Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Bài soạn ôn thi tốt nghiệp môn quản lý nhà nước về kinh tế. pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.19 KB, 44 trang )








Bài soạn ôn thi tốt nghiệp
môn quản lý nhà nước về kinh tế

































- 2 -

Chương I

Câu 1: Mô tả đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Nêu ví dụ về những nhược
điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nhà nước ta cần tập trung giải quyết những
vấn đề gì để khắc phục nhược điểm của kinh tế thị trường?

I. Kinh tế thị trường là là một mô hình kinh tế vận động, phát triển, dựa trên cơ sở
các quy luật của thị trường, trong đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành phổ biến và bao
quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế, ở
đó các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường phát huy tác dụng, trước hết, là quy
luật giá trị, quy luật này đòi hỏi việc sản xuất hàng hoá phải trên cơ sở hao phí lao động xã
hội cần thiết và trao đổi phải bình đẳng, ngang giá. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh
phải tuân thủ quy luật này mới có thể tồn tại và phát triển. Thứ hai là quy luật cung cầu,
quy luật này biểu hiện quan hệ giữa cung và cầu thông qua giá cả, nó tác động trực tiếp đến
giá cả và phương thức sản xuất, tiêu dùng của xã hội. Thứ ba là quy luật cạnh tranh, quy
luật này đòi hỏi hàng hoá sản xuất ra phải có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn, thái độ
phục vụ văn minh hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh so với các hàng hoá khác cùng

loại.

Một nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường phải có 6 đặc trưng chủ yếu sau:

1. Thứ nhất, là quá trình lưu thông vật chất từ khâu này đến khâu khác trong hệ thống
các khâu của quá trình sản xuất và từ sản xuất đến tiêu dùng đều được thực hiện chủ yếu
bằng phương thức mua - bán. Sở dĩ có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có
sự phân công chuyên môn hoá trong sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, bên cạnh đó,
còn do có sự dư thừa sản phẩm ở doanh nghiệp này, ngành này nhưng lại thiếu sản phẩm ở
doanh nghiệp khác, ngành khác và ngược lại. Một nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị
trường khi tổng lượng mua bán vượt quá nữa tổng lượng vật chất của xã hội.

2. Thứ hai, người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao
đổi trên thị trường, được thể hiện trên 3 mặt sau: tự do lựa chọn nội dung trao đổi, tự do
lựa chọn đối tác trao đổi và tự do thoả thuận giá cả trao đổi theo cách thuận mua vừa bán.

3. Thứ ba, hoạt động mua bán được diễn ra 1 cách thường xuyên, ổn định trên cơ sở
1 kết cấu hạ tầng tối thiểu đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn.

4. Thứ tư, các đối tác tham gia trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của
mình, đó chính là lợi nhuận, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế
nhưng không được xâm phạm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác và của cộng đồng.

5. Thứ năm, kinh tế thị trường luôn gắn với cạnh tranh, hay nói cách khác, cạnh tranh
là linh hồn của nền kinh tế thị trường, đó là động lực thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội,
nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng.

6. Thứ sáu, sự vận động của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường
(quy luật giá trị, qui luật cạnh tranh, qui luật cung-cầu ) dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử
của các chủ thể tham gia thị trường.


Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trong từng quốc gia và sự hội
nhập kinh tế mang tính toàn cầu đã tạo điều kiện và khả năng to lớn để nền kinh tế thị
trường phát triển đạt đến trình độ cao - kinh tế thị trường hiện đại. Nền kinh tế thị trường
hiện đại là nền kinh tế có đầy đủ các đặc trưng của 1 nền kinh tế thị trường và đồng thời có
các đặc trưng sau: (4)

+ Một là, có sự thống nhất về mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - xã hội và
nhân văn.


- 3 -
+ Hai là, có sự quản lý của nhà nước, do nhu cầu nhà nước không chỉ là người đại
diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền mà còn do nhu cầu của chính những người tham
gia Điều đó đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.

+ Ba là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với qui mô
ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên 1
chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là 1 bộ phận gắn bó hữu cơ với các bộ phận
khác.

+ Bốn là, hệ thống thị trường đồng bộ, thống nhất, ngày càng hiện đại, gắn với thị
trường khu vực và thế giới, bao gồm các thị trường bộ phận đầu ra (hàng hoá, dịch vụ) và
thị trường đầu vào (vốn, lao động, công nghệ thông tin, bất động sản ).

II. Những ưu điểm, nhược điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam:

1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường, đó là: (6)

+ Năng động và thích ứng cao với đòi hỏi của thị trường, đáp ứng được các nhu cầu

có thể thanh toán được của xã hội một cách tự động mà không một bộ máy hoạch định nào
có thể thay thế được;

+ Huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội;

+ Tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả
cao và thông qua phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém;

+ Phản ứng nhanh nhạy trước các thay đổi trong nhu cầu xã hội và các điều kiện kinh
tế trong nước và quốc tế;

+ Buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai lầm
trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên qui mô lớn;

+ Tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ - kỹ thuật
làm cho nền kinh tế năng động và đạt hiệu quả cao.

2. Nhược điểm của nền kinh tế thị trường: (5)

Nền kinh tế thị trường tuy có nhiều ưu điểm nhưng nó không phải luôn hoàn hảo, mà
bản thân nó chứa đầy những mặt trái, những nhược điểm rất cơ bản. Và cũng chính vì
những khuyết tật này mà nó làm cho kinh tế thị trường chứa đựng cả những yếu tố đi
ngược chiều với mục tiêu mà chúng ta đang hướng tới. Những khuyết tật, mặt trái của kinh
tế thị trường được thể hiện ở các nội dung sau:

+ Động cơ lợi nhuận dễ đẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật như kinh doanh lừa
đảo, làm hàng giả; tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá, huỷ hoại 1 cách
nghiêm trọng và lan rông; tham nhũng, hối lộ, tệ nạn xã hội, thương mại hoá các giá trị đạo
đức và đời sống tinh thần;


+ Kinh tế thị trường tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, dẫn đến
phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng.

+ Do theo đuổi lợi ích cá nhân tối đa, nên lợi ích chung của xã hội không được
chăm lo, nhiều trường hợp các nhà kinh doanh có thể đưa vào sản xuất những sản phẩm
đem lại tác hại cho xã hội và nhân loại như hàng giả, thuốc tây giả, ma tuý, văn hoá phẩm
đồi truỵ ; để khắc phục tình trạng này cần phải có sự can thiệp tích cực của nhà nước.

+ Sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường dẫn đến độc quyền, do vậy sẽ hạn chế
nghiêm trọng các ưu điểm của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh không tổ chức dẫn đến
mất cân đối vĩ mô, gây ra những hậu quả tiêu cực về xã hội nhưng tình trạng thất nghiệp,
lạm phát, phát triển kiểu chu kỳ.

+ Kinh tế thị trường làm sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế.

3. Nhà nước cần tập trung giải quyết những vấn đề sau để khắc phục những
nhược điểm của nền kinh tế thị trường: (7)


- 4 -
+ Nhà nước cần tập trung vào việc xây dựng 1 hệ thống thị trường đồng bộ gồm
những thị trường bộ phận như: thị trường vốn, thị trường lao động

+ Các chủ thể kinh tế phải được tự do, bình đẳng trong hoạt động kinh tế.

+ Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật.

+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để định hướng cho sự vận động và phát
triển của nền kinh tế.


+ Nhà nước phải kết hợp nhiều hình thức phân phối theo yêu cầu của nền kinh tế thị
trường, đó là phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản và vốn, phân phối qua quỹ
phúc lợi xã hội để giảm khoảng cách giàu nghèo.

+ Phải chú trọng vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng, bởi nếu cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ
làm cho giá thành sản phẩm cao, hiệu quả mua bán kém, do vậy không có khả năng cạnh
tranh trên thị trường, sẽ khó thu hút đầu tư kinh tế từ nước ngoài.
+ Tăng cường công tác kiểm tra giám sát để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chống
nạn tham nhũng, lãng phí cạnh tranh không lành mạnh, hàng lậu, hàng giả ).

Câu 2: Nói rõ đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự thể hiện
của yếu tố nhà nước trong các đặc trưng đó như thế nào?

I. Kinh tế thị trường là là một mô hình kinh tế vận động, phát triển, dựa trên cơ sở
các quy luật của thị trường, trong đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành phổ biến và bao
quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế, ở
đó các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường phát huy tác dụng, trước hết, là quy
luật giá trị, quy luật này đòi hỏi việc sản xuất hàng hoá phải trên cơ sở hao phí lao động xã
hội cần thiết và trao đổi phải bình đẳng, ngang giá. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh
phải tuân thủ quy luật này mới có thể tồn tại và phát triển. Thứ hai là quy luật cung cầu,
quy luật này biểu hiện quan hệ giữa cung và cầu thông qua giá cả, nó tác động trực tiếp đến
giá cả và phương thức sản xuất, tiêu dùng của xã hội. Thứ ba là quy luật cạnh tranh, quy
luật này đòi hỏi hàng hoá sản xuất ra phải có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn, thái độ
phục vụ văn minh hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh so với các hàng hoá khác cùng
loại.

Một nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường phải có 6 đặc trưng chủ yếu sau:
'
1. Thứ nhất, là quá trình lưu thông vật chất từ khâu này đến khâu khác trong hệ thống

các khâu của quá trình sản xuất và từ sản xuất đến tiêu dùng đều được thực hiện chủ yếu
bằng phương thức mua - bán. Sở dĩ có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có
sự phân công chuyên môn hoá trong sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, bên cạnh đó,
còn do có sự dư thừa sản phẩm ở doanh nghiệp này, ngành này nhưng lại thiếu sản phẩm ở
doanh nghiệp khác, ngành khác và ngược lại. Một nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị
trường khi tổng lượng mua bán vượt quá nữa tổng lượng vật chất của xã hội.

2. Thứ hai, người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao
đổi trên thị trường, được thể hiện trên 3 mặt sau: tự do lựa chọn nội dung trao đổi, tự do
lựa chọn đối tác trao đổi và tự do thoả thuận giá cả trao đổi theo cách thuận mua vừa bán.

3. Thứ ba, hoạt động mua bán được diễn ra 1 cách thường xuyên, ổn định trên cơ sở
1 kết cấu hạ tầng tối thiểu đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn.

4. Thứ tư, các đối tác tham gia trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của
mình, đó chính là lợi nhuận, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế
nhưng không được xâm phạm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác và của cộng đồng.

5. Thứ năm, kinh tế thị trường luôn gắn với cạnh tranh, hay nói cách khác, cạnh tranh
là linh hồn của nền kinh tế thị trường, đó là động lực thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội,
nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng.


- 5 -
6. Thứ sáu, sự vận động của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường
(quy luật giá trị, qui luật cạnh tranh, qui luật cung-cầu ) dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử
của các chủ thể tham gia thị trường.

Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trong từng quốc gia và sự hội
nhập kinh tế mang tính toàn cầu đã tạo điều kiện và khả năng to lớn để nền kinh tế thị

trường phát triển đạt đến trình độ cao - kinh tế thị trường hiện đại. Nền kinh tế thị trường
hiện đại là nền kinh tế có đầy đủ các đặc trưng của 1 nền kinh tế thị trường và đồng thời có
các đặc trưng sau:

+ Một là, có sự thống nhất về mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - xã hội và
nhân văn.

+ Hai là, có sự quản lý của nhà nước, do nhu cầu nhà nước không chỉ là người đại
diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền mà còn do nhu cầu của chính những người tham
gia Điều đó đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.

+ Ba là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với qui mô
ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên 1
chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là 1 bộ phận gắn bó hữu cơ với các bộ phận
khác.

+ Bốn là, hệ thống thị trường đồng bộ, thống nhất, ngày càng hiện đại, gắn với thị
trường khu vực và thế giới, bao gồm các thị trường bộ phận đầu ra (hàng hoá, dịch vụ) và
thị trường đầu vào (vốn, lao động, công nghệ thông tin, bất động sản ).

II. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.

Đại hội X của Đảng đã khẳng định quan điểm nắm vững định hướng XHCN trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta là:

+ Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;
giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân;
đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,
giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.


+ Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục , giải
quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng
với các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.

+ Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Từ những quan điểm trên, chúng ta thấy rằng giải phóng mạnh mẽ và không ngừng
phát triển sức sản xuất là cơ sở để nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân
(hiện nay là 725 USD/đầu người/năm phấn đấu đến năm 2010 là 1.000 USD/đầu
người/năm) và giảm khoảng cách giàu nghèo, rút ngắn mức độ phân hoá giàu nghèo,
đồng thời là điều kiện để thúc đẩy kinh tế phát triển, với tốc độ tăng trưởng (GDP) bền
vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, cân đối với nguồn lực đất nước. Bên cạnh phát triển kinh
tế, phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát huy dân chủ, tạo môi trường tự do kinh
doanh theo pháp luật và trong khuôn khổ của pháp luật, đảm bảo sự bình đẳng giữa các
chủ thể tham gia trên lĩnh vực kinh tế.


- 6 -
Đảng ta khẳng định quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) và nhiều
loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Về cơ chế quản lý, chịu sự điều tiết song hành của
các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường và chịu sự quản lý ở tầm

vĩ mô của nhà nước. Về hình thức phân phối, thực hiện phân phối theo lao động (người
lao động được thụ hưởng tương xứng với công sức đóng góp của mình), phân phối theo tỷ
lệ tài sản và vốn góp, phân phối thông qua quỹ phúc lợi xã hội.

Phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế đạt trình độ hiện đại, phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đây là tất yếu của mọi quốc gia khi tham gia kinh tế thị trường.
Ngay trong bản thân mỗi đơn vị, doanh nghiệp phải thực hiện tổ chức sản xuất 1 cách tiên
tiến theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá, liên hợp hoá và bằng việc không ngừng
nâng cao trình độ khoa học - công nghệ sản xuất theo hướng cơ khí hóa, điện khí hóa ,
đồng thời phải thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng cho từng loại thị trường. Hình thành
và phát triển 1 số ngành mũi nhọn, trọng điểm, có tính chất then chốt để tạo ra sự cạnh
tranh với các nước trong khu vực và thế giới. Xây dựng nền kinh tế mở và hội nhập, mở
rộng quan hệ với các quốc gia, các tổ chức trên thế giới ở lĩnh vực xuất nhập khảu hàng
hoá, đầu tư vốn, dịch vụ thu ngoại tệ, chuyển giao khoa học công nghệ, đồng thời, cùng
với mở cửa, hội nhập, phải xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, phát huy tối đa
nội lực để thu hút ngoại lực, từng bước thực hiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới.

III. Sự thể hiện yếu tố nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

Trước đây, do yêu cầu xây dựng nền kinh tế theo chế độ công hữu, phi hàng hoá và
được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên nhà nước quản lý tuyệt đối toàn
bộ đời sống kinh tế - xã hội, nắm và chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước.
Với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, nhà nước đã thực hiện được những mục tiêu
kinh tế và chính trị xã hội quan trọng, thể hiện được tính ưu việt của CNXH trên nhiều
mặt. Tuy nhiên, nền kinh tế theo chế độ công hữu, phi hàng hoá và được quản lý theo cơ
chế kế hoạch hoá tập trung cao độ cũng bộc lộ nhiều khuyết tật, làm triệt tiêu động lực phát
triển, nền kinh tế trì trệ, rơi vào khan hiếm, dẫn tới khủng hoảng kinh tế - xã hội, còn nhà
nước thì bao biện, làm thay thị trường và xã hội, dẫn tới bộ máy cồng kềnh, quan liêu,

quản lý kém hiệu lực và hiệu quả. Nhà nước đề ra đường lối, chính sách, kế hoạch, nhà
nước là chủ sở hữu vốn của mình trong doanh nghiệp, nhà nước lập kế hoạch thực hiện,
can thiệp vào mọi khâu trong quá trình thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp, nhà nước là
người điều hành trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhà nước
quyết định tất cả từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình kinh tế.

Hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình khách
quan, hợp quy luật và là một nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới ở nước ta. Trong quá
trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường cũng như khi cơ chế thị trường đã được xây dựng
đồng bộ, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước không hề suy giảm mà còn tăng lên.
Điều đó, không có nghĩa là nhà nước nắm tất cả, can thiệp vào tất cả mọi hoạt động
kinh tế của toàn xã hội, mà trái lại nhà nước chỉ nắm những lĩnh vực, những khâu
then chốt, thực hiện những công việc quan trọng nhất mà thị trường và nhân dân
không làm được, nhà nước tiến hành kiểm tra, giám sát, định hướng kinh tế cho các
thành phần kinh tế trong xã hội, nhà nước chỉ thực hiện quản lý ở tầm vĩ mô.

Câu 3: Ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường. Nhà nước cần tập trung giải
quyết những vấn đề gì?

I. Những ưu điểm, nhược điểm của nền kinh tế thị trường:

1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường, đó là: (6)


- 7 -
+ Năng động và thích ứng cao với đòi hỏi của thị trường, đáp ứng được các nhu cầu
có thể thanh toán được của xã hội một cách tự động mà không một bộ máy hoạch định nào
có thể thay thế được.

+ Huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội.


+ Tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả
cao và thông qua phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém.

+ Phản ứng nhanh nhạy trước các thay đổi trong nhu cầu xã hội và các điều kiện kinh
tế trong nước và quốc tế.

+ Buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai lầm
trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên qui mô lớn.

+ Tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ - kỹ thuật
làm cho nền kinh tế năng động và đạt hiệu quả cao.

2. Nhược điểm của nền kinh tế thị trường: (5)

Nền kinh tế thị trường tuy có nhiều ưu điểm nhưng nó không phải luôn hoàn hảo, mà
bản thân nó chứa đầy những mặt trái, những nhược điểm rất cơ bản. Và cũng chính vì
những khuyết tật này mà nó làm cho kinh tế thị trường chứa đựng cả những yếu tố đi
ngược chiều với mục tiêu mà chúng ta đang hướng tới. Những khuyết tật, mặt trái của kinh
tế thị trường được thể hiện ở các nội dung sau:

+ Động cơ lợi nhuận dễ đẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật như kinh doanh lừa
đảo, làm hàng giả; tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá, huỷ hoại 1 cách
nghiêm trọng và lan rông; tham nhũng, hối lộ, tệ nạn xã hội, thương mại hoá các giá trị đạo
đức và đời sống tinh thần;

+ Kinh tế thị trường tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, dẫn đến
phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng.

+ Do theo đuổi lợi ích cá nhân tối đa, nên lợi ích chung của xã hội không được

chăm lo, nhiều trường hợp các nhà kinh doanh có thể đưa vào sản xuất những sản phẩm
đem lại tác hại cho xã hội và nhân loại như hàng giả, thuốc tây giả, ma tuý, văn hoá phẩm
đồi truỵ ; để khắc phục tình trạng này cần phải có sự can thiệp tích cực của nhà nước.

+ Sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường dẫn đến độc quyền, do vậy sẽ hạn chế
nghiêm trọng các ưu điểm của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh không tổ chức dẫn đến
mất cân đối vĩ mô, gây ra những hậu quả tiêu cực về xã hội nhưng tình trạng thất nghiệp,
lạm phát, phát triển kiểu chu kỳ.

+ Kinh tế thị trường làm sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế.

3. Nhà nước cần tập trung giải quyết những vấn đề sau để khắc phục những
nhược điểm của nền kinh tế thị trường:

+ Nhà nước phải tạo lập môi trường và điều kiện cho hoạt động kinh doanh, tập trung
vào việc xây dựng 1 hệ thống thị trường đồng bộ gồm những thị trường bộ phận như: thị
trường vốn, thị trường lao động

+ Các chủ thể kinh tế phải được tự do, bình đẳng trong hoạt động kinh tế.

+ Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật.

+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để định hướng cho sự vận động và phát
triển của nền kinh tế.

+ Nhà nước phải kết hợp nhiều hình thức phân phối theo yêu cầu của nền kinh tế
thị trường, đó là phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản và vốn, phân phối qua quỹ
phúc lợi xã hội để giảm khoảng cách giàu nghèo.



- 8 -
+ Phải chú trọng vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng, bởi nếu cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ
làm cho giá thành sản phẩm cao, hiệu quả mua bán kém, do vậy không có khả năng cạnh
tranh trên thị trường, sẽ khó thu hút đầu tư kinh tế từ nước ngoài

+ Tăng cường công tác kiểm tra giám sát để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
chống nạn tham nhũng, lãng phí, cạnh tranh không lành mạnh, hàng lậu, hàng giả ).

Câu 4: Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế. Từ
thực tế chứng minh vai trò của nhà nước ngày càng quan trọng trong quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.

I. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế:

Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế bởi các lý do sau:

+ Tính giai cấp trong kinh tế và bản chất giai cấp của nhà nước.

Nhà nước là sản phẩm của xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp, nó được giai
cấp thống trị về kinh tế sinh ra để bảo vệ quyền lợi kinh tế của giai cấp thống trị đó. Nói
cách khác, nhà nước có sứ mạng và nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị về kinh
tế.

Tính giai cấp trong kinh tế thể hiện ở vị thế của giai cấp đó đối với tư liệu sản
xuất, vị thế trong quản lý sản xuất, cơ sở vật chất, vị thế trong phân chia lợi ích kinh
tế. Theo đó, trong nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người làm
công, không có tư liệu sản xuất, ở vị trí bị quản lý và bị bóc lột; và giai cấp tư sản, những
chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, quản lý, phân phối lợi nhuận và bóc lột. Vậy giai cấp chỉ
hình thành trong kinh tế và cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giành 3 vị thế trong

kinh tế.

Kết hợp 2 mặt vấn đề, ta thấy trong kinh tế có đấu tranh giai cấp, nhà nước là 1
công cụ của giai cấp. Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc đấu tranh giai cấp mà phải
tham gia vào mới thể hiện hết vai trò công cụ của mình.

+ Tính mâu thuẫn gay gắt về lợi ích trong lĩnh vực kinh tế:

Trong nền kinh tế thị trường chứa đựng những mâu thuẫn cơ bản, đó là những mâu
thuẫn giữa các doanh nhân với nhau, mâu thuẫn giữa chủ với thợ trong các doanh
nghiệp có bóc lột lao động và mâu thuẫn giữa giới sản xuất kinh doanh với toàn thể
cộng đồng. Những mâu thuẫn cơ bản này có tính phổ biến, thường xuyên vì nó động
chạm đến tất cả mọi người không trừ một ai, vì khi tham gia vào kinh doanh, từ doanh
nhân đến người lao động, người tiêu dùng đều có va chạm với nhau về kinh tế. Hơn nữa
những mâu thuẫn đó còn mang tính căn bản, vì là mâu thuẫn sinh tồn liên quan đến sự
sống chết của con người.

Do tính chất của mâu thuẫn như trên việc hoà giải các mâu thuẫn này phải do nhà
nước chứ không ai khác, và phải giải quyết triệt để, nếu không sẽ có tác dụng ngược lại,
chỉ có nhà nước mới làm được điều đó vì nhà nước có sức mạnh, có những quyền lực
đặc biệt, được tạo ra bởi thể chế đặc biệt. Nhà nước cộng hòa dân chủ là sức mạnh của
toàn dân, có những quyền mà nhân dân trao cho, chỉ có nhà nước can thiệp vào giải quyết
mâu thuẫn thì trật tự kinh tế mới cơ bản được thiết lập.

+ Tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế:

Hoạt động kinh tế cần nhiều điều kiện chủ quan, đó chính là phải có ý chí làm
giàu, muốn làm giàu phải có ý chí, tuy nhiên hoạt động làm giàu còn tùy thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có sự tin tưởng vào chế độ kinh tế, chính trị, vào tính đúng đắn của sự lựa


- 9 -
chọn đầu tư, lựa chọn giải pháp , những điều này phụ thuộc rất lớn vào nhà nước, vào chế
độ xã hội.

Phải có tri thức làm giàu, người làm kinh doanh cần phải có 2 nhóm tri thức cơ
bản, đó là tri thức về sản xuất kinh doanh và thông tin toàn diện trong và ngoài nước có
liên quan đến việc làm kinh tế. Tri thức về sản xuất kinh doanh bao gồm những kiến thức
khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất có thể học được từ trường lớp, sách vở và thực tiễn.
Còn nhóm thứ 2 bao gồm nhiều thông tin như kinh tế kỹ thuật, chính trị, quân sự trong và
ngoài nước, giá cả, quy hoạch , chỉ có nhà nước mới có. Do đó, nếu không có nhà nước
chắc chắn các nhà doanh nghiệp không đủ tầm nhìn thấy tương lai.

Phải có phương tiện sản xuất kinh doanh, trước tiên là vốn, nhà doanh nghiệp có
thể huy động vốn từ nhiều nguồn, có khi không nhất thiết phải vay vốn của nhà nước
nhưng doanh nhân vẫn cần vay vốn của nhà nước do không tin tưởng các nguồn khác.
Ngoài nguồn vốn ra, phải cần có hệ thống kết cấu hạ tầng trong đó sát với người làm
kinh tế thị trường, nhất là hệ thống chợ, điều này chỉ có nhà nước mới tạo ra được, chỉ có
nhà nước quản lý chợ mới có thể làm cho mọi người yên tâm khi tham gia thị trường. Hoạt
động của chợ rất phức tạp, khó bảo vệ, bất an nhất nên các loại chợ đều cần có sự bảo hộ
của nhà nước.

Phải có môi trường kinh doanh, đó là môi trường bè bạn và môi trường an toàn cho
sản xuất kinh doanh. Trong kinh doanh cần phải có đối tác, để tìm được đối tác như ý ở
trong hay ngoài nước, tự thân nhà doanh nghiệp không dể tìm, do vậy nhà nước là 1 chỗ
dựa quan trọng cho các nhà doanh nghiệp.

Môi trường an toàn là an toàn cho tính mạng và tài sản của doanh nhân, chỉ có nhà
nước mới là người bảo vệ tốt nhất. Hơn nữa môi trường an toàn là môi trường không có
chiến tranh, không có tội phạm hình sự, ngăn ngừa được thiên tai hay dự báo để phòng
tránh thiên tai. Sự an toàn này trừ nhà nước không ai tạo ra được cho doanh nhân.


+ Sự có mặt của kinh tế nhà nước trong kinh tế quốc dân, đây là lý do trực tiếp
nhất khiến nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế quốc dân.

Kinh tế nhà nước bao gồm tài nguyên quốc gia, dự trữ quốc gia về tiền, vàng bạc, đá
quý và vật tư, kết cấu hạ tầng, toàn bộ vốn nằm trong các doanh nghiệp. Nhà nước cần có
kinh tế riêng của mình để thực hiện kích thích hay cưỡng chế kinh tế, nhà nước cần có
lực lượng kinh tế làm công cụ quản lý xã hội khi các công cụ khác tỏ ra bất cập trong 1
số trường hợp nhất định. Nhà nước cần có lực lượng kinh tế riêng, cụ thể là các doanh
nghiệp nhà nước để sản xuất và cung ứng những hàng hóa, dịch vụ mà khu vực tư
nhân không làm được. Hơn nữa nhà nước cần có thực lực kinh tế để thực hiện chính
sách xã hội.

Kinh tế nhà nước là những vật cụ thể phải cần có con người cụ thể đứng ra quản lý,
vì nhà nước là 1 phạm trù trừu tượng. Mà khi giao cho những nhóm người cụ thể quản lý
sẽ dẫn đến 2 nguy cơ là: công sản có thể bị lợi dụng để mưu lợi tư, bị tham ô lãng phí,
người được nhà nước ủy thác quản lý có thể không đủ khả năng làm cho đơn vị của mình
thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra cho kinh tế nhà nước.
Xuất phát từ những lý do đó mà nhà nước phải quản lý đối với kinh tế.

II. Chứng minh vai trò của nhà nước ngày càng quan trọng trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.

Hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình khách
quan, hợp quy luật và là một nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới ở nước ta. Đây là
một quá trình khó khăn và phức tạp vì phải đổi mới cả cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý,
tổ chức bộ máy quản lý và con người, đổi mới tư duy, phong cách, và lối sống cũ đã
ăn sâu vào từng con người. Do đó, đổi mới thành công hay không lại phụ thuộc vào sự


- 10 -
lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Như vậy, trong quá trình chuyển đổi sang
cơ chế thị trường cũng như khi cơ chế thị trường đã được xây dựng đồng bộ, vai trò quản
lý kinh tế của nhà nước không hề suy giảm mà còn tăng lên. Điều đó, không có nghĩa là
nhà nước nắm tất cả, can thiệp vào tất cả mọi hoạt động kinh tế của toàn xã hội, mà trái lại
nhà nước chỉ nắm những lĩnh vực, những khâu then chốt, thực hiện những công việc quan
trọng nhất mà thị trường và nhân dân không làm được, biết sử dụng cơ chế thị trường một
cách khôn khéo để phục vụ cho mục tiêu quản lý của mình, biết phát huy những mặt tích
cực của cơ chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế đó, phát huy động lực của sự
phát triển kinh tế, xử lý những bất trắc và tình huống mới nảy sinh, đảm bảo cho cơ chế thị
trường ra đời đồng bộ và vận hành thông suốt, thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, vai trò
của nhà nước trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường hết sức quan trọng và nặng nề,
vừa phải tiến hành đổi mới, cách thức điều hành từ chỗ trước đây vốn quen với cơ chế cũ
sang cách thức điều hành, quản lý theo cơ chế mới, nguyên tắc mới nhằm thiết lập mối
quan hệ hợp lý giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp, vừa phải liên tục hoàn thiện
phương pháp, công cụ và kỹ thuật điều hành trong điều kiện vừa chuyển đổi, vừa hội nhập,
vừa phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước phải thực
hiện vai trò là người đại diện cho nhân dân để quản lý nền kinh tế vì lợi ích của đất nước
và nhân dân nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

Câu 5: Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, những hạn chế trong công tác
quản lý kinh tế của nhà nước, của các cơ quan quản lý kinh tế của nhà nước.

I. Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước.

1. Chức năng bảo vệ lợi ích giai cấp.

Để bảo vệ lợi ích giai cấp trong quản lý nhà nước về kinh tế, nhà nước trước hết
phải thiết lập và bảo vệ chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý tối ưu, xây

dựng và bảo vệ chế độ phân phối, hưởng thụ có ưu thế cho giai cấp mà nhà nước là
đại biểu.

2. Chức năng điều chỉnh các hành vi sản xuất kinh doanh:
Để điều chỉnh các hành vi sản xuất kinh doanh, trước hết phải điều chỉnh các quan
hệ lao động sản xuất, đồng thời điều chỉnh các hành vi phân chia lợi ích.

+ Quan hệ lao động sản xuất: Trong xã hội, thuộc tầm điều chỉnh của Nhà nước có
rất nhiều quan hệ, đó là quan hệ quốc gia với quốc tế, quan hệ phân công và hợp tác
nội bộ nền kinh tế quốc dân, quan hệ phân công hợp tác theo lãnh thổ nội bộ quốc
gia. Để điều chỉnh các quan hệ này, nhà nước phải định hướng phát triển chung cho toàn
xã hội thông qua công tác xây dựng đường lối, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội, qui định thiết kế chất lượng sản phẩm và dịch vụ, định hướng cụ thể
cho các doanh nhân trong việc phát triển sự nghiệp sản xuất kinh doanh của họ. Mục tiêu
điều chỉnh của nhà nước là hiệu quả tối đa. Trong chức năng này nhà nước xuất phát từ lợi
ích của tất cả mọi doanh nhân, của toàn xã hội.

+ Điều chỉnh các hành vi phân chia lợi ích.

Trong lĩnh vực kinh tế có các quan hệ lợi ích, đó là: quan hệ trao đổi hàng hóa. Nhà
nước điều chỉnh quan hệ này nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan
hệ; quan hệ phân chia lợi ích trong các công ty; quan hệ tiền công, tiền lương, nhà nước
điều chỉnh quan hệ này nhằm giữ cho quan hệ được thực hiện công bằng, văn minh, hợp
lý, hợp tình, bảo vệ quyền lợi chính trị của Đảng cầm quyền; quan hệ đối với công
quỹ quốc gia.

Để thực hiện chức năng điều chỉnh các hành vi phân chia lợi ích, Nhà nước cần phải
xây dựng thể chế kinh doanh, trao đổi hàng hoá để can thiệp vào các quan hệ trao đổi hàng
hoá của doanh nhân, xây dựng chế độ tiền công, tiền lương, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã


- 11 -
hội để can thiệp vào các quan hệ thù lao cho người lao động, xây dựng chế độ đóng góp
của công dân vào công quỹ quốc gia như các thể chế về thuế, phí, lệ phí và các loại đóng
góp có tính chất nghĩa vụ khác.

3. Hỗ trợ doanh nhân lập thân, lập nghiệp trên lĩnh vực kinh tế:

Nhà nước là nhân tố không thể thiếu được đối với mọi công dân làm kinh tế, nhà
nước thực hiện chức năng này có ý nghĩa lớn cho sự củng cố nhà nước, tạo nên sự tin
tưởng và biết ơn nhà nước trong lòng dân.

Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nhân trên các mặt như hỗ trợ công dân ý chí làm giàu;
hỗ trợ về tri thức cho công dân lập thân, lập nghiệp về kinh tế; hỗ trợ về phương tiện sản
xuất kinh doanh và hỗ trợ doanh nhân về môi trường kinh doanh.

Để hỗ trợ công dân về những mặt trên, Nhà nước phải tiến hành các hoạt động quản
lý sau:

- Tuyên truyền giới thiệu giúp cho công dân biết được thế nào là cuộc sống giàu có,
đầy đủ, sung sướng để từ đó gây dựng và nuôi chí làm giàu trong nhân dân.

- Xây dựng và ban hành đường lối chính trị, hệ thống pháp luật có tính khoa học và
thực tiễn cao, đủ mức để công dân có cơ sở tin tưởng vào sự ổn định chế độ chính trị, pháp
luật, xã hội, ở thái độ trước sau như một của nhà nước và cộng đồng đối với người biết làm
giàu.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân học tập để có đủ tri thức dựng nghiệp.

- Định hướng cho mọi hoạt động của doanh nhân.


- Cung cấp cho giới doanh nhân các thông tin kinh tế, khoa học và công nghệ, chính
trị, quân sự trong nước và quốc tế có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Mở ra các trung tâm hội tụ doanh nhân, các địa bàn xúc tác kinh tế.

- Đầu tư xây dựng hoặc chủ trì việc xây dựng kết cấu hạ tầng cho kinh tế phát triển,
xây dựng lực lượng nòng cốt kinh tế.

- Nhà nước bảo vệ tài sản và tính mạng cho doanh nhân, phòng chống tội phạm hình
sự, tiến hành các biện pháp phòng chống thiên tai, hạn chế tối đa các rủi ro, tai họa tự
nhiên đối với doanh nhân.

4. Bổ sung cho thị trường những hàng hoá, dịch vụ khi cần thiết bằng các
phương thức thích hợp. Thực chất của chức năng này nhằm bổ sung cho tính hoàn hảo
của kinh tế thị trường. Trong quan hệ hoàn hảo về cung-cầu của kinh tế thị trường mọi
nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ của xã hội đều được khu vực tư nhân đáp ứng, từ đó tạo ra lổ
hổng về cung, bức xúc về cầu, làm nảy sinh ra vấn đề bổ sung. Như vậy bổ sung này là
dùng 1 lực lượng ngoài hệ thống để tăng cường nội bộ khi nội bộ thiếu sót, chỉ có nhà nước
là lực lượng tăng cường hữu hiệu và không thể thay thế.

Nhà nước xây dựng các doanh nghiệp nhà nước để trực tiếp cung ứng hàng hóa và
dịch vụ cho cộng động bằng phương thức trực tiếp, nhà nước sử dụng phương thức gián
tiếp với việc đóng vai trò đại diện tiêu dùng thay mặt toàn xã hội để mua 1 số hàng hóa và
dịch vụ của khu vực tư trong và ngoài nước. Mỗi hình thức đều có ưu, nhược điểm riêng,
thích ứng với từng lúc, từng nơi, từng loại hàng hóa, dịch vụ (khi nền kinh tế ở giai đoạn
khởi phát, khả năng quản lý của nền hành chính quốc gia còn hạn chế- hình thức trực tiếp
được trọng dụng; khi năng lực kinh tế của khu vực phát triển lên, khả năng quản lý xã hội
của nhà nước vững vàng hơn - phương thức gián tiếp sẽ chiếm ưu thế).

5.Bảo vệ công sản và khai thác công sản như 1 công cụ quản lý:


Công sản là tài sản công, nhà nước là người quản lý và sử dụng, tuy nhiên nhà nước
không trực tiếp mà giao ủy quyền trực tiếp quản lý và sử dụng. Nhà nước thực hiện chức
năng này nhằm bảo vệ công sản đồng thời khai thác nguồn tài sản công.


- 12 -
Khi giao quyền về quản lý trực tiếp và sử dụng chính người được giao quyền này có
thể tham ô, lãng phí đồng thời có các nguy cơ tổn thất tự nhiên. Do vậy công sản cần được
bảo vệ. Bên cạnh đó, nhà nước phải là người sử dụng công sản với tính chất như là 1 công
cụ quản lý, phải làm cho kinh tế nhà nước thực sự là vũ khí lợi hại của nhà nước trong
quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng, quản lý xã hội nói chung.
II. Những hạn chế trong công tác quản lý kinh tế của nhà nước, của các cơ quan
quản lý kinh tế của nhà nước.

Từ khi đổi mới đến nay, với chức năng của mình, nhà nước đã kịp thời ban hành và
từng bước đưa vào cuộc sống một hệ thống luật pháp khá đầy đủ theo hướng đổi mới, tạo
khuôn khổ pháp lý cơ bản cho nền kinh tế vận hành và phát triển với tốc độ cao trong một
thời gian dài. Huy động được nguồn lực tài chính khá lớn để chủ động đầu tư phát triển các
lĩnh vực kết cấu hạ tầng cơ bản; chuyển đổi cách thức định hướng, hướng dẫn từ kiểu trực
tiếp trước đây sang kiểu gián tiếp: Nhà nước chủ yếu quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường sử
dụng các chính sách kinh tế như tài chính, tiền tệ. Thực hiẹn tốt việc điều tiết, đảm bảo các
tiêu chí công bằng xã hội trong điều kiện, trình độ phát triển kinh tế còn thấp. Bước đầu
làm quen và từng bước đổi mới phương pháp kiểm tra, kiểm soát phù hợp với điều kiện thị
trường.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình đổi mới, quản lý nhà
nước về kinh tế còn nhiều mặt hạn chế và yếu kém:

+ Thứ nhất, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa

phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường.

+ Thứ hai, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực
hiện chưa nghiêm.

+ Thứ ba,, quản lý các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, thương
mại, phân phối thu nhập, xây dựng cơ bản, đất đai, vốn, tài sản nhà nước chưa tốt và chậm
đổi mới.

+ Thứ tư, tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, quan hệ phân công và hiệp tác
chưa rõ ràng, còn nhiều vướng mắc, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phân tán
cục bộ còn nghiêm trọng; cán bộ và công chức nhà nước còn nhiều hạn chế cả về trình độ,
năng lực và phẩm chất, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.

+ Thứ năm, cải cách hành chính tiến hành chậm, hiệu quả thấp.

Câu 6: Nguyên tắc quản lý của nhà nước về kinh tế. Nguyên tắc kết hợp quản lý
theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Nêu ví dụ để minh hoạ.

I. Nguyên tắc quản lý của nhà nước về kinh tế: Có 5 nguyên tắc:

+ Tập trung dân chủ.

+ Kết hợp quản lý nhà nước về kinh tế theo ngành và lãnh thổ.

+ Phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản trị kinh doanh.

+ Bảo vệ quyền lợi và quyền làm chủ cho người lao động.

+ Tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về kinh tế.


II. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ:

1. Quản lý nhà nước theo ngành:
Ngành là 1 tập hợp các đơn vị kinh tế có 1 số điểm chung về đầu vào, đầu ra hay cơ
sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ.
Nhà nước phải quản lý theo ngành bởi vì các đơn vị cùng ngành thường có các vấn
đề kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, lao động, nguyên liệu, tiêu thụ giống nhau cần được giải
quyết 1 cách thống nhất trên cơ sở hợp tác với nhau hoặc so 1 trung tâm quản lý nhất định.

Quản lý nhà nước theo ngành bao gồm các hoạt động sau:


- 13 -
+ Định hướng đầu tư xây dựng XD lực lượng của ngành, chống sự mất cân đối trong
cơ cấu ngành và vị trí ngành trong cơ cấu chung của nền kinh tế quốc dân.

+ Thực hiện các chính sách, các biện pháp phát triển thị trường chung cho toàn
ngành, bảo hộ sản xuất ngành nội địa.

+ Thống nhất hoá, tiêu chuẩn hoá quy cách, chất lượng hàng hoá và dịch vụ, hình
thành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm để cơ quan có thẩm quyền ban
bố.

+ Thực hiện các chính sách quốc gia trong phát triển nguồn nhân lực, nhiên liệu, trí
tuệ khoa học và công nghệ chung cho toàn ngành.

+ Tham gia xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, pháp qui, thể chế kinh tế theo
chuyên môn của mình để cùng các cơ quan chức năng chuyên môn khác hình thành hệ
thống văn bản pháp luật quản lý ngành.


2. Quản lý nhà nước theo lãnh thổ.

a. Trong quản lý nhà nước theo lãnh thổ thì lãnh thổ kinh tế được hiểu như sau:
+ Lãnh thổ kinh tế là lãnh thổ chứa đựng 1 nhóm các đơn vị kinh tế có quan hệ với
nhau về 1 hay một số mặt nào đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.

+ Lãnh thổ kinh tế có nhiều cấp, do các đơn vị kinh tế có nhiều mối quan hệ mà mỗi
loại quan hệ lại có tầm quan hệ riêng, rộng hẹp khác nhau. Không có đơn vị công nghiệp
nào của riêng 1 cấp, do riêng 1 cấp quản lý. Mọi đơn vị kinh tế đều bị mọi cấp đồng thời
quản lý nhưng chỉ về 1 vài mặt nhất định nào đó mà thôi.

+ Lãnh thổ kinh tế đồng nhất với lãnh thổ hành chính, tuy trên thực tế không thể
trùng khớp được. Lãnh thổ hành chính lấy dân cư làm chuẩn phân định, có kết hợp với địa
hình, địa vật, hệ thống kinh tế, nhưng lãnh thổ kinh tế có căn cứ khách quan riêng của nó.
Tuy vậy 2 lãnh thổ này không thể tách rời nhau, hơn nữa lãnh thổ kinh tế phải phục vụ
lãnh thổ hành chính xuất phát từ con người là trung tâm.

+ Quản lý nhà nước về kinh tế theo lãnh thổ đồng thời là quản lý nhà nước theo địa
bàn hành chính, đơn vị hành chính lãnh thổ.

b. Các đơn vị kinh tế phải được nhà nước quản lý theo lãnh thổ vì:

+ Trước hết, chúng cần thống nhất hành động khi cùng phục vụ cộng đồng dân cư
theo lãnh thổ sao cho tổng cung và cơ cấu cung phù hợp với tổng cầu và cơ cấu cầu trên
mỗi địa bàn, lãnh thổ. Thông thường, các đơn vị kinh tế đều có 1 địa bàn tiêu thụ sản phẩm
của mình, có 1 cộng động dân cư là khách hàng. Và ngược lại, mỗi cộng đồng dân cư theo
lãnh thổ thường có 1 số đơn vị kinh tế nhằm vào mình để phục vụ. Ngoài các đơn vị kinh
tế còn có các đơn vị giáo dục, y tế, văn hóa Sự cung ứng của các loại hàng hóa, dịch vụ
của các đơn vị kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế trên địa bàn phải cân đối với nhau. Sự cân

đối này tùy thuộc vào phong tục tập quán và quỹ thu nhập, quỹ tiêu dùng, sức mua và khả
năng thanh toán của cộng đồng dân cư. Người liên kết hành động của các đơn vị liên ngành
trên địa bàn không là ai khác chính quyền lãnh thổ.
+ Hai là, các đơn vị kinh tế cần thống nhất hành động trong việc xây dựng kết cấu hạ
tầng cho kinh tế và dân sự của bản thân sao cho mỗi đơn vị được đảm bảo tốt nhất về hậu
cần nhưng không cản trở đơn vị khác. Đơn vị kinh tế nào cũng cần kết cấu hạ tầng như cấp
thoát nước, giao thông, liên lạc, cần địa thế thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh,
giao dịch của mình nhưng không 1 đơn vị kinh tế nào có thể tự túc được các nhu cầu trên
của bản thân mà không cản trở đơn vị bạn, cản trở dân cư. Do vậy, cần phải có 1 chủ thể
quản lý theo địa bàn để tổ chức việc giải quyết các vấn đề trên 1 cách tối ưu.
c. Nội dung quản lý nhà nước theo lãnh thổ:

+ Quản lý nhà nước của cơ quan quản lý ngành trên lãnh thổ, đây thực chất là sự
quản lý của cơ quan quản lý ngành được thực hiện bằng các cơ quan chuyên môn đặt theo
lãnh thổ.


- 14 -
+ Quản lý nhà nước của chính quyền lãnh thổ với những nội dung sau:

- Định hướng đầu ra cho các đơn vị kinh tế sao cho cân đối hài hoà về lượng, chất,
thời gian trong sự tương đồng với nhau và với nhu cầu cũng như khả năng tiếp nhận của
người tiêu dùng trên lãnh thổ, xét theo khả năng thu nhập cũng như thị hiếu, vị hiếu của
dân cư trên lãnh thổ.

- Tổ chức trực tiếp hay gián tiếp việc xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc tầm lãnh thổ đó
để đảm bảo chung cho tập đoàn kinh tế liên ngành đóng trên lãnh thổ.

3. Kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ:


a. Phải kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ bởi những lý do sau:

+ Thứ nhất, có thể có sự chồng chéo giữa 2 chiều quản lý, gây trùng lập hay bỏ sót
trong quản lý nhà nước của tuyến.

+ Thứ hai, mỗi chiều quản lý có thể không thấu suốt được tình hình của chiều kia, từ
đó có thể có những quyết định quản lý phiến diện, kém chuẩn xác.
+ Thứ ba, mọi sự phân công quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đều chỉ có thể đạt
được sự hợp lý tương đối vì vẫn có khả năng bỏ sót hoặc chồng chéo. Nếu tách bạch quá
có thể làm cho những chỗ bỏ sót, chồng chéo chậm được phát hiện và xử lý, dẫn đến hậu
quả sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.

b. Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ được thực hiện
như sau:
+ Thực hiện quản lý đồng thời theo cả 2 chiều: Theo ngành và theo lãnh thổ.
+ Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và theo
lãnh thổ không trùng, không sót.

+ Các cơ quan quản lý nhà nước mỗi chiều thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quản, hiệp quản, tham quản với cơ quan thuộc
chiều kia theo qui định cụ thể của nhà nước.

* Ví dụ minh hoạ:

Câu 7: Nêu khái niệm quản lý theo ngành.

Câu 8: Các phương pháp quản lý kinh tế. Trình bày phương pháp kích thích
kinh tế trong quản lý. Cho ví dụ minh hoạ.

I. Các phương pháp quản lý kinh tế:


Phương pháp quản lý kinh tế là tổng thể các cách thức và biện pháp quản lý có mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hoạt động quản lý kinh tế nhà nước có thể và cần phải
thực hiện đồng thời 3 phương pháp chủ yếu, đó là:

+ Phương pháp cưỡng chế.
+ Phương pháp kích thích kinh tế.
+ Phương pháp thuyết phục, giáo dục.

II. Phương pháp kích thích kinh tế.

1. Phương pháp kinh tế là cách tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích
kinh tế để cho đối tượng quản lý lựa chọn phương án hoạt động sản xuát kinh doanh có
hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ.

2. Đặc điểm của phương pháp kinh tế là tác động, điều chỉnh hành vi của chủ thể
kinh tế không phải bằng cưỡng chế, mệnh lệnh hành chính mà bằng lợi ích. Có nghĩa là
dùng cái lợi (lợi nhuận) mà các doanh nghiệp, doanh nhân ham muốn làm động lực để
hướng hành vi của họ đi theo mục đích mong muốn của nhà nước.

3. Nhà nước sử dụng các công cụ kích thích kinh tế:

+ Các công cụ của chính sách tài chính: Thuế và chi tiêu Chính phủ.
+ Các công cụ của chính sách tiền tệ: Kiểm soát mức cung tiền và lãi xuất.

- 15 -
+ Các công cụ của chính sách thu nhập: Giá cả và tiền lương.
+ Các công cụ của chính sách thương mại: Thuế nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu, tỷ giá
hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế.


4. Vai trò của phương pháp kinh tế:

+ Thông qua việc vận dụng phương pháp kinh tế nhà nước tạo ra áp lực kinh tế và
kích thích kinh tế cần thiết đối với các chủ thể nhằm động viên tính tích cực của họ để đạt
được mục tiêu nhà nước đề ra.

+ áp dụng phương pháp kinh tế cũng có nghĩa nhà nước tác động 1 cách gián tiếp vào
nền kinh tế làm nó vận động theo các qui luật khách quan và hướng tới mục tiêu mong
muốn.
+ Trong nền kinh tế thị trường thì phương pháp kinh tế phải chiếm vai trò chủ đạo
trong việc vận dụng các phương pháp trong quản lý nhà nước về kinh tế.
5. Phương pháp kinh tế được sử dụng trong những trường hợp sau:

+ Có khả năng tạo ra sự đồng chiều về lợi ích của đối tượng quản lý và của nhà nước,
tức là khi nhà nước đưa ra các tình huống, các nhiệm vụ và các điều kiện vật chất để kích
thích phải làm sao đảm bảo được là nếu các doanh nghiệp, doanh nhân thực hiện những
nhiệm vụ đó thì vừa đem lại mục tiêu của nhà nước, đồng thời chính họ cũng phải có lợi.
Nếu chỉ đem lại lợi ích cho nhà nước còn bản thân họ chẳng được gì hoặc được quá ít thì
không bao giờ kích thích được Họ.

+ Khi nhiệm vụ của nhà nước đưa ra có thể lựa chọn được. Điều này có nghĩa là với
mong muốn của nhà nước đặt ra, nếu các doanh nghiệp thực hiện được thì rất tốt nhưng
nếu chưa thực hiện được ngay thì cũng chưa ảnh hưởng đến lợi ích của đất nước. Còn
trong trường hợp nếu việc thực hiện đòi hỏi bức xúc, nếu không sẽ ảnh hưởng đến lợi íhc
của đất nước thì nhà nước không thể dùng biện pháp kích thích kinh tế mà phải dùng biện
pháp hành chính để bắt buộc đối tượng quản lý thực hiện.

6. Những yêu cầu khi thực hiện phương pháp kinh tế:

+ Phải hoàn thiện các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng

hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường.

+ Phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý theo hướng mở rộng
quyền hạn cho cấp dưới.

+ Đòi hỏi cán bộ quản lý phải có 1 trình độ và năng lực về nhiều mặt.

* Ví dụ minh hoạ:

Câu 9: Hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Có thể sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các
công cụ đó như thế nào? Ví dụ thực tế để phân tích cơ chế tác động của 1 công cụ vào
hoạt động của nền kinh tế mà anh (chị) nắm vững.

I. Hệ thống công cụ quản lý kinh tế:

1. Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng
để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.

2. Công cụ quản lý của nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà nhà
nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế của nhà nước nhằm đạt được các
mục tiêu đã xác định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác
động quản lý của nhà nước mà nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các
chủ thể, các thành viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế.

3. Hệ thống công cụ quản lý kinh tế của nhà nước bao gồm các nhóm:

a. Công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu của quản lý:
+ Đường lối
+ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
+ Kế hoạch.


- 16 -
+ Tiêu chuẩn, chất lượng, qui cách sản phẩm.
+ Chương trình, dự án.

b. Công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự, hành vi trong các quan hệ kinh tế khi thực hiện
các mục tiêu nói trên bao gồm: Hiến pháp; các đạo luật, các nghị quyết của Quốc hội; nghị
quyết, nghị định của Chính phủ và quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết
định, thông tư, chỉ thị của các Bộ và cơ quan thuộc Bộ.

c. Công cụ thể hiện các tư tưởng, quan điểm của nhà nước trong việc điều chỉnh các
hoạt động của nền kinh tế trong 1 thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã dề ra:
Chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách ngoại thưong
(thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá ).

d. Các công cụ vật chất thuần tuý bao gồm:

+ Đất đai, rừng núi, sông hồ, các ngồn nước.
+ Tài nguyên trong lòng đất.
+ Các nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa.
+ Hệ thống Ngân hàng Trung ương.
+ Kho bạc Nhà nước.
+ Hệ thống dự trữ, bảo hiểm quốc gia.
+ Doanh nghiệp nhà nước và vốn và tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp.

e. Công cụ để sử dụng các công cụ nói trên:

+ Bộ máy quản lý nhà nước.
+ Cán bộ, công chức nhà nước.
+ Các công sở.


II. Sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các công cụ đó như thế nào?

III. Ví dụ thực tế để phân tích cơ chế tác động của 1 công cụ vào hoạt động của nền
kinh tế mà anh (chị) nắm vững.

Câu 10: Trình bày các công cụ chủ yếu của chính sách tài chính. Cho ví dụ
minh hoạ của 1 công cụ của chính sách này.

Trình bày các công cụ chủ yếu của chính sách tài chính:

1. Theo cách hiểu chung nhất chính sách tài chính là hệ thống các quan điểm, nguyên
tắc xử lý của nhà nước đối với các quan hệ tài chính quốc gia thông qua việc sử dụng các
công cụ tài chính, cụ thể là thuế và chi tiêu ngân sách. Trong kinh tế vĩ mô chính sách tài
chính là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu công cộng để điều tiết mức chi tiêu
chung của nền kinh tế, đưa nền kinh tế về mức sản lượng tiềm năng.

Về nguyên tắc, Chính phủ sử dụng chính sách tài chính nhằm duy trì tổng cung của
toàn xã hội luôn tương ứng hoặc xấp xỉ sản lượng tiềm năng của nên kinh tế, thông qua đó
có thể loại bỏ được hiện tượng suy thoái hoặc tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế, đảm
bảo sự phát triển ổn định, cân bằng, bền vững.

Giả sử nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, các nhà doanh
nghiệp tư nhân không muốn đầu tư thêm, người tiêu dùng không muốn chi tiêu thêm cho
tiêu dùng. Lúc này để mở rộng tổng cầu, Chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế,
nâng cao mức chi tiêu chung của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong trạng
thái phát đạt quá mức, lạm phát tăng lên, Chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế, nhờ
đó mức chi tiêu chung giảm đi, sản lượng giảm theo và lạm phát sẽ chững lại.

Như vậy, mục tiêu của chính sách tài chính là nhằm đảm bảo tăng trưởng ổn định.

Trên thực tế bằng chính sách tài chính không chỉ thúc đẩy tăng trưởng mà còn chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực công nghiệp cạnh tranh, duy trì ổn định nền kinh tế bước
vào hội nhập kinh tế quốc tế.


- 17 -
2. Hai công cụ chủ yếu của chính sách tài chính là thuế và chi tiêu của Chính
phủ:

a. Chi tiêu của Chính phủ là từ ngân sách. Chi tiêu của Chính phủ là quỹ tiền tệ quốc
gia, dùng để chi tiêu cho toàn bộ hoạt động chung hàng năm, do Chính phủ quản lý và sử
dụng theo Luật ngân sách nhà nước và kế hoạch phê chuẩn. Chỉ trên cơ sở luật định, Chính
phủ mới được chi tiêu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luật định về các khoản chi, hạn mức
chi tính theo tỷ lệ trong tổng số, Chính phủ còn có 1 khoản tự do nhất định trong điều hành
ngân sách, cụ thể là trong chi tiêu ngân sách nhà nước, ở góc độ này Chính phủ cần và có
thể phát huy tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân.

Khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp cao, tổng cầu ở mức thấp nhất, chi tiêu
của Chính phủ có tác dụng làm cho cầu tiêu dùng của Chính phủ tăng lên, dẫn đến sự gia
tăng tổng chi tiêu của xã hội, tổng cầu tăng làm cho cung lại có cầu thúc đẩy, kinh tế sẽ ra
khỏi suy thoái. Đặc biệt, riêng việc tăng cầu đầu tư sẽ ảnh hưởng tới tổng cầu theo mô hình
số nhân, nhờ đó mà đẩy mức tăng sản lượng đến gần sản lượng tiềm năng.

Khi nền kinh tế ở trạng thái nóng, việc giảm chi tiêu của Chính phủ sẽ có tác dụng
giảm mức chi tiêu chung của toàn xã hội, giảm tổng cầu.

b. Thuế:

Thuế là 1 khoản thu của nhà nước đối với các tổ chức và mọi thành viên trong xã hội,
khoản thu đó mang tính bắt buộc, không hoàn trả trực tiếp được pháp luật qui định.


Sự xuất hiện nhà nước đòi hỏi cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện cho nhà nước tồn
tại và thực hiện chức năng của mình. Nhà nước dùng quyền lực chính trị để ban hành
những quyết định pháp luật cần thiết làm công cụ phân phối lại 1 phần của cải của xã hội
và hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã
hội và cơ sở chủ yếu tạo khả năng và nguồn thu để thuế tồn tại, phát triển. Như vậy, thuế là
phạm trù lịch sử và là 1 tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của
nhà nước. Thuế phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của
nhà nước. Thuế được nhà nước sử dụng như 1 công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động
nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần điều chỉnh kinh tế và điều hoà thu nhập.

Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.

+ Thuế góp phần điều chỉnh nền kinh tế.
+ Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã
hội.

Khi nền kinh tế ở trạng thái suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp cao, tổng cầu giảm, các doanh
nghiệp giảm đầu tư, dân cư giảm tiêu dùng, Nhà nước giảm thuế cho dân, nhờ đó làm tăng
thu nhập khả dụng, doanh nhân lại tăng đầu tư, dân cư lại tăng tiêu dùng, tổng cầu lại tăng
thúc đẩy cung, kinh tế sẽ ra khỏi suy thoái.

Khi nền kinh tế ở trạng thái nóng, cầu tăng hơn cung, Nhà nước có thể tăng thuế để
hạn chế mức tiêu dùng của toàn xã hội. Khi đó giá cả sẽ hạ, cung sẽ giảm, nền kinh tế trở
lại mức tăng trưởng ổn định.

Câu 11: Trình bày các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ.

1. Chính sách tiền tệ là hệ thống quan điểm, nguyên tắc do nhà nước đề ra để chỉ đạo
việc xây dựng các giải pháp tiền tệ nhằm ổn định nền kinh tế quốc dân. Theo lý thuyết

Keynes, điều tiết khối lượng tiền tệ là 1 trong những công cụ cơ bản để điều tiết nền kinh
tế. Khối lượng tiền tệ ảnh hưởng đến ổn định giá cả và lãi suất, đến lượt nó lãi suất là giá
cả của tiền vay. Việc tăng hay giảm cung về tiền đều do Ngân hàng Trung ương quyết
định. Trường hợp cung về tiền tăng lên, thì lãi suất giảm; lãi suất giảm xuống sẽ làm gia
tăng các khoản chi đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu tăng lên, qua đó tổng cầu tăng lên sẽ làm
gia tăng sản lượng và việc làm. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển quá nóng, cung về tiền

- 18 -
giảm đi, lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, từ đó làm giảm chi tiêu của nền kinh tế,
tổng cầu giảm, nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng phát triển quá nóng.

Ngân hàng Trung ương có thể thực hiện điều tiết cung về tiền tệ thông qua 3 công cụ
chủ yếu: lãi suất chiếc khấu, dự trữ bắt buộc và thị trường mở.

+ Lãi suất chiếc khấu là công cụ quan trọng để Ngân hàng nhà nước tính lãi đối với
các khoản cho Ngân hàng thương mại vay, nhằm khống chế chất lượng và số lượng tín
dụng của Ngân hàng thương mại. Tuỳ theo nhu cầu hạn chế hay khuyến khích mà lãi suất
chiếc khấu cao hay thấp hơn lãi suất ngân hàng đó cho khách vay.

+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ số giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá
trên tổng số tiền gửi mà Ngân hàng nhà nước qui định nhằm điều chỉnh khả năng thanh
toán và cho vay của Ngân hàng thương mại. Thông qua việc điều chỉnh trực tiếp tỷ lệ dự
trữ bắt buộc Ngân hàng nhà nước tác động cả vào khối lượng và giá cả tín dụng của Ngân
hàng thương mại.

+ Thị trường mở là thị trường tiền tệ của Ngân hàng nhà nước là 1 kênh quan trọng
để Ngân hàng nhà nước có thể can thiệp được vào hoạt động của thị trường tiền tệ. Cụ thể
như sau: muốn ngăn chặn lạm phát, thu hút bớt lượng tiền tệ dư thừa trong lưu thông, Ngân
hàng nhà nước bán các loại chứng chỉ có giá của Chính phủ ra thị trường. Trong trường
hợp này, Ngân hàng nhà nước không chỉ giảm bớt khối lượng tiền ngoài lưu thông mà còn

thu hẹp được khối lượng tín dụng. Ngược lại, cần bơm tiền vào lưu thông cho phù hợp với
mức tăng trưởng của nền kinh tế, hay bù lượng tiền thiếu hụt do lạm phát giá khi chưa
ngăn chặn được, Ngân hàng nhà nước mua lại các chứng chỉ có giá của Chính phủ. Nhờ
vậy, 1 khối lượng tiền được phát hành vào lưu thông để mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư,
giảm bớt thất nghiệp.

Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tăng trưởng sản lượng về mặt ngắn
hạn, song do tác động đến đầu tư nên nó cũng có ảnh hưởng đến sản lượng tiềm năng về
mặt dài hạn.

Ví dụ: Lãi suất.

Lãi suất là số so sánh giữa số tiền phải trả thêm mà vốn được sử dụng trong 1 khoảng
thời gian nhất định.

Vai trò của lãi suất: Giúp cho các doanh nghiệp đầu tư 1 cách có hiệu quả; là công cụ
điều tiết vĩ mô nền kinh tế; là công cụ thu hút vốn đầu tư.

Khi lãi suất thay đổi, nó tác động nhiều đến hoạt động của nền kinh tế:

+ Lãi suất tăng - nhu cầu tiền giảm - đầu tư giảm- sản lượng giảm- nền kinh tế

+ Lãi suất giảm - nhu cầu tiền tăng - đầu tư tăng - sản lượng tăng - nền kinh tế

Nhà nước vận dụng công cụ lãi suất:

+ Khi nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp nhiều, mở rộng chính sách tiền tệ, thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng, làm cho cung tiền tăng, giảm lãi suất. Khi lãi suất giảm, cung
tiền tăng, đầu tư sẽ tăng lên, thì sản lượng cũng sẽ tăng theo, đồng thời tỷ lệ thất nghiệp
giảm. Ví dụ: Thông qua nghiệp vụ thị trường mở - mua trái phiếu, giảm tỷ lệ dự trữ bắt

buộc, giảm lãi suất chiếc khấu.

+ Khi nền kinh tế phát triển quá nóng (đầu tư tăng, tổng cầu tăng, giá cả tăng, lạm
phát tăng) Nhà nước dùng giải pháp chính sách tài chính hạn chế (thắt chặt): giảm chi tiêu,
tăng thuế, giảm lượng cung tiền và tăng lãi suất. Khi lượng cung tiền giảm và lãi suất tăng
sẽ làm hạn chế đầu tư, và dẫn đến sản lượng giảm theo.

Câu 12: Cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Nội dung đổi mới cơ chế quản
lý hiện nay so với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây.

I. Cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế:


- 19 -
1. Cơ chế là 1 khái niệm chỉ sự diễn biến của quá trình vận hành nội tại của 1 hệ
thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành nên 1 hệ thống
trong quá trình vận động của mỗi bộ phận, mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận
động, phát riển theo mục đích đã định.
2. Cơ chế kinh tế là tổng thể các quan hệ tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu
thành nền kinh tế, nhờ đó mà nền kinh tế vận động và phát triển được. Các yếu tố cấu
thành cơ chế nền kinh tế bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, tổ chức sản
xuất, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật; các ngành nghề trong tổng thể nền kinh tế; các
vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế có qui mô lớn, vừa, nhỏ. Các
yếu tố của cơ chế kinh tế có mối quan hệ qua lại, tương tác lẫn nhau, phản ảnh sự tác động
của cung cầu, của giá cả, của lãi suất tín dụng Đây là 1 dạng cơ chế phức tạp nhất trong
cơ chế kinh tế, vì nó là sự hội tụ của hàng loạt biến số, trong đó mỗi biến số đồng thời là
hàm số của các biến số khác.

3. Cơ chế quản lý kinh tế là cách thức quản lý kinh tế của nhà nước. Đó là 1 hệ thống
các nguyên tắc, các hình thức, phương pháp và các công cụ quản lý mà nhà nước sử dụng

để tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Các yếu tố cấu thành cơ chế quản lý kinh tế bao gồm: Mục tiêu của quản lý kinh tế,
chức năng, nguyên tắc, phương thức, các công cụ và hướng vận dụng chúng trong quản lý
kinh tế.

II. Những nội dung đổi mới cơ chế quản lý hiện nay so với cơ chế quản lý kinh tế
kế hoạch hoá tập trung trước đây:

1. Về mục tiêu:

+ Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây là nhằm xây dựng 1 nền
kinh tế XHCN, có lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất tiến tiến. Trong đó, mọi
thành viên trong xã hội đều được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và khẳng định phải
xây dựng ngay 1 nền kinh tế chỉ có 1 thành phần kinh tế với 2 hình thức sở hữu toàn dân
và tập thể.

+ Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay là xây dựng 1 nền kinh tế XHCN, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Và khẳng định để đạt được mục tiêu đó cần
phải xây dựng 1 nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế.

2. Về chức năng quản lý:

+ Trước đây, Nhà nước can thiệp 1 cách trực tiếp, toàn diện, triệt để và sâu rộng vào
mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước đóng vai trò người chỉ huy trực tiếp tất
cả các hoạt động kinh tế. Các cơ quan Nhà nước tập trung trong tay mình cả 3 quyền chi
phối, đó là quyền quản lý nhà nước về hành chính kinh tế, quyền của chủ sở hữu nhà nước
đối với các doanh nghiệp và quyền quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp.


+ Nay nhà nước đóng vai trò điều hành vĩ mô (vạch ra định hướng, hỗ trợ, giúp đở và
điều tiết), có sự phân định, có sự tách bạch ngày càng rõ 3 quyền để tăng cường quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Các
quyền quản lý nhà nước về hành chính kinh tế đối với các loại hình doanh nghiệp và quyền
quản lý với tư cách là chủ sở hữu và đại diện của chủ sở hữu đối với vốn và tài sản của nhà
nước trong các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của các cơ quan nhà nước. Còn quyền
điều hành hoạt động xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc bộ máy quản lý của các
doanh nghiệp. Như vậy có nghĩa là nhà nước chỉ quản lý ở tầm vĩ mô, định hướng cho sự
phát triển của nền kinh tế, tạo lập môi trường, điều chỉnh, điều tiết và kiểm tra giám sát.

3. Về nguyên tắc quản lý:


- 20 -
+ Trước đây, vận dụng nguyên tắc tập trung cao độ nên dẫn đến tệ quan liêu, cửa
quyền của nhà nước, tính thụ động ỷ lại, nạn hối lộ, móc ngoặc của các đơn vị kinh tế.

+ Nay, vận dụng đồng thời các nguyên tắc: Tập trung dân chủ, kết hợp quản lý theo
ngành và theo lãnh thổ, phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản trị kinh doanh, bảo
vệ quyền lợi và quyền làm chủ cho người lao động, tăng cường pháp chế XHCN trong
quản lý kinh tế.

4. Về hình thức quản lý:

+ Trước đây, theo kiểu "cấp phát - giao nộp", đó là 1 nền kinh tế hiện vật, cấp phát
hiện vật, giao nộp hiện vật; về tài chính thực hiện "cơ chế xin - cho"; về thực hiện "hạch
toán kinh tế là hình thức".

+ Nay theo cơ chế "nghĩa vụ và trách nhiệm"; thực hiện tự chủ về tài chính; thực

hiện chế độ hạch toán thực chất thể hiện trên 4 nguyên tắc: tự bù đắp và có lãi; đảm bảo
tính độc lập về tài chính; chịu trách nhiệm vật chất và được khuyến khích bằng lợi ích vật
chất; thực hiện giám đốc bằng đồng tiền đối với hoạt động của doanh nghiệp.

5. Về phương pháp quản lý:

+ Trước đây, dựa vào mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, các phương pháp rất ít được
vận dụng.

+ Nay có sự kết hợp đồng bộ các phương pháp, đó là: phương pháp hành chính,
phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục.

6. Về công cụ quản lý:

+ Trước đây, chủ yếu sử dụng công cụ kế hoạch pháp lệnh mang tính áp đặt từ cấp
trên xuống cấp dưới trong việc giao nhiệm vụ sản xuất kinh doanh bằng 1 hệ thống chỉ tiêu
kế hoạch pháp lệnh.

+ Nay nhà nước sử dụng 1 hệ thống đồng bộ các công cụ kinh tế vĩ mô để quản lý
nền kinh tế, đó là: Đường lối phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, pháp lệnh kinh tế, các chính sách kinh tế và các
công cụ của các chính sách kinh tế.

Câu 13: Khái niệm và các yếu tố cấu thành của cơ chế quản lý kinh tế. Trình
bày những nội dung cần được thực hiện để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam

I. Khái niệm và các yếu tố cấu thành của cơ chế quản lý kinh tế.

1. Cơ chế là 1 khái niệm chỉ sự diễn biến của quá trình vận hành nội tại của 1 hệ
thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành nên hệ thống trong

quá trình vận động của mỗi bộ phận, mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận động, phát
riển theo mục đích đã định.

2. Cơ chế kinh tế là tổng thể các quan hệ tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu
thành nền kinh tế, nhờ đó mà nền kinh tế vận động và phát triển được. Các yếu tố cấu
thành cơ chế nền kinh tế bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, tổ chức sản xuất,
sự tiến bộ khoa học kỹ thuật; các ngành nghề trong tổng thể nền kinh tế; các vùng kinh tế,
các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế có qui mô lớn, vừa, nhỏ. Các yếu tố của cơ chế
kinh tế có mối quan hệ qua lại, tương tác lẫn nhau, phản ảnh sự tác động của cung cầu, của
giá cả, của lãi suất tín dụng Đây là 1 dạng cơ chế phức tạp nhất trong cơ chế kinh tế, vì
nó là sự hội tụ của hàng loạt biến số, trong đó mỗi biến số đồng thời là hàm số của các biến
số khác.

3. Cơ chế quản lý kinh tế là cách thức quản lý kinh tế của nhà nước. Đó là 1 hệ thống
các nguyên tắc, các hình thức, phương pháp và các công cụ quản lý mà nhà nước sử dụng
để tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.

II. Các yếu tố cấu thành cơ chế quản lý kinh tế bao gồm:

+ Mục tiêu của quản lý kinh tế.

- 21 -
+ Chức năng.
+ Nguyên tắc.
+ Phương thức.
+ Các công cụ và hướng vận dụng chúng trong quản lý kinh tế.

1. Các nguyên tắc quản lý: Nguyên tắc là tính chung, tính khái quát của các hướng
hành động cụ thể, phương hướng chung cho hành động cụ thể, có tính bắt buộc người hành
động phải theo. Một hướng hành động nào đó được gọi là nguyên tắc khi nó là hướng

chung so với các hướng cụ thể hành động.

Trong quản lý, cần phải có nguyên tắc, bởi vì mỗi cấp quản lý bên trên không thể và
cũng không cần chỉ ra phương hướng hành động quá cụ thể cho cấp dưới, đồng thời cũng
không phó mặc cho cấp dưới tuỳ ý hành động. Do vậy người quản lý phải đề ra hướng
hành động cho mọi cấp dưới ở 1 mức nào đó. Cái mức không quá cụ thể đó được gọi là
nguyên tắc. Trong quản lý về kinh tế bao gồm những nguyên tắc sau:

+ Tập trung dân chủ.
+ Kết hợp quản lý nhà nước về kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ.
+ Phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản trị kinh doanh.
+ Bảo vệ quyền lợi và quyền làm chủ cho người lao động.
+ Tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý kinh tế.

2. Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế: Phương pháp quản lý là tổng
thể các cách thức và biện pháp quản lý, có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hoạt động
quản lý kinh tế, nhà nước có thể và cần thực hiện đồng thời 3 phương pháp sau:

+ Phương pháp cưỡng chế: Thực chất là dùng sự thiệt hại làm áp lực để buộc đối
tượng tuân thủ theo mục tiêu quản lý của nhà nước, được dùng khi cần điều chỉnh các hành
vi mà hậu quả của nó có thể gây ra thiệt hại cho cộng đồng và cho nhà nước.

+ Phương pháp kích thích: bản chất của kích thích là dùng lợi ích làm động lực để
khiến đối tượng vì muốn có lợi ích mà tuân theo mục tiêu quản lý do nhà nước đề ra.
Phương pháp này được dùng khi cần điều chỉnh các hành vi không có nguy cơ gây hậu quả
xấu cho cộng đồng, cho nhà nước hoặc chưa đủ điều kiện áp dụng phương pháp cưỡng chế.

+ Phương pháp giáo dục thuyết phục: bản chất là tạo ra sự giác ngộ trong đối tượng
quản lý để đối tượng quản lý tự quản lý, tự thân vận động theo chân lý, đạo lý, pháp lý, cần
được áp dụng phương pháp này trong mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tương, bởi vì suy cho cùng

cưỡng chế hay kích thích vẫn là nhờ ngoại lực do đó không triệt để. Mặt khác cưỡng chế
hay kích thích cũng phải qua hoạt động thuyết phục thì mới truyền tới được đối tượng quản
lý để họ cảm nhận được áp lực hay động lực để từ đó mà biết sự thiệt hại hoặc muốn có lợi
để tuân theo mục tiêu quản lý do nhà nước đề ra.

3. Công cụ quản lý: Trong hoạt động quản lý đối với nền kinh tế nhà nước cần vận
dụng:

+ Công cụ thể hiện ý muốn của chủ thể quản lý, theo đó đối tượng quản lý phải biết
mà tuân theo.

+ Công cụ có tác dụng động lực được dùng làm áp lực hay động lực tác động vào đối
tượng quản lý của nhà nước.

+ Công cụ thể hiện ý chí của nhà nước trong việc sử dụng các lực lượng nói trên vào
việc gây áp lực, đó là hệ thống chế độ, chính sách kinh tế tài chính của nhà nước.

+ Công cụ sử dụng các công cụ nói trên, đó chính là con người, những cán bộ công
chức nhà nước, là các cơ quan hành chính nhà nước, là các công sở.
II. Những nội dung cần được thực hiện để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt
Nam:

Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế là việc làm thường xuyên của nhà nước, bởi vì
các đối tượng quản lý thường xuyên thay đổi, thay đổi chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất

- 22 -
và sự ra đời những loại hình doanh nghiệp mới, thay đổi quan hệ quốc tế của nước ta trên
lĩnh vực kinh tế, thay đổi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hơn nữa, khoa học
công nghệ không ngừng tiến bộ tạo ra những thành tựu mới cho phép ứng dụng vào thực
tiễn quản lý và đòi hỏi nhà nước phải tổ chức lại bộ máy, phân công lại chức năng, nhiệm

vụ quản lý trong nội bộ bộ máy, nâng cao trình độ công chức.

Tổ chức và hoạt động của chủ thể quản lý phải phù hợp với khách thể quản lý. Do
vậy, khi đối tượng quản lý có sự thay đổi thì chủ thể quản lý cũng phải thay đổi theo.
Những đổi mới của đối tượng quản lý trong quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta trong
thời gian qua đã có ảnh hưởng đến chủ thể quản lý là nhà nước trên các mặt sau:

+ Làm thay đổi vị trí của nhà nước đối với các doanh nghiệp.
+ Làm thay đổi chức năng của nhà nước trong quản lý kinh tế.
+ Làm thay đổi khối lượng công tác quản lý.
+ Làm thay đổi yêu cầu đối với các phương thức, phương pháp, biện pháp quản lý.

Do những thay đổi của đối tượng quản lý, công cuộc đổi mới quản lý nhà nước về
kinh tế cần phải nhằm vào các phương diện và thay đổi chúng theo các hướng sau:

1. Đổi mới chức năng nhiệm vụ quản lý của nhà nước:

+ Nhà nước phải tập trung vào chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong kinh
tế, coi đây là chức năng căn bản của quản lý nhà nước về kinh tế, như vậy với chức năng
này trong nền kinh tế đa sở hữu, quản lý của nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất
của nền kinh tế, do vậy, dù muốn hay không nhà nước cũng không có quyền can thiệp vào
nền kinh tế như 1 ông chủ mà chỉ có thể như 1 trọng tài, 1 nhạc trưởng đứng ngoài cuộc
chơi để điều chỉnh người trong cuộc thực hiện cuộc chơi kinh tế sao cho hợp lý, hợp tình.

+ Nhà nước phải đặc biệt coi trọng và thực hiện tốt chức năng hỗ trợ công dân lập
thân, lập nghiệp về kinh tế, coi đó là 1 trong những nét đặc thù của sự đổi mới chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế so với trước thời kỳ đổi mới. Chức năng này chiếm 1 phần lớn
công sức của nhà nước, là chức năng thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của nhà nước. Nhờ
thực hiện tốt chức năng này mà nhà nước có uy tín với nhân dân, nền chính trị được ổn
định.


+ Nhà nước cần ý thức chính xác và thực hiện đầy đủ chức năng đối với các doanh
nghiệp nhà nước.

2. Đổi mới phương thức, biện pháp, công cụ quản lý: Nhà nước phải tăng cường
phương thức cưỡng chế, phải sử dụng phương thức kích thích, phải làm công tác thuyết
phục với nội dung thiết thực, có chất lượng để có sức thuyết phục cao trước các đối tượng
quản lý phức tạp mới không thể nhu nhược trong quản lý.

3. Đổi mới đội ngũ công chức: Khi đối tượng quản lý đổi mới, phương thức quản lý
cũng đổi mới buộc đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về kinh tế cũng phải đổi mới.
Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế phải được hiện đại hoá trên các
mặt sau:

+ Phải có bản lĩnh chính trị, kinh tế vững vàng, đủ sức tiếp nhận đường lối kinh tế
của Đảng và Nhà nước, đủ sức tự lý giải cho mình và lý giải cho quần chúng, cho công dân
mọi vấn đề phức tạp, tế nhị của tiến trình kinh tế của đất nước.

+ Phải có trình độ vững vàng về khoa học quản lý nhà nước về kinh tế để ứng phó
với mọi thách thức của đối tượng quản lý, thích ứng được những đòi hỏi của quá trình toàn
cầu hoá quản lý kinh tế.

+ Phải vững vàng về thể lực để đủ sức chịu đựng mọi gian khó, nguy hiểm trong
công vụ.

4. Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế: Việc đổi mới tổ chức
bộ máy này cần thực hiện trên cả 2 phương diện: Cơ cấu lại bộ máy và phân công lại chức
năng, nhiệm vụ, chế độ vận hành của cả guồng máy. Bộ máy sinh ra là để làm nhiệm vụ

- 23 -

quản lý, khi chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế đã thay đổi thì cơ cấu bộ máy
nhà nước ta để quản lý nhà nước về kinh tế cần phải được đổi mới theo hướng sau:

+ Thực hiện tốt nguyên tắc "tập trung-dân chủ".
+ Tách quản lý nhà nước khỏi quản trị kinh doanh.
+ Kết hợp tốt quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ, tinh giảm đầu mối, xoá
bỏ chồng chéo.

Chương II

Câu 14: Trình bày khái niệm doanh nghiệp nhà nước. Nội dung chủ yếu của
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước.

I. Trình bày khái niệm doanh nghiệp nhà nước:

1. Theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003: Doanh nghiệp nhà nước là "tổ
chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối,
được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn".

Như vậy, với việc phân loại doanh nghiệp nhà nước chúng ta có thể thấy có 1 điểm
khác biệt khá lớn, đó là theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995, doanh nghiệp nhà
nước chỉ tồn tại dưới dạng doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, được tổ chức bằng hình
thức doanh nghiệp nhà nước độc lập và tổng công ty nhà nước, nhưng hiện nay doanh
nghiệp nhà nước có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, đó là doanh nghiệp nhà nước có
100% vốn của nhà nước và doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước do
nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp.
Và doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới nhiều hình thức như sau:

+ Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thành

lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo qui định của Luật doanh nghiệp nhà nước. Và
được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập và tổng công ty nhà nước.

+ Tổng công ty nhà nước: là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư góp vốn
giữa các công ty nhà nước, giữa các công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc
được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó
với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt
động trong 1 và 1 số chuyên ngành kinh tế-kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh
doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn tổng công ty. Tổng công ty
nhà nước được tổ chức dưới 3 hình thức:

- Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập: là hình thức liên kết và
tập hợp các công ty thành viên hoàn toàn độc lập có tư cách pháp nhân, hoạt động trong 1
hoặc 1 số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường tích tụ tập trung vốn và
chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn tổng công ty.
- Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập: là hình thức liên kết thông qua
đầu tư, góp vốn của công ty nhà nước qui mô lớn do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
với các doanh nghiệp khác, trong đó công ty nhà nước giữ quyền chi phối.

- Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là Tổng Cty được thành lập để
thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty TNHH nhà nước 1 thành
viên chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc lập và các công ty TNHH nhà nước 1 thành
viên do mình thành lập, thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước và quyền,
nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với cổ phần, vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp đã
chuyển đổi sở hữu hay hình thức pháp lý từ các công ty nhà nước độc lập.

+ Công ty cổ phần nhà nước: là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty
nhà nước hoặc tổ chức được nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo
Luật doanh nghiệp.



- 24 -
+ Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên là công ty TNHH do nhà nước sở hữu toàn
bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo qui định của Luật doanh
nghiệp.

+ Công ty THNN nhà nước có 2 thành viên trở lên là công ty TNHH trong đó tất cả
các thành viên đều là công ty nhà nước hay có thành viên là công ty nhà nước và thành
viên khác là tổ chức được nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo qui
định của Luật doanh nghiệp.

II. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước:

1. Xây dựng chiến lược qui hoạch, kế hoạch và các dự án phát triển hệ thống
doanh nghiệp nhà nước.

+ Vị trí và tầm quan trọng: Đây là bước mở dầu của toàn bộ quá trình quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước, phải có định hướng này mới có thể tiến hành được
hoạt động đầu tư xây dựng doanh nghiệp nhà nước.

+ Những sản phẩm quản lý cơ bản cần tạo được qua nội dung này: Khi thực hiện nội
dung trên, công tác quản lý nhà nước phải tạo ra được các sản phẩm quản lý như:

- Những chỉ tiêu thể hiện nhiệm vụ riêng của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.

- Mô hình tổng thể lực lượng doanh nghiệp nhà nước cần có để dảm nhận những
nhiệm vụ nói trên, được thể hiện thành các dự án doanh nghiệp nhà nước cụ thể.

- Phần tăng, giảm lực lượng doanh nghiệp nhà nước so với mô hình trên, trong đó có
những doanh nghiệp nhà nước mới cần xây dựng, bổ sung mới bằng vốn nhà nước và các

doanh nghiệp cần cắt giảm do không cần thiết.

- Riêng phần xây dựng bổ sung được thể hiện thành các dự án xây dựng mới và các
dự án cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá doanh nghiệp nhà nước hiện có.
- Riêng phần cắt giảm các doanh nghiệp nhà nước hiện có không còn cần thiết tồn tại
bằng vốn nhà nước như trước nữa, cần được thể hiện thành danh mục và phương án
chuyển thể sở hữu cụ thể.

2. Hoàn thiện thể chế tổ chức và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước:

a. Thực chất là việc tổng kết công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước, bổ sung, đổi mới tổ chức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước cho phù
hợp với sự phát triển thường xuyên của doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đặt ra đối với
doanh nghiệp nhà nước.

b. Mục đích, yêu cầu:

+ Tiến hành đều đặn và kịp thời theo từng bước phát triển của bản thân lực lượng
doanh nghiệp nhà nước và từng bước phát triển của thị trường.

+ Tiến hành đồng bộ trên cả 2 phương diện: Xem xét tổ chức và hoạt động quản lý
của nhà nước và của bản thân từng doanh nghiệp nhà nước. Trong thực tế nội dung này
được thể hiện dưới các hình thức sau:

- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế, qui tắc nhằm điều chỉnh bộ
máy và quyền hạn trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp nhà nước.

- Bổ sung, hoàn thiện tổ chức bộ máy, phân công nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm
giữa các cấp, các ngành trong bộ máy nhà nước để quản lý các doanh nghiệp nhà nước.


- Nội dung này được tiến hành với 2 nội dung chính là tổng kết, đánh giá hệ thống
pháp luật, thể chế hiện hành, chỉ ra những bất cập và những tình tiết không khả thi, sự cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ.Trên cơ sở đó đưa ra những qui định mới phù hợp
với tình hình và nhiệm vụ mới của doanh nghiệp và của các cơ quan nhà nước trong việc
quản lý các doanh nghiệp.


- 25 -
3. Tổ chức đầu tư xây dựng doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch, dự án đã
lập:

a. Mục tiêu, yêu cầu: Phải tạo ra được kết quả như sau: Biến các kế hoạch, dự án xây
dựng mới, xây dựng lại, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước thành hệ thống doanh
nghiệp nhà nước mới, công ty cổ phần nhà nước, công ty hoặc doanh nghiệp tư nhân trên
thực tế.

b. Nội dung: được chia thành 2 loại việc chính:

+ Xây dựng mới , xây dựng lại, chỉnh đốn doanh nghiệp nhà nước: Toàn bộ hoạt
động này được tiến hành theo trình tự quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

+ Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước: được tiến hành theo các qui định về
tiến hành giải thể và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

4. Khai thác, sử dụng các doanh nghiệp nhà nước vào việc thực hiện các nhiệm
vụ chính của nhà nước:

a. Bản chất: Đây chính là việc sử dụng các doanh nghiệp nhà nước vào việc thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế mà nhà nước thấy rằng những nhiệm vụ đó cần cho việc thực

hiện 1 ý đồ quản lý nào đó.
b. Nội dung:

+ Xác định lại các mục tiêu mà nhà nước cần đạt trong các lĩnh vực hoạt động xã hội
mà nhà nước quan tâm.

+ Xác định các hành vi kinh tế có khả năng hay có tác dụng đối với việc thực hiện
các mục tiêu trên, chỉ ra những khó khăn trong việc thực hiện các hành vi kinh tế đó và sự
cần thiết phải huy động doanh nghiệp nhà nước vào việc thực hiện các hành vi này.

+ Giao nhiệm vụ hoạt động kinh tế trên cho các doanh nghiệp nhà nước.

+ Chuyển giao những phương tiện cần thiết, đủ để cho các doanh nghiệp nhà nước
thực hiện xuất sắc các nhiệm vụ được giao, áp dụng các biện pháp, chính sách ưu đãi, ưu
tiên đối với doanh nghiệp nhà nước nhằm giúp chúng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính
trị được giao.

+ Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ nói trên nhằm bắt buộc các doanh
nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao tương xứng với mong muốn của
nhà nước và phù hợp với những nỗ lực ưu đãi của nhà nước đối với họ.

Câu 15: Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Liên hệ thực tế để chứng
minh mức độ thể hiện vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Nội dung cần
được đổi mới trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước để phát huy
được vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

I. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước:

Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế là nền kinh tế nhiều thành
phần. Để giữ vững được định hướng XHCN đòi hỏi kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ

đạo, trong đó các doanh nghiệp nhà nước là 1 bộ phận chính yếu. Hôi nghị lần thứ 3 BCH
TW khoá IX đã khẳng định: "Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững
định hướng XHCN, doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng được đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng
để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để
kinh tế nhà nước thực hiện chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ
lực trong hội nhập kinh tế". Vai trò trọng yếu của doanh nghiệp nhà nước thể hiện ở các
nội dung sau:

+ Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự ổn định xã
hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.

+ Mở đường hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng
nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.

×