Lời Nói Đầu
Vai trò kinh tế của Nhà nớc giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong
nền kinh tế của một quốc gia. Không một nền kinh tế nào chịu sự điều tiết
của cơ quan thị trờng mà không có sự quản lý của "bàn tay Nhà nớc". Bởi n-
ớc ta là nớc đi theo định hớng XHCN. Trớc đây, ta đã duy trì nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp, Nhà nớc can thiệp quá sâu vào mọi lĩnh vực mà
không chịu trách nhiệm gì cả, coi thờng các quy luật hàng hoá - tiền tệ, quy
luật cung cầu... làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng suy
thoái.
Nhận thấy rõ sai lầm và để khắc phục hậu quả của việc áp dụng mô
hình tập trung đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII đã đề ra chiến lợc
ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 dựa theo quy luật hoạt động của
nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN. Nhng khi chuyển sang cơ chế
quản lý mới ta không phủ nhận vai trò quản lý (can thiệp) của Nhà nớc trong
kinh tế. Bởi điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ lẫn thị trờng
cũng nh định vỗ tay bằng một bàn tay. Những thành tựu mà nớc ta đạt đợc
trong những năm gần đây đã chứng tỏ một phần nào đó vai trò quan trọng
của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng là một vấn đề vẫn còn đang mới mẻ
đối với nền kinh tế nớc ta, bởi vậy là một sinh viên của trờng ĐHKTQD, việc
nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này là một điều rất có ý nghĩa chính vì thế mà em
đã chọn đề tài này. Tuy nhiên, là sinh viên năm thứ 2 với lợng kiến thức còn
nhiều hạn chế chắc rằng bài viết này của em còn có nhiều thiếu sót. Vậy kính
mong thầy chỉ bảo và giúp đỡ để bài viết của em đợc hoàn thiện hơn.
1
A. Mở bài
Chúng ta đã từng xây dựng mô hình kinh tế của đất nớc theo mô hình
kinh tế tập trung hoá. Xong những gì chúng ta đạt đợc đó là nền kinh tế luôn
trong tình trạng xuống dốc, lạm phát gia tăng, cuộc sống nhân dân ngày càng
khổ cực... Từ đó đặt ra cho Đảng và Nhà nớc ta cần phải đổi mới t duy cũng
nh cần phải xây dựng một mô hình kinh tế mới.
Trong vài năm trở lại đây chúng ta đã chuyển đổi từ mô hình kinh tế
tập trung sang mô hình kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Nhng khi
chuyển sang nền kinh tế mới đã tạo ra nhiều câu hỏi. Chúng ta sử dụng kinh
tế thị trờng nh một công cụ để xây dựng CNXH hay không? Nếu sử dụng
kinh tế thị trờng là từ bỏ CNXH.
Nhng đại hội biểu toàn quốc lần thứ VII và lần thứ VIII đã khẳng định
rõ. Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trờng thực chất là xây dựng kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Và
sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là trình tự phát triển của nền
văn minh nhân loại tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng
XHCN và cả khi CNXH đã đợc xây dựng và cũng theo quan điểm của Lênin,
ngời nói trong một đất nớc tiểu nông, trớc hết các đồng chí bắc chiếc cầu
nhỏ vứng chắc, để xuyên qua CNTB Nhà nớc tiến lên CNXH (Toàn tập
NXB tiến bộ Matxcơva 1978- tập 4. Tr 189). Đây cũng là bớc lùi chiến lợc và
trở lại con đờng phát triển hợp với quy luật kinh tế của nền kinh tế này,
chúng ta gặp không ít những nhợc điểm của nền kinh tế này cũng nh thất bại
của thị trờng. Vì khi ta xác định xây dựng đất nớc theo cơ chế thị trờng, thì sẽ
có sự tự do trao đổi buôn bán chuyển nhợng và cũng vì lợi nhuận tối đa mà
các nhà kinh doanh có thể bất chấp thủ đoạn ra sức bóc lột nhân dân, tớc loại
các t liệu sản xuất, chèn ép các doanh nghiệp nhỏ và đẩy họ trở thành những
kẻ làm thuê... và chịu sức mạnh của các công ty, tập đoàn tạo ra sự độc
quyền, làm mất tính cạnh tranh... cũng vì thặng d mà các nhà kinh doanh
khai thác tài nguyên thiên nhiên và sử dụng hàng hoá công cộng một cách
bừa bãi. Cũng nh C.Mác viết việc tạo ra giá trị thặng d, đó là quy luật tuyệt
đối của phơng thức sản xuất này. Chính vì những hoạt động đó đã dẫn đến
sự mất cân bằng trong xã hội: nền kinh tế khũng hoảng, lạm phát, thất nghiệp
gia tăng, khoảng cách giữa ngời giào và ngời nghèo cũng cách biệt, các công
trình phúc lợi không đợc chú trọng đến mà các doanh nghiệp chỉ chú trọng
2
đến các ngành nhanh đem lại lợi nhuận và sự thu hồi vốn nhanh. Những điều
đó đòi hỏi Nhà nớc ta phải có những sự nỗ lực toàn diện, nhằm xây dựng đất
nớc tiến nhanh hơn trong thời kỳ chuyển biến này.
Trong quá trình hiành thành nền kinh tế thị trờng đến nay đã có rất
nhiều quan điểm về vai trò Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng.
Theo nhà kinh tế học cổ điển Adam smith (1723-1790) đã đa ra thuyết
bàn tay vô hình và nguyên lý Nhà nớc không can thiệp vào hoạt động
của nền kinh tế. Ông cho rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá cần theo
nguyên tắc tự do, và hoạt động của nền kinh tế là do quy luật khách quan tự
phát chi phối và sự vận động của thị trờng là do quy luật cung cầu. Xong
thuyết bàn tay vô hình và nguyên lý Nhà nớc không can thiệp đã không
đảm bảo những điều kiện để ổn định nền kinh tế (Đầu những năm 30 thế kỷ
XX liên tiếp có những cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế...).
Trái ngợc với trờng phái của Adam smith thì John Meynard keyes
(1884-1946) lại cho rằng: Nhà nớc cần phải can thiệp vào kinh tế cả ở tầm vĩ
mô và vi mô. ở tầm vĩ mô Nhà nớc sử dụng các công cụ lãi xuất, chính sách
tín dụng, thuế... ở tầm vi mô Nhà nớc trực tiếp phát triển các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Ông cho rằng sự can thiệp của
Nhà nớc vào nền kinh tế sẽ khắc phục đợc khủng hoảng, thất nghiệp tạo ra đ-
ợc sự ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội. Xong sự can thiệp quá sâu đó
càng làm cho tình trạng lạm phát thất nghiệp ngày càng tăng và trầm trọng
hơn.
Từ hai trờng phái trên đã xuất hiện một trờng phái hỗn hợp nổi bật
quan điểm kinh tế hỗn hợp của Paul Samuelson một nhà kinh tế ngời Mỹ.
Ông cho rằng: Điều hành một nền kinh tế không phải cả Chính phủ lẫn thị tr-
ờng và cơ chế thị trờng xác định giá cả và sản lợng, trong khi đó Chính phủ
điều tiết thị trờng bằng các chơng trình thuế, chỉ tiêu và luật lệ, và ông cho
rằng cả hai đều có tính thiết yếu.
Đó là những quan điểm vai trò Nhà nớc nhằm xây dựng một nền kinh
tế thị trờng đạt hiệu quả cao nhất. Đối với nớc ta thì sao? Nhà nớc cần phải
làm gì?. Nhằm xây dựng một nền kinh tế hàng hoá có sự quản lý của Nhà n-
ớc đạt hiệu quả cao nhất? Và thực hiện biện pháp gì? Thông qua công cụ gì?
Đó là hàng loạt các câu hỏi đặt ra cho Nhà nớc ta trong thời kỳ chuyển đổi
nền kinh tế hiện nay.
3
Từ đó ta cũng thất tính bức xúc của vai trò Nhà nớc. Và sau đây em
xin đợc trình bày và làm rõ một vấn đề cơ bản về Vai trò của Nhà nớc
trong nền kinh tế thị trờng địng hớng XHCN ở nớc ta hiện nay.
B. Nội dung.
I. Cơ sở lý luận của việc hình thành vai trò kinh tế Nhà n ớc.
1. Cơ sở lý luận.
Nhà nớc bằng những hình thức nhất định của mình có một vị trí đặc
biệt quan trọng đối với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng. Kiến trúc thợng
tầng chính là công cụ của giai cấp thống trị về mặt chính trị và t tởng đối với
giai cấp bị trị. Kiến trúc thợng tầng cũ, xây dựng và bảo vệ, củng cố phát
triển cơ sở hạ tầng mới. Vì khi một điều lệ ra đời nó tác động đến các mối
quan hệ sản xuất và ngợc lại khi quan hệ sản xuất phát triển cao thì Nhà nớc
cần ban hành các (xác lệnh) chính sách các điều lệ phù hợp với sự phát triển
của quan hệ sản xuất.
Từ cơ sở lý luận đó nó sẽ đợc chứng minh trong quá trình lịch sử.
Khẳng định rằng sự ra đời của vai trò của Nhà nớc đối với nền kinh tế là tất
yếu. Bất cứ một Nhà nớc nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C.Mac coi
quyền lực của Nhà nớc nh vai trò bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội
mới. ở các thời kỳ khác nhau ở các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất
Nhà nớc khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nớc có hiệu quả
khác nhau.
2. Sự hình thành và phát triển kinh tế của các Nhà nớc đợc biểu
hiện qua các thời kỳ lịch sử.
Lịch sử đã chứng minh vai trò kinh tế của Nhà nớc đợc hình thành
ngay từ buổi ban đầu. Khi một Nhà nớc mới đợc hình thành thì ngay lập tức
vai trò kinh tế của Nhà nớc cúng đợc khẳng định luôn.
+ Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nhà nớc chủ nô là một kiểu Nhà nớc
đầu tiên trong lịch sử. Nó dùng các quyền lực của mình để chiếm đoạt ruộng
đất và của cải vật chất do nô lệ làm ra và coi giai cấp này nh một công cụ.
Trong từng thời kỳ Nhà nớc chỉ can thiệp vào việc phân phối các của
cải mà còn đứng ra tập hợp lực lợng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho
sản xuất nông nghiệp và luôn đề ra những chính sách ruộng đất thích hợp cho
4
từng giai đoạn, từng thời kỳ. Nhng nói chung các hoạt động này diễn ra một
cách tự phát.
+ Thực tế trong Nhà nớc phong kiến đã can thiệp và đã thu đợc những
thành công và cũng có những thất bại. Trong đó sự can thiệp sớm nhất xuất
hiện vào triều đạI Lý thế kỷ X trớc công nguyên. Nhà lý hình thành các thái
ấp và chịu kiểm soát của triều đình. Tuy nhiên mặc dù Nhà nớc phong kiến
đã có ý kiểm soát hoạt động của các thái ấp nhng vẫn không kiểm soát nổi
tình trạng bóc lột, hà khắc với nhân dân. Chính vì vậy trong nhiều thập kỷ
của Nhà nớc phong kiến Việt Nam tiếp tục ban hành các chính sách nhằm
kiểm soát, duy trì và củng cố quyền lực của Nhà nớc trung ơng.
- Năm 1397 Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điều & hạn nô
- Năm 1429 sau cuộc chiến tranh dành độc lập thắng lợi Nhà Lê đã
ban hành chế độ quan điều.
ở các nớc khác trong giai đoạn này cũng tơng tự, song các nớc phơng
Đông sớm nhận thức về vai trò của Nhà nớc trong nền kinh tế hơn các nớc
phơng Tây.
ở Trung Quốc từ học thuyết bình dân kinh tế chủ nghĩa Mạnh Tử
cho rằng chính sách kinh tế của Nhà nớc phải làm cho dân giàu và chỉ có
dân giàu thì nớc mới mạnh.
Song dù có tiến bộ và cải cách hơn chế độ chủ nô, với sự phát triển của
chế độ xã hội nên chế độ phong kiến (Nhà nớc phong kiến) vẫn phải sụp đổ
để thay vào đó một Nhà nớc tiến bộ hơn. Đó là Nhà nớc TBCN.
ở Nhà nớc TBCN. Nền kinh tế mới ra đời các quan hệ sản xuất cũng
đợc đổi mới. Nhằm nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế phát triển. Nhà n-
ớc t bản nhanh chóng có nhứng chính sách giúp đỡ các nhà kinh doanh, tạo
ra sự tích luỹ t bản.
Trong giai đoạn đầu của CNTB. Nhà nớc đã ban hành và xây dựng các
bộ luật nhằm tạo ra sự tích luỹ cao nhất và giúp các doanh nghiệp trong nớc
khỏi sự chèn ép của các tập đoàn doanh nghiệp nớc ngoài. Nhng khi kinh tế
TBCN phát triển Nhà nớc chỉ đóng vai trò là ngời giám sát và tạo ra các cơ sở
tiền đề cho sự phát triển kinh tế.
Qua các thời kỳ lịch sử cho thất rõ hơn khi mà lực lợng sản xuất trong
chế độ đó phát triển ở một mức độ nào đó, nó sẽ kéo theo mối quan hệ sản
5
xuất đó cũng dần thay đổi để phù hợp và khi quan hệ sản xuất ngày càng đợc
nâng cao và mở rộng thì nó đòi hỏi phải có một thể chế mới nhằm đáp ứng
nhu cầu cho các mối quan hệ sản xuất phát triển. Cho nên ròng lịch sử đã
chứng minh cho chúng ta rất rõ. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, khi mức quan
hệ sản xuất phát triển tức họ đã đòi các quyền về sự phân phối sản phẩm cần
phải có quan hệ tổ chức về quản lý và quyền sở hữu đối với t liệu sản xuất.
Song thể chế lúc bấy giờ chỉ coi tầng lớp lao động (nô lệ) chỉ là những công
cụ sản xuất. Và quan hệ cũng nh các chính sách của Nhà nớc không đáp ứng
đợc nhu cầu sản xuất. Cho nên nh một tất yếu khách quan các quan hệ sản
xuất đã đấu tranh và thay đổi một kiểu Nhà nớc mới. Sang thơi kỳ phong
kiến. Thời kỳ này cũng tơng tự nh vậy, tuy đã đợc cải cách nhiều song còn
lạc hậu với các quan hệ sản xuất ngày cành phát triển và cũng nh quá trình
chuyển biến từ nền kinh tế chiếm hữu nô lệ sang nền kinh tế TBCN. Với
khoa học công nghệ phát triển, nó đã cải tiến đợc nhiều quan hệ tổ chức và
quản lý sản xuất... Nhng quan hệ phân phối sản phẩm vẫn cha đợc giải quyết
một cách đúng đắn. Trong thời kỳ kinh tế TBCN phát triển, Nhà nớc t bản đã
khôn khéo che đậy mối quan hệ này bằng cách tạo ra các chính sách nh trợ
cấp... nhằm che dấu bản chất của mối quan hệ sản xuất. Nhà nớc CNTB đã
đặt ra chế độ thuế khoá- một chế độ đóng góp có tính cỡng bức để nuôi sống
bộ máy cai trị, thực hiện chức năng đối nội, điều hoà giai cấp điều hoà sự
sung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự nhằm phục vụ
lợi ích của giai cấp thống trị, lợi ích phần lớn tập trung vào tay một số ít ngời
(Giai cấp thống trị) trong xã hội. Nền kinh tế đó sớm muộn cũng bị thay đổi,
nhằm giải quyết triệt để vấn đề cơ sở hạ tầng. Và để giải quyết vấn đề về mối
quan hệ Nhà nớc và kinh tế đó một Nhà nớc mới ra đời. Nhà nớc XHCN.
+ Nhà nớc XHCN.
Bên cạnh những mặt tiêu cực của Nhà nớc TBCN, Nhà nớc XHCN đã
biết kế thừa những mặt tích cực cũng nh những thành tựu của Nhà nớc TBCN
nhằm giải quyết tốt hơn vai trò của Nhà nớc về kinh tế. Một trong những Nhà
nớc đó là Nhà nớc ta đã đang vận dụng nhằm xây dựng con đờng mình đã
chọn.
II. Vận dụng nền kinh tế thị tr ờng và những cơ sở lý luận vào n ớc
ta.
1. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần có sự
quản lý của Nhà nớc ta.
6
Trớc đây chúng ta muốn tiến lên XHCN nên đã đa nền kinh tế tập
trung vào nớc ta. Trong quá trình xây dựng đất nớc chúng ta gặp không ít
những khó khăn. Trong các cuộc chiến tranh chúng ta đã xây dựng nền kinh
tế tập trung đã giải quyết đợc một số vấn đề về kinh tế xã hội quan trọng nhất
là việc huy động đợc nhân tài vật lực phục vụ cho chiến tranh chống Mỹ cứu
nớc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nớc. Chính vì điều đó mà chúng ta
đã ngộ nhận rằng: Nền kinh tế kế hoạch đó sẽ đa nớc ta tiến nhanh lên
CNXH.
Cho nên sau khi hoà bình chúng ta vẫn áp dụng nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung để xây dựng đất nớc. Nhng trong quá trình xây dựng mô hình
này thì nó đã dần bộc lộ những nhợc điểm cơ bản là nó thiếu động lực cho sự
phát triển. Điều này nó thể hiện những mặt hạn chế sau:
nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung không gắn chặt giữa
ngời lao động và t liệu sản xuất và sản phẩm của họ làm ra. Việc sản xuất tốt
hay xấu không liên quan gì đến quyền lợi của ngời lao động, chính vì thế mà
ngời lao động không quan tâm đến sản xuất, xã hội trở nên thiếu động lực.
Vì sản xuất và tiêu thụ theo mệnh lệnh nên ngời lao động và các cơ sở
sản xuất kinh doanh không cần thiết phải nghiên cứu ứng dụng các thành tựu
mới. Bởi vật cơ sở vật chất kỹ thuật của nên kinh tế vốn đã lạc hậu lại càng
lạc hậu hơn.
Cũng vì làm theo kế hoạch và mệnh lệnh nên ngời lao động và cơ sở
kinh doanh trở nên thụ động, tính sáng tạo của họ ngày càng bị thui chột. Sở
dĩ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung có nhiều tiêu cực là do chính cơ chế
quản lý của nó.
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quản lý nền kinh tế bằng mệnh
lệnh hành chính là chủ yếu điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá quá đáng. Các
cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhng lại không chịu trách nhiệm gì về
các quyết định của mình. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu coi thờng
quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả quản lý kinh tế.
Những hậu quả của nền kinh tế này mang lại là: kinh tế đất nớc luôn
trong tình trạng suống dốc, lạm phát gia tăng, làm nảy sinh sự trì trệ cuộc
sống nhân dân ngày càng khổ cực.
7
Nhng sau sự đổ vỡ của Liên Xô, chúng ta không thể cứ tiếp tục xây
dựng nền kinh tế của nớc ta theo mô hình này. Vấn đề đợc đặt ra là phải đổi
mới sâu sắc cơ chế quản lý cũ (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp). Theo h-
ớng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã đợc Đại hội VI của Đảng xác
định và tiếp tục đợc Đại hội VII của Đảng khẳng định tiếp tục xoá bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành động lực và vận hành có hiệu quả
của cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
Nền kinh tế thị trờng là một nền kinh tế có nhiều u điểm. Đó là một
nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trờng quyết định.
Cơ chế của nó hết sức linh hoạt, nó tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dới sự
tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó quyết
định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Thật khoa học có thể đánh giá đầy
đủ đợc u và nhựơc điểm vủa cơ chế thị trờng. Tuy nhiên có thể nêu một số u
điểm cơ bản của cơ chế đó:
- Cơ chế thị trờng có thể kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế,
tạo điều kiện cho hoạt động tự do của họ. Nhờ đó mà động viên đợc các lực l-
ợng xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy ứng dụng kỹ
thuật mới vào sản xuất phát triển nền kinh tế hàng hoá.
- Nhờ thị trờng có thể thoả mãn nhu cầu về hàng ngàn vạn loại sản
phẩm khác nhau cho tiêu dùng cá nhân và cho sản xuất.
- Thị trờng linh hoạt hơn, có kế hoạch hoá tập trungả năng thích nghi
cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời khối l-
ợng và cơ cấu của sản xuất với khối lợng và cơ cấu của nhu cầu.
Nhờ vậy cơ chế thị trờng giải quyết đợc những vấn đề cơ bản của tổ
chức kinh tế xã hội. Cơ chế thị trờng có khả năng tự điều tiết nền sản xuất xã
hội tức là khả năng phân bổ của các ngành kinh tế mà không cần điều khiển
của trung tâm nào.
Cơ chế thị trờng tự động điều chỉnh và kích thích sự phát triển sản
xuất, tăng trởng kinh tế tạo ra ở cả chiều rộng và chiều sâu. Tăng cờng
chuyên môn hoá sản xuất.
Qua đó chúng ta thấy tính năng hoạt động cũng nh hiệu quả của nền
kinh tế thị trờng so với kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Chúng ta xây dựng
XHCN nên việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật là một yếu tố quan trọng. Cho
8
nên một số năm trở lại đây chúng ta đang xây dựng một mô hình kinh tế mới
đó là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hớng XHCN.
Thực tế nhằm đa nớc ta thoát khỏi khủng khoảng & trì trệ suốt những
năm bao cấp và cải thiện, nâng cao dần đời sống nhân dân. Và cũng để ứng
dụng tốt công nghệ khoa học tạo ra cơ sở vật chất cho công cuộc đổi mới ở n-
ớc ta.
Và thực chất của công cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc là so mối quan
hệ trong xã hội đòi hỏi Nhà nớc phải có những chính sách cải thiện đặc biệt
là trong kinh tế. Đứng trớc thực trạng đó Nhà nớc không thẻ giữ mãi các mối
quan hệ sản xuất cũ mà cần phải có những chính sách mới phù hợp với những
quan hệ sản xuất đang phát triển. Và nhằm phù hợp với thực trạng của đất n-
ớc và sự phát triển của thế giới.
Chính vì vậy nớc ta đã chọn con đờng mới. Chuyển toàn bộ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
2. Vai trò của Nhà nớc trong quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần ở nớc ta hiện nay.
2.1. Sự cần thiết tất yếu phải có vài trò của Nhà nớc.
Trong điều kiện hiện nay của đất nớc, khi mà đất nớc đang xoá bỏ dần
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung để xây dựng nền kinh tế mới, nền kinh tế
thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Thì vai trò của Nhà nớc ngày càng lớn
lao hơn.
Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trờng. Mà chúng ta đã biết đây
là một nền kinh tế CNTB mà bản chất của phơng thức sản xuất này là giá trị
thặng d, vì mục đích lợi nhuận tối đa con ngời có thể làm mọi thứ. Mục đích
của sản xuất TBCN làm giàu, là nhân giá trị lên, là làm tăng giá trị, do đó
bảo tồn giá trị trớc kia và tạo ra giá trị thặng d (C.Mac: các học thuyết giá trị
thặng d). sản xuất ra giá trị thặng d (lợi nhuận) là một động lực thúc đẩy con
ngời sản xuất bằng mọi cách nhằm tạo ra lợi nhuận lớn nhất. Mà chúng ta
đang xây dựng đất nớc tiến lên CNXH, nhng muốn vận hành nền kinh tế theo
cơ chế thị trờng để tạo ra cơ sở vật chất tiền đề vững chắc về vật chất, cho
nên cần phải co vai trò Nhà nớc nhằm định hớng tốt tránh sự lệch lạc trên con
đờng tiến lên CNXH.
9
Mặt khác, trong quá trình xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trờng
chúng ta sẽ gặp nhiều hạn chế trong cơ chế này. Cơ chế thị trờng có thể gây
ra nhiều những mất ổn định và thờng xuyên phá vỡ thế cân bằng trong nền
sản xuất xã hội. Cơ chế thị trờng thờng sinh ra các vấn đề nan giải: lạm phát,
thất nghiệp, phân phối sản phẩm... cơ chế này hoạt động không có hiệu quả
bởi các tổ chức độc quyền và luôn gây ra sự mất công bằng, nhiều tệ nạn xã
hội... cơ chế phân phối sản phẩm đã phân hoá xã hội thành những ngời giàu,
kẻ nghèo và ngày càng sâu sắc hơn.
Trong cơ chế này một số ngành có lợi nhuận thấp sức thu hồi vốn lâu,
một số nhà kinh doanh không sản xuất mặt hàng này. Nhng mặt hàng này lại
rất quan trọng (trong đời sống) đối với xã hội và sự phát triển kinh tế.
Do vậy nhằm đI đúng con đờng đã chọn Nhà nớc và nhân dân ta đã
chọn cần phải có chính sách hợp lý nhằm hạn chế những nhợc điểm của nền
kinh tế mới. Vì vậy cần phải có vai trò quản lý của Nhà nớc trong quá trình
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta.
2.2. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nớc ta.
Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nớc.
Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nớc ta hiện nay là đa đất nớc
thoát khỏi khủng hoảng, ổn định kinh tế xã hội, phấn đấu vợt qua tình trạng
nớc nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân củng cố quốc
phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nớc phát triển nhanh chóng hơn vào
đầu thế kỷ thứ XXI.
Cụ thể đảm bảo cho hiệu quả kinh tế xã hội, đảm bảo sự tăng trởng
nhanh của nền kinh tế gắn liền với sự tiến bộ và công bằng xã hội, làm cho
xã hội ngày càng văn minh đI lên, tạo ngày càng nhiều công ăn việc làm cho
ngời lao động, giảm nhanh tỷ lệ thất nghiệp, tránh những thăng trầm, đột
biến xấu đến khủng hoảng, lạm phát...
Nh vậy, để đạt đợc những mục tiêu đó Nhà nớc ta phải có những chức
năng gì?
Các chức năng quản lý kinh tế của Nhà nớc: gồm 4 chức năng sau
a. Định ra khuôn khổ hoạt động cho các tổ chức hoạt động kinh
doanh
10