơng
tác thì hành vi vi phạm ở đây được thực hiện trong lúc các chủ thể này đang đương
nhiệm nhưng thời điểm phát hiện ra hành vi vi phạm lại là lúc các chủ thể này đã
nghỉ việc, nghỉ hưu. “Với một hành vi vi phạm pháp luật, không thể giữ lại một
hành vi phạm tội để chỉ xử lý kỷ luật, nhưng cùng hành vi đó, ngồi xử lý hình sự,
19
pháp luật cịn quy định việc xử lý kỷ luật hành chính”.

Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 chính thức quy định vấn đề xử lý kỷ luật cán
bộ, cơng chức nghỉ việc, nghỉ hưu. Mục đích nhằm khắc phục những lỗ trống pháp
lý và giải quyết những vấn đề bất cập trong xử lý kỷ luật, đặc biệt là đối với những
cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Theo đó, hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật
của cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu được quy định như sau:
“a) Mọi hành vi vi phạm trong thời gian công tác của cán bộ, công chức đã
nghỉ việc, nghỉ hưu đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.


18
Nguyễn Thị Ngọc Đức (2014), Xử lý kỷ luật cơng chức, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 11.
19
Vũ Thư (2020), “Một số vấn đề hoàn thiện chế định trách nhiệm kỷ luật hành chính ở Việt Nam”,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 06), tr. 12.


14
20

Chính phủ quy định chi tiết khoản này.”
Có thể thấy, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 không trực tiếp quy định rõ hành
vi vi phạm nào của cán bộ, cơng chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu thì bị xử lý kỷ luật.
Theo đó, Luật chỉ quy định chung chung là “mọi hành vi vi phạm” trong thời gian
công tác đều bị xử lý kỷ luật và để lại việc ban hành các loại hành vi vi phạm pháp
luật cụ thể cho Chính Phủ quy định chi tiết trong Nghị định hướng dẫn thi hành.
Câu hỏi đặt ra là các hành vi vi phạm đó là hành vi gì? Để trả lời cho câu hỏi này thì
các hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật được quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định
112/2020/NĐ-CP, cụ thể như sau:
“Điều 6. Các hành vi bị xử lý kỷ luật

1. Cán bộ, cơng chức, viên chức có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa vụ
của cán bộ, công chức, viên chức; những việc cán bộ, công chức, viên chức không
được làm; nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; vi phạm đạo đức, lối sống
hoặc vi phạm pháp luật khác khi thi hành cơng vụ thì bị xem xét xử lý kỷ luật.”
Chính vì vậy, nếu trong thời gian công tác mà cán bộ, công chức thực hiện
các hành vi vi phạm như đã nêu mà lúc nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện các hành
vi vi phạm đó thì bị xử lý kỷ luật. Hay nói cách khác “hành vi vi phạm bị xử lý là
hành vi được thực hiện trong thời gian họ đang là cán bộ, công chức và vẫn nằm
21
trong thời hiệu xử lý kỷ luật đối với các vụ việc có áp dụng thời hiệu” . Việc này
giúp quá trình áp dụng pháp luật khi phát hiện hành vi bị xử lý kỷ luật được linh
hoạt và không rập khuôn bằng một quy định khung cứng nhắc. Qua quá trình rà sốt
quy định hướng dẫn chi tiết, Nghị định 112/2020/NĐ-CP khơng quy định chi tiết cụ
thể hành vi bị xử lý kỷ luật của cán bộ, công chức đã nghỉ việc nghỉ hưu mà chỉ quy
định tại Điều 6 về các hành vi bị xử lý kỷ luật nói chung. Do đó, có thể hiểu rằng
cán bộ, cơng chức khi đã nghỉ việc, nghỉ hưu mà lúc đương nhiệm thực hiện các
hành vi vi phạm sau đây thì bị xử lý kỷ luật:
Một là, vi phạm các quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức được quy
định tại Điều 8, 9, 10 của Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2019).
Hai là, vi phạm những việc cán bộ, công chức không được làm được quy
định tại Điều 18, 19, 20 của Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2019).
Ba là, vi phạm nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Bốn là, vi phạm đạo đức, lối sống được quy định tại Điều 15, 16, 17 của Luật
Cán bộ, Công chức năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2019) hoặc vi phạm pháp
luật khác khi thi hành cơng vụ.
1.3.2 Các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu
Chế định XLKL CB, CC đã nghỉ việc, nghỉ hưu được quy định trong Luật sửa
đổi, bổ sung năm 2019 và Nghị định 112/2020/NĐ-CP có thể xem “là một bước tiến

20
Khoản 18 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công chức và Luật Viên
chức ngày 25 tháng 11 năm 2019.
21

hưu”,

Đặng Thị Thu Trang (2020), “Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ, công chức sau khi nghỉ việc hoặc nghỉ

Tài liệu Hội thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công chức và Luật Viên chức – Những
điểm mới và định hướng áp dụng, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, tr. 178.



×