Nhìn lại 36 phố cổ Hà Nội
xưa và nay
Từ xưa đến nay, nhắc đến Hà Nội là nhớ đến những con
phố tên “Hàng” giăng mắc cửi bàn cờ - đó là một trong
những đặc điểm tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội nghìn
năm.
Qua những tên phố đó, người nay nhớ lại hình ảnh xưa
của Hà Nội, cho dù một phần kiến trúc cổ và những
ngành nghề xưa cũ đã mất đi. Tên phố “Hàng” chính là
chút di cảo của nghìn năm, chủ yếu được sinh ra từ Hà
Nội và dành riêng Hà Nội. Thế nhưng qua những thay đổi
của lịch sử, người Thăng Long - Hà Nội không còn bán
buôn những hàng cũ, cơn lốc quy hoạch và cải tạo cũng
lấy đi của đất Hà thành không ít tên phố “Hàng” - đã đến
lúc cần có một cách đánh giá đúng để bảo tồn nét văn hóa
đặc trưng này.
Hàng Đào
Hàng Đào là một trong những tuyến phố chính của Hà Nội.
Đây cũng là một trong những con phố cổ nhất của kinh thành
Thăng Long xưa. Ngày nay, Hàng Đào còn là một tuyến phố
đắt đỏ bậc nhất của Hà Nội khi giá đất nhà mặt phố được
giao dịch cả tỷ đồng một mét vuông.
Phố Hàng Đào đầu thế kỉ XX. Trong đó ngôi nhà ngoài cùng
bên phải ảnh chính là nhà số 4 nơi cư trú của gia đình cụ
Lương Văn Can.
Ngôi nhà 2 tầng có lan can màu trắng cách 2 ngôi nhà tiếp
theo là nhà số 10 nơi mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Ngã 5 Hàng Đào năm 1960
Ngã 5 Hàng Đào nhìn từ trên cao năm 1990
Từ khi được hình thành, Hàng Đào vẫn luôn là con phố kiêu
sa bậc nhất đất Kinh kỳ. Tại thành Thăng Long xưa, Phố
Hàng Đào thuộc phường Đồng Lạc và Đại Lợi, tổng Tiền
Túc, huyện Thọ Xương. Phường Đại Lợi tập trung người
làng Đan Loan (Bình Giang, Hải Dương), làng Đình Loan,
Đông Cao (Bắc Ninh) chuyên nghề nhuộm tơ lụa có từ thời
Trần, Hồ, đến đời Lê đã rất phát triển. Phiên chợ tơ của phố
ngày xưa mở vào ngày mồng 1 và 6 âm lịch hàng tháng trở
thành một trong những phiên chợ quan trọng nhất của Kinh
thành xưa. Phiên chợ thu hút các làng dệt tứ xứ đến mua bán,
như the từ La Cả, La Khê, lĩnh từ làng Bưởi ven Hồ Tây,
gấm vóc của Vạn Phúc, rồi các giao dịch của thợ nhuộm, thợ
cửi, người bán tơ, bán sợi…
Hàng Đào trở thành một trung tâm nhuộm tơ lụa và nhiễu
sầm uất nhất cả nước thời bấy giờ. Hiện nay vẫn còn tấm bia
có từ năm 1706 ghi rõ tên cụ tổ sư nghề nhuộm cũng là thành
hoàng làng tại số nhà 90A. Cái tên “Hàng Đào” cũng bắt đầu
từ đặc trưng này (Đào hay điều là đỏ, phố chuyên buôn bán
tơ lụa, vải điều nên gọi là Hàng Đào). Sau này khi nghề
nhuộm màu chuyển sang phố Cầu Gỗ thì phố Hàng Đào lại
chuyển thành phố bán các hàng tấm: the, lụa, lượt, là, cấp,
đũi, băng, sa, xuyến, chồi…
Thời Pháp thuộc, phố mang tên là Rue de la Soie (phố bán
lụa) nhưng người dân vẫn quen giữ và gọi là Hàng Đào.
Hàng Đào chủ yếu là nơi sinh sống của những ông quan về
hưu. Các bà vợ quan mở cửa hàng buôn bán tơ lụa tại gia.
Đầu thế kỷ 20, các thương gia Ấn Độ tới đây buôn bán và
cũng mở các cửa hàng tơ lụa, vải vóc.
Ổi Quảng Bá, cá Hồ Tây
Hàng Đào tơ lụa làm say lòng người.
Câu ca dao cổ từ lâu đã khắc sâu vào tâm trí biết bao thế hệ
những người con yêu mến đất Thăng Long về hình ảnh một
con phố buôn bán nổi tiếng của Hà Nội
Trong các sản phẩm tơ lụa của Hàng Đào thì nổi tiếng nhất
và có truyền thống lâu đời nhất là Yếm Đào. Nửa đầu Hàng
Đào xưa là chợ bán yếm nhộn nhịp người bán kẻ mua nhất ở
đất Thăng Long.
Yếm thắm Hàng Đào là một niềm tự hào của phụ nữ Việt
Theo nề nếp, phụ nữ Việt thường đi chợ mua tơ tằm tự may
yếm. Bởi vậy, Thăng Long – Kẻ chợ đã có cả một cái chợ
dành cho phường bán yếm. Trong cái chợ rực rỡ “yếm lụa”
xa xưa ấy, từ các làng quê, những sản phẩm tuyệt hảo của tơ
tằm đã đổ về đây, quyến rũ, bắt mắt đàn bà con gái Thăng
Long, đặc biệt là trước những lễ hội. Họ rủ nhau tấp nập chọn
tơ tằm may yếm và sắm sửa lụa là gấm vóc để may váy áo tứ
thân, năm thân, áo cánh, thắt lưng, khăn vấn và cả đồ trang
sức vàng bạc.
Yếm Việt đẹp đến mức, đầu thế kỉ XX, khi hai họa sĩ “Tây
học”: Lê Phổ - Cát Tường phát minh áo dài tân thời, thì vẻ
đẹp tân kì, pha trộn hài hòa Đông – Tây của nó vẫn cứ phảng
phất giữ lại vẻ đẹp của chiếc yếm thuở nào.
Ngày nay, dừng lại ở ngôi nhà số 38, ngước nhìn lên cổng
giữa, vẫn thấy hàng chữ Hán màu đen nổi bật trên nền vôi
vàng. 5 chữ Hán này là “Đồng Lạc quyến yếm thị”. Đây là
ngôi đình của chợ bán yếm lụa ngày xưa, mang tên Đồng
Lạc.
Số 38 Hàng Đào ngày nay đã trở thành trụ sở Ban quản lý
Phố Cổ
Khoảng những năm 20 của thế kỉ XX, vải tây thắng thế, quá
nửa phố cho thuê bán vải tây, hàng truyền thống vắng hẳn.
Rồi dần dần phố không còn bán vải nhuộm màu nữa, các chủ
hàng có nhiều vốn chuyển sang các loại hàng cao cấp, xa xỉ.
Ngày nay, Phố Hàng Đào nằm theo hướng bắc - nam, dài
khoảng 260m. Phố Hàng Đào được coi là đường trục chính
của 36 phố phường. Đầu phía nam của phố sát bờ hồ Hoàn
Kiếm, đầu phía bắc giáp phố Hàng Ngang. Phía tây của phố
là các nhà mang số chẵn, phía đông là các nhà mang số lẻ,
cao thấp theo phong thủy xưa.
Diện mạo của phố cổ Hàng Đào đã thay đổi nhiều. Vẫn đóng
vai trò là phố buôn bán chính, sầm uất, đông đúc nhất Hà
Nội, nhưng phố Hàng Đào chuyên bán quần áo, sản phẩm du
lịch, tiêu dùng như: kim hoàn, thời trang, đồng hồ… phục vụ
du khách và người dân Hà thành. Từ năm 2006, UBND quận
Hoàn Kiếm cho phép thành lập tuyến phố đi bộ Chợ Đêm
Hàng Đào - Đồng Xuân vào các tối thứ sáu, thứ bảy, chủ
nhật. Chợ chủ yếu bán các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, tơ lụa
truyền thống, đồ lưu niệm, và cả hàng quán giới thiệu văn
hóa ẩm thực Hà Nội, thu hút rất nhiều khách du lịch đến
thăm quan. Tuyến phố đi bộ trên Chợ Đêm Hàng Đào - Đồng
Xuân đã tạo nên một nét văn hóa hoàn toàn mới của Thủ đô,
một nếp sinh hoạt thương mại kết hợp truyền thống với hiện
đại.
Có thể thấy, những nét văn hóa đặc trưng của phố Hàng Đào
xưa giờ đã dần mai một nhường chỗ cho sự pha tạp tân thời.
Qua phố Hàng Đào, ngước mắt lên cao một chút, vẫn còn đó
những mái ngói, ô cửa cũ kỹ nhưng đan xen vào là nhà cao
tầng, biển hiệu, cửa kính sáng choang… Người Hàng Đào
vẫn có câu: Phố bán nhiều đồng hồ nhưng không ai mua
được thời gian.
Người Hàng Đào còn đây…
Phố Hàng Đào là nơi buôn bán lụa là, vóc nhiễu với nhiều
màu sắc đẹp đẽ, và người Người Hàng Đào từ lâu vẫn nổi
tiếng là người thanh lịch, con người của Kinh Kỳ kiểu cách
đến thành cầu kì, hào nhoáng. Mặc dù là phố buôn bán nhưng
Hàng Đào lại được coi là cái nôi của văn hóa Thăng Long.
Những người yêu Hà Nội không mấy ai quên được nét đẹp
của những cô gái Hàng Đào. Những cô gái Hàng Đào trong
quá khứ lúc nào cũng mặt hoa da phấn, ăn mặc chải chuốt,
phong cách đoan trang ngay cả khi ngồi bán hàng. Lời nói
nhẹ nhàng và cái cười duyên dáng của các cô khiến khách
hàng không dễ bỏ đi. Con gái Hàng Đào xưa có biệt tài kinh
doanh nhưng là sự kinh doanh khôn ngoan chứ không nhiều
chụp giật, bon chen như bây giờ.
Phố và người Hàng Đào hôm nay
Phố Hàng Đào rất cổ kính nhưng cũng rất hiện đại. Còn đó
những di tích cổ của một thời vang bóng : di tích trường
Đông Kinh Nghĩa Thục tại số nhà 10; Miếu Đồng Lạc tại số
nhà 31; Đình Hoa Lộc Thị ở số nhà 90A (là đình của người
làng Đan Loan, thờ vọng thành hoàng làng Đan Loan là Triệu
Xương và phu nhân Phương Dung và ông tổ nhuộm vải xưa);
Đình Đồng Lạc ở số nhà 38 thờ thần Bạch Mã, Linh Lang,
Cao Sơn… nhưng sự nuối tiếc vẫn là có thật, hiện hữu trong
mỗi tâm hồn người Hàng Đào gốc.
ùng với Hàng Đào, Hàng Ngang là con phố tạo nên trục
chính của phố cổ Hà Nội. Con phố vắt ngang không gian,
thời gian và vắt ngang cả hai bờ văn hóa
Hàng Ngang
Trong số các phố cổ Hà Nội thì Hàng Ngang không phải là
tên gọi phố theo đặc trưng sản phẩm kinh doanh như các con
phố khác: Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Đường, Hàng Bạc,
Hàng Muối, Hàng Thiếc, Hàng Cót…Hiện không có cứ liệu
lịch sử ghi lại chính xác tên Hàng Ngang có tự bao giờ. Chỉ
biết cái tên ấy không gắn với sản phẩm đặc trưng mà gắn với
kiến trúc mang tính lịch sử.
Phục dựng cổng vào phố Hàng Ngang xưa
Cổng ở đầu phố Hàng Ngang. Ảnh tư liệu của Hocquard,
1885
Phố Hàng Ngang xưa thuộc phường Diên Hưng, tổng Tiền
Túc, huyện Thọ Xương thành Thăng Long. Đến thế kỷ XIX
phố có tên là Việt Đông - phố tập trung những người Hoa
Kiều Quảng Đông. Khu phố buôn bán sầm uất, giàu có, hai
đầu phố người dân cho làm hai cánh cổng ngăn rất chắc chắc
để buổi tối đóng lại, khép kín con phố ở hai đầu. Với lối kiến
trúc này, phố trở thành phố ngang và cái tên Hàng Ngang
được hình thành.
Vắt ngang hai bờ văn hóa
Phố Hàng Ngang từ lâu được coi là cầu nối hai bờ văn hóa
Việt-Trung. Từ thời Lê, người Hoa được tổ chức sống tập
trung tại một số nơi ở Hà Nội: Việt Đông (Hàng Ngang) và
Hà Khẩu (Hàng Buồm), trong đó Hàng Ngang là nơi tập
trung nhiều nhất. Theo luật định cư thời đó, hết thời hạn định
cư cho phép, những người Trung Quốc này phải về nước, nếu
tình nguyện ở lại phải thay đổi y phục, đổi phong tục theo
người Việt Nam gọi là người Minh Hương. Trước năm 1945,
người Pháp từng đặt tên cho phố Hàng Ngang là “Rue de
cantonnais” - phố của những người Quảng Đông.
Tập quán thờ cúng cả Quan Công và vị tường thần Trần
Hưng Đạo là nét đặc trưng trong tín ngưỡng của cư dân Hàng
Ngang
Chính vì lẽ trên, tại Hàng Ngang có sự hòa trộn văn hóa Việt
Trung trong mỗi nếp sinh hoạt. Người Việt và người Minh
Hương (người Hoa kiều) sống xen lẫn và có mỗi quan hệ họ
hàng gắn bó mật thiết với nhau, văn hóa sống do đó cũng có
những sự giao thoa. Chẳng hạn người Minh Hương ở đây đã
đem việc cúng lễ của Trung Quốc kết hợp vào với việc cúng
lễ của người Việt Nam trong mỗi gia đình. Điển hình của lối
tư duy pha trộn này là việc họ lập hội dựng đền Tam Thánh
thờ Quan Công ở Ngọc Sơn cùng với Trần Hưng Đạo.
Hàng Ngang nổi tiếng với những hiệu chè Tàu: Sinh Thái,
Chính Thái, Ninh Thái, Song Hỷ. Vào phố này, người ta còn
thấy những cửa hiệu cao đơn hoàn tán, họ làm đại lý cho các
hãng thuốc Đông Y sản xuất ở Hương Cảng, Thượng Hải,
Tân Gia Ba, Chợ Lớn. Nhưng Hàng Ngang cũng nổi tiếng
với những hiệu kinh doanh đậm chất người Việt như vải võ,
tơ lụa, đồ trang sức
Vắt ngang không gian
Ca dao Hà Nội xưa còn ghi:
Nhất vui là cảnh bờ hồ
Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Ngang
Lại có câu:
Ba mươi sáu mặt phố phường
Hàng Giấy, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào.
Cứ hễ nhắc tới phố cổ Hà Nội là không thể bỏ qua Hàng
Ngang. Con phố này đã góp phần quan trọng tạo nên trục
không gian cho kiến trúc phố cổ. Phố Hàng Ngang dài
khoảng 150m, nối liền phố Hàng Đào với phố Hàng Đường –
hai mảng không gian quan trọng của trục phố cổ Hà Nội. Các
du khách nước ngoài đến thăm Hà Nội thường thích ngồi
xích lô khởi hành từ bờ hồ, qua phố Đinh Tiên Hoàng, qua
Hàng Đào, Hàng Ngang rồi mới rẽ sang các phố cổ khác.
Hàng Ngang còn là nơi nối những không gian hẹp với những
không gian rộng của phố cổ. Mặt đường hàng Ngang về mặt
kiến trúc có vai trò như một xương sống. Nối vào xương
sống đó có những ngôi nhà rộng bậc nhất Hà Thành, lại có
những ngôi nhà, mặt ngõ hẹp, sâu nổi tiếng phố cổ. Chẳng
hạn, số 55 Hàng Ngang là một lối đi hẹp đến mức nếu không
chú ý kỹ người ta dễ lầm tưởng đó chỉ là khoảng không làm
ranh giới giữa hai căn nhà. Cũng ít ai biết rằng phía trong số
nhà 55 đó có hàng chục hộ dân cư sinh sống. Điện trong ngõ
sâu này phải bật 24/24 mà vẫn có những góc tối om.
Số 53 và 55 điển hình cho những nhà, ngõ có không gian hẹp
ở Hàng Ngang
Về mặt xây dựng, phố Hàng Ngang thay đổi nhiều so với
trước đây, bộ mặt phố phường Hà Nội cũng đã có nhiều thay
đổi, nhưng vai trò trục chính nối kết các cụm không gian kiến
trúc phố Hàng của Hàng Ngang thì vẫn nguyên vẹn.
Vắt ngang thời gian
Hàng Ngang như một gạch nối thời gian, chứng kiến nhiều
biến chuyển của thời đại.
Thế kỉ XIX, phố Hàng Ngang từng nổi tiếng là phố của văn
bản tuyên truyền. Ở đây có một điếm vè nổi tiếng. Điếm là
nơi dân phủ canh gác ban đêm. Nhưng ở phố Hàng Ngang
này, điếm còn trở thành một trạm thông tin văn hóa đặc biệt.
Hễ trong phường phố có những chuyện trái với đạo đức thì
một ai đó sáng tác ngay một bài vè vừa tường thuật câu
chuyện vừa ngụ ý bêu riếu, bí mật đem dán ở đây. Vì vậy
đương thời gọi là “điếm vè Hàng Ngang”, nhiều tay nhà giầu
cùng quan lại rất sợ cái điếm này vì bài vè sẽ được nhanh
chóng lan truyền và các ông bà hát xẩm đem trình diễn luôn
ở các chợ hoặc bến tàu bến xe.
Số nhà 48 Hàng Ngang ngày nay
Gần hai thế kỉ sau, cũng tại Hàng Ngang, một văn bản nổi
tiếng khác ra đời gắn với số nhà 48. Nhà số 48 Hàng Ngang
vốn của ông bà Trịnh Văn Bô nằm giữa khu phố cổ, trung
tâm thương mại sầm uất của Hà Nội xưa. Ngôi nhà này có
hai lối ra vào là 48 phố Hàng Ngang và 35 phố Hàng Cân. Do
có vị trí thuận lợi, lại là cơ sở cách mạng từ thời tiền khởi