Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Luận văn thạc sĩ đánh giá hiện trạng thảm thực vật của khu bảo tồn thiên nhiên pù huống, phát hiện nguyên nhân suy thoái và đề ra phương pháp bảo tồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.89 KB, 74 trang )

Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn thạc sỹ, tôi đà nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy giáo hướng dẫn khoa học ở Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Trước tiên tôi xin cảm ơn TS . Nguyễn Trung
Thành, người hướng dÉn khoa häc chÝnh cđa t«i, tiÕp theo t«i xin cảm ơn GS.
TSKH Nguyễn Nghĩa Thìn người đưa ra hướng phát triển của luận văn.
Trong quá trình xử lý số liệu và viết luận văn tôi được sự giúp đỡ nhiệt
tình và nhiều ý kiến quý báu của TS. Nguyễn Huy Dũng, Trung tâm Tài
nguyên Môi trường Lâm nghiệp thuộc Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, KS.
Võ Văn Hồng, Chuyên viên viễn thám của Viện Điều tra Quy hoạch Rừng và
một số người khác thuộc phòng bản đồ của Trung tâm Tài nguyên Sinh vật,
tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban lÃnh đạo và cán bộ của Khu Bảo tồn
Thiên nhiên Pù Huống, Chi cục Kiểm lâm Nghệ An và cán bộ Dự án bảo vệ
rừng và lưu vực sông tỉnh Nghệ An,
Nhân dịp này tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám hiệu, các Thầy,
Cô giáo và các cán bộ Khoa Sau đại học, Trường Đại học Lâm nghiệp đà giúp
đỡ tôi hoàn thành các thủ tục trong quá trình làm luận văn, xin chân thành
cảm ơn các bạn đồng nghiệp đà giúp đỡ tôi về chuyên môn cũng như chuyên
ngành mà tôi còn khuyến thiếu.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn tới tất cả sự giúp đỡ quý báu đó.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, ngày 25 tháng 7 năm 2006

Cao Minh Hưng

c


Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn thạc sỹ, tôi đà nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy giáo hướng dẫn khoa học ở Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,


Đại học Quốc gia Hà Nội. Trước tiên tôi xin cảm ơn TS . Nguyễn Trung
Thành, người hướng dÉn khoa häc chÝnh cđa t«i, tiÕp theo t«i xin cảm ơn GS.
TSKH Nguyễn Nghĩa Thìn người đưa ra hướng phát triển của luận văn.
Trong quá trình xử lý số liệu và viết luận văn tôi được sự giúp đỡ nhiệt
tình và nhiều ý kiến quý báu của TS. Nguyễn Huy Dũng, Trung tâm Tài
nguyên Môi trường Lâm nghiệp thuộc Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, KS.
Võ Văn Hồng, Chuyên viên viễn thám của Viện Điều tra Quy hoạch Rừng và
một số người khác thuộc phòng bản đồ của Trung tâm Tài nguyên Sinh vật,
tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban lÃnh đạo và cán bộ của Khu Bảo tồn
Thiên nhiên Pù Huống, Chi cục Kiểm lâm Nghệ An và cán bộ Dự án bảo vệ
rừng và lưu vực sông tỉnh Nghệ An,
Nhân dịp này tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám hiệu, các Thầy,
Cô giáo và các cán bộ Khoa Sau đại học, Trường Đại học Lâm nghiệp đà giúp
đỡ tôi hoàn thành các thủ tục trong quá trình làm luận văn, xin chân thành
cảm ơn các bạn đồng nghiệp đà giúp đỡ tôi về chuyên môn cũng như chuyên
ngành mà tôi còn khuyến thiếu.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn tới tất cả sự giúp đỡ quý báu đó.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, ngày 25 tháng 7 năm 2006

Cao Minh Hưng

c


1

Phần mở đầu
Thảm thực vật từ lâu đà là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học
trong lĩnh vực Địa lý học và Thực vật học. Nhiều công trình nghiên cứu thảm

thực vật trên thế giới và ở Việt Nam qua những giai đoạn khác nhau, theo các
trường phái nghiên cứu khác nhau, đà góp phần thúc đẩy sự tiến bộ cả về lý luận
học thuyết cũng như nghiên cứu ứng dụng của môn khoa học này. Tuy nhiên
đứng trước sự tác động mạnh mẻ của con người thảm thực vật đang bị thay đổi
nhanh chóng đòi hỏi những nghiên cứu, phân tích, đánh giá kịp thời mang tính
cập nhật để bổ sung thêm những tư liệu khoa học mới cũng như đề xuất hợp lý
các hướng sử dụng tài nguyên quy hoạch lÃnh thổ.
Trong thời gian gần đây với những tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thiết
bị quan trắc đà cung cấp tương đối đồng bộ những tư liệu về bề mặt trái đất
thông qua ảnh vệ tinh nhân tạo và máy bay ở tầm khác khau đà thúc đẩy các nhà
khoa học có nhiều hướng nghiên cứu thảm thực vật.
Cuộc sống của nhân loại liên quan mật thiết đến nguồn tài nguyên mà trái
đất cung cÊp (thùc vËt, ®éng vËt, ®Êt, n­íc, v.v). Nh­ng víi tình trạng khai thác
quá mức của mình, loài người bước vào thế kỷ 21 phải đối mặt với những thách
thức hết sức gay go, suy giảm đến mức nghèo kiệt và làm suy giảm các loài thực
vật, động vật, v.v. Đó là nguồn tài nguyên quí giá nhất, nó là cơ sở của sự sống
còn, sự thịnh vượng và phát triển bền vững của loài người và sự bền vững thiên
nhiên trên trái đất. Trong thời gian dài con người đà khai thác nguồn tài nguyên
quá mức dẫn đến suy thoái làm mất cân bằng sinh thái và điều đó dẫn đến thảm
hoạ mà loài người đang phải gánh chịu như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, v.v.
Đánh giá hiện trạng thảm thực vật tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Huống
tìm ra nguyên nhân suy thoái và đề xuất các biện pháp bảo vệ có ý nghĩa hết sức
quan trọng vì có nhiều nguyên nhân. Nhiều diện tích rừng đang bị mất dần và
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất rừng là việc mở rộng diện tích canh tác n«ng

c


2


nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác gỗ thương phẩm, khai thác quá mức
gỗ củi và các lâm sản khác và sự phụ thuộc quá mức vào các hình thức canh tác
du canh khai phá thiên nhiên của một nhóm dân tộc thiểu số. Tất cả các mối đe
doạ trên đều do tăng dân số, phát triển kinh tế làm tăng nhu cầu các sản phẩm
rừng.
Bất kỳ một thảm thực vật và hệ thực vật nào đều có vốn tài nguyên bền vững
không thể thay thế. Nó được chắt lọc và tồn tại trong tổng hợp của nhiều yếu tố:
Tự nhiên, lịch sử, địa chất, thuỷ văn và xà hội. Nhưng lại rất khó định lượng
bằng những con sè cơ thĨ v× thÕ nã rÊt khã nhËn ra và cũng khó làm cho mọi
người thấy được. Khu bảo tån thiªn nhiªn Pï Hng víi diƯn tÝch 50.274 ha đất
tự nhiên, trải dài tới 43 km theo hướng Tây Bắc- Đông Nam và rộng 20-23km
theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Đất có rừng chiếm đến 90%, nằm ở độ cao từ
200 - 1600m là phần thượng lưu nơi sinh thuỷ, giữ nước cho nhiều sông suối:
Nậm Quang, Nậm Gươm, Huổi Bo, Huổi Khi, Huổi Nây ở phía Bắc vµ NËm Líp,
NËm Chao, NËm Ngµn, NËm Chon, Hi KÝt, Huổi Uôn ở phía Nam. Khu bảo
tồn cũng là khu phòng hộ đầu nguồn sông Cả và sông Hiếu. Khu vực núi cao của
Pù Huống là bức tranh làm giảm luồng gió lạnh (gió mùa Đông Bắc) và ngăn gió
khô nóng từ phía Tây Nam. Những đặc trưng tự nhiên vốn có này đà đem đến
cho vùng nhiều lợi thế về môi trường: là nguồn sinh thuỷ, nơi duy trì khí hậu,
ngăn chặn những tác động tiêu cực: gió bÃo, lị lơt, cung cÊp n­íc cho vïng thÊp,
duy tr× mäi hoạt động của cư dân và canh tác nông nghiệp.
Đa dạng sinh vật nói chung và đa dạng thực vật nói riêng đang được rất
nhiều nhà khoa học sinh học quan tâm đến trong những năm gần đây. Chính vì
vậy việc sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ rừng,
bảo vệ các nguồn gen phong phú và đa dạng đà trở thành một vấn đề cấp thiết
trong công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Để có thể xác định nguồn gen
cây có ích một cách chính xác thì công việc xây dựng danh lục các loài chính
xác. Trên cơ sở bản danh mục chúng ta phải tiến hành đánh giá tính đa d¹ng vỊ

c



3

nguồn gen cây có ích và mức độ nguy cấp của chúng để định hướng cho việc ưu
tiên bảo tồn. ở đây có những loài cây gỗ quí hiếm được ghi vào Sách đỏ có gặp
tại khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống có giá trị đặc biệt cần được quan tâm bảo
vệ là: Kim giao, Sa mộc dầu, Pơ mu, Sến mật, Giổi thơm. Hiện tại ở đây vẫn còn
gặp nhiều cây gỗ lớn có đường kính từ 80-100cm mà điều này không có được ở
nhiều vườn Quốc gia cũng như khu bảo tồn khác trên cả nước. Vốn tài nguyên
cây gỗ với trữ lượng khá, cộng với sự hiện diện của các loài cây gỗ có giá trị, quí
hiếm trên là ưu thế đáng được quan tâm của Khu BTTN Pù Huống. Những ưu thế
này cũng chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn về nạn khai thác gỗ trái phép. Vấn đề
ngăn chặn, bảo vệ giữ cho được hiện trạng và đặc biệt là những loài gỗ quí hiếm
nói trên là công việc rất khó khăn, nhưng những loài gỗ quí hiếm hiện có tại đây
mất đi là những tổn thất lớn, khó có khả năng phục hồi lại. Kho tàng thực vật
thiên nhiên phong phú về thành phần loài, nhiều loài quí hiếm, chứa đựng nhiều
loài cây gỗ có giá trị là nơi bảo tồn vốn gen thực vật vô cùng quí giá. Nhiều vấn
đề về bảo tồn và khai thác sử dụng để đạt hiệu quả cao hiện tại chưa rõ ràng
nhưng nếu được bảo tồn thì trong tương lai khi điều kiện khoa học xà hội cho
phép nó sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao phục vụ sự phát triển kinh tế trong tương
lai. Đây cũng là nơi đang còn nhiều bí ẩn của tự nhiên về thành phần khu hệ thực
vật, động vật nó sẽ là địa bàn tốt cho các nghiên cứu khoa học. Đương nhiên một
diện tích lớn đất đai có ®é cao tõ 200-1600m chia c¾t nhiỊu, nhiỊu khe, thung
lịng, có cả địa hình núi đất, núi đá vôi và nhiều sông suối thác ghềnh với nhiều
kiểu thảm thực vật và sự phong phú của các nhóm thực vật, đặc biệt là thảm và
hệ thực vật á nhiệt đới đà đem lại tính hấp dẫn về cảnh quan thiên nhiên đối với
du khác du lịch đặc biệt là du lịch sinh thái cảnh quan rất lý thú và hấp dẫn.
Nhận thức vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa khoa học rõ rệt, do đó chúng
tôi đà tiến hành nghiên cứu đề tài: Đánh giá hiện trạng thảm thực vật của Khu

Bảo tồn Thiên nhiên Fù Huống, phát hiện nguyên nhân suy thoái và đề ra phương
pháp bảo tồn.

c


4

Mục tiêu của đề tài:
- Nghiên cứu hiện trạng thảm thực vật ở Khu Bảo tồn Thiên nhiên Fù Huống
- Phát hiện nguyên nhân suy thoái
- Đề xuất một số giải pháp bảo tồn các loài thực vật ở Khu Bảo tồn Thiên
nhiên Fù Huống.

Chương 1. Tổng quan những vấn đề nghiên cứu
1.1. Lịch sử nghiên cứu
Từ lâu, đối tượng nghiên cứu của khoa học về thảm thực vật đà được xác
định là tổ hợp các cá thể của các loài thực vật khác nhau, có cấu trúc ngoại mạo,
chức năng sinh thái và qui luật phân bố địa lý phân biệt được với nhau, loài
người không biết gìn giữ nguồn tài nguyên quý giá mà lại đang khai thác quá
mức và phá huỷ nó với danh nghĩa là để phát triển. Chính vì vậy thảm thực vật
trên trái đất đang bị suy thoái nghiêm trọng, sự suy thoái này đang diễn ra hàng
ngày, hàng giờ. Trong những năm vừa qua sự mất mát về các loài, sự suy thoái
các hệ sinh thái tự nhiên, nhất là rừng nhiệt đới đà diễn ra một cách nhanh chóng
chưa từng thấy mà nguyên nhân chính là do tác động của con người. Đến nay có
hơn 40% rừng nhiệt đới nguyên thuỷ bị huỷ diệt, trung bình hàng năm có khoảng
6-7 triệu ha đất trồng trọc bị mất khả năng sản xuất do nạn xói mòn.
Sự tồn tại của xà hội loài người và đứng trước sự suy giảm với tốc độ càng
nhanh, nhiỊu tỉ chøc Qc tÕ ®· ra ®êi ®Ĩ h­íng dẫn và đánh giá, bảo tồn và
phát triển về thực vật ra đời. Bởi vì loài người muốn tồn tại lâu dài trên hành tinh

này thì phải có một dạng phát triển mới. Nhu cầu cơ bản của sự sống còn của
chúng ta phụ thuộc vào tài nguyên của trái đất, nếu những tài nguyên đó bị giảm
sút thì cuộc của chúng ta và con cháu chúng ta sẽ bị đe doạ. Chúng ta đà quá lạm
dụng vào tài nguyên của trái đất mà không nghĩ đến tương lai. Ngày nay chúng
ta đang đứng trước những hiểm hoạ. Để tránh hiểm hoạ đó chúng ta phải tôn

c


5

trọng trái đất đặc biệt là "lá phổi xanh" của chúng ta và cuộc sống một cách bền
vững.
Miền núi là khu vực bao gồm nhiều loại hình đất dốc khác nhau vùng đồi,
núi cao và các cao nguyên chiếm 24,4 triƯu ha chiÕm (74%) tỉng diƯn tÝch c¶
n­íc. MiỊn nói cũng là ngôi nhà chung của khoảng 24 triệu đồng bào các dân
tộc thiểu số (Lê Thị Cúc và cộng sự, 1990). Rừng là nguồn tài nguyên quý giá và
có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường, phát triển nông nghiệp miền núi
và an ninh quốc phòng.
Trong những năm gần đây độ che phủ của rừng tăng lên rõ rệt. Đặc biệt là
tại các khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt. Nhìn chung độ che phủ rừng có tăng
lên nhưng chất lượng rừng lại giảm sút. Canh tác nương rẫy và áp lực kinh tế và
gia tăng dân số là nguyên nhân gây ra sức ép đối với tài nguyên thiên nhiên. Làm
cho nó trở nên ngày càng nghèo kiệt.
Để giải quyết vấn đề trên từ năm 1988 Nhà nước đà giao cho địa phương
một số chính sách về phát triển nông lâm ngư như: chính sách giao ®Êt giao
rõng, qun sư dơng ®Êt ®­ỵc giao cho ng­êi dân trong một thời gian nhất định.
Mục đích chính của dự án nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm để phát
triển kinh tế nâng cao đời sống đồng bào vùng cao. Tuy nhiên hiệu quả của
mong muốn vẫn chưa đạt được. Chất lượng rừng vẫn bị suy giảm, môi trường

sinh thái vẫn chưa được cải thiện, đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn,
mâu thuẫn vẫn nảy sinh trong cộng đồng.
Thời gian gần đây, trên thế giới cũng như ở nước ta đà có những nghiên
cứu đưa ảnh viễn thám vào để đánh giá thảm thực vật rừng và sử dụng đất cũng
như một số nghiên cứu khác vào vùng núi. Với mong muốn áp dụng phương
pháp mới có hiệu quả trong đánh giá thảm thực vật và quản lý tài nguyên, đồng
thời để hiểu rõ hơn về vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài
nguyên rừng.

c


6

1.1.1.Trên thế giới
Châu âu, theo Schmitthusen (1959) có hai hệ thống phân loại thảm thực
vật chủ yếu: đó là hệ thống phân loại quần xà thực vật của (Braun Blanquet,
1928) phần lớn được thực hiện bởi các nhà thực vật học theo trường phái của
Pháp và hệ thống phân loại các quần thể thực vật chủ yếu được thực hiện bởi các
nhà địa thực vật Đức.
Việc phân loại rừng nhằm phục vụ các mục đích kinh doanh đền rất đa
dạng với nhiều trường phái và phương pháp phân loại khác nhau: trường phái
Liên Xô (cũ), trường phái Pháp, Hà Lan, Mỹ, Canada, .v.v. Nói chung, tuỳ theo
mục đích nghiên cứu, mỗi trường phái lựa chọn yếu tố chủ đạo và đưa ra nguyên
tắc phân loại khác nhau. Vấn đề này đà được Phùng Ngọc Lan (1986) tổng kết
đầy đủ trong giáo trình lâm học.
Nga là một nước có lịch sử lâu dài về vấn đề phân loại rừng theo điều kiện
tự nhiên. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ 20, Morodop mới là người đầu tiên đặt
nền móng chắc chắn cho vấn đề phân loại rừng phục vụ kinh doanh. Theo ông,
kiểu rừng là tập hợp các lâm phần có thể khác nhau về những đặc trưng thứ yếu

nhưng lại tương tự nhau về lập địa, đặc biệt là nhân tố thổ nhưỡng. Ông đà tiến
hành phân loại rừng theo 5 yếu tố hình thành rừng.
- Đặc tính sinh thái học của loài cây cao
- Hoàn cảnh địa lý (khí hậu, thổ nhưỡng, địa chất, v.v.)
- Quan hệ giữa các thực vật tạo nên quần lạc và quan hệ giữa chúng với
động vật.
- Nhân tố lịch sử địa chất
- Tác ®éng cđa con ng­êi
KÕ thõa häc thut cđa Morodop vµ dựa trên quan điểm coi rừng là một
sinh địa quần lạc, Sucasop đà xây dựng nên trường phái phân loại kiểu rừng mà
theo ông nó phải dựa vào những đặc điểm tổng hợp để phân loại. Theo đó, khi
tiến hành phân loại rừng, yếu tố đầu tiên cần phải chú ý là địa hình, sau đó là

c


7

thực bì và thổ nhưỡng (ở đây địa hình tuy không phải là thành phần của quần lạc
sinh địa nhưng nó là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến điều kiện hoàn cảnh, thông
qua đó có ảnh hưởng đến các thành phần khác của sinh địa quần lạc). Sucasop
chủ trương dùng đơn vị phân loại cơ bản của quần lạc thực vật là quần hợp để
xác định ranh giới giữa các quần lạc sinh địa, vì nó có khả năng phản ánh điều
kiện khí hậu thổ nhưỡng của các quần lạc sinh địa đó.
Cũng xuất phát từ quan điểm coi rừng là thể thống nhất giữa sinh vật rừng
và hoàn cảnh, Pogrenhiac cho rằng hoàn cảnh là cái có trước, chủ đạo và tương
đối ổn định. Theo ông, nhiệm vụ của việc phân loại kiểu rừng là phải đánh giá
được đầy đủ khả năng của nguồn tài nguyên sinh thái học. Vì vậy, tốt nhất nên
dựa vào điều kiện lập địa để phân loại kiểu rừng, và ông đà đưa ra hệ thống phân
loại gồm ba cấp như sau:

1. Kiểu lập địa
2. Kiểu rừng
3. Kiểu lâm phần
Kiểu lập địa: Là cấp phân loại lớn nhất bao gồm mọi khu đất có điều kiện
thổ nhưỡng giống nhau kể cả khu đất có rừng và không có rừng. Trong điều kiện
thổ nhưỡng thì độ phì và độ ẩm được chú trọng hơn cả.
Kiểu rừng: Là tổng hợp những khu đất có điều kiƯn thỉ nh­ìng vµ khÝ hËu
gièng nhau. Nh­ vËy, kiĨu rừng là kiểu lập địa trong một điều kiện khí hậu nhất
định, bất kể khu đất có rừng hay không rừng. Bởi vì điều kiện thổ nhưỡng và khí
hậu giống nhau sẽ dẫn đến khả năng xuất hiện thực bì rừng nguyên sinh tương
tự.
Kiểu lâm phần: Đều thuộc cùng một kiểu rừng, nhưng do tác động của các
nhân tố bên ngoài khác nhau như cháy rừng, khai thác, v.v, có thể xuất hiện các
quần lạc thực vật thứ sinh với cấu trúc khác nhau. Kiểu lâm phần bao gồm những
khoảng rừng giống nhau cả về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, quần lạc thực vật.
ở Thuỵ Điển có hai trường phái: Đó là trường phái sinh học (phân loại

rừng dựa theo hai nhân tố là độ ẩm và độ phì của đất) và trường phái quần xÃ

c


8

thực vật (dựa vào đặc trưng chủ yếu là tổ thành thực vật và coi quần hợp là đơn vị
cơ bản).
ở Phần Lan, Caiande chủ trương phân loại rừng dựa vào thực vật thảm tươi.

Ông cho rằng trong lâm phần thuần thục, tổ thành thảm tươi không chỉ phụ thuộc
vào hoàn cảnh sinh thái môi trường mà còn mà còn phụ thuộc vào cả tổ thành

loài cây gỗ của lâm phần. Theo ông thảm tươi là chỉ tiêu tốt nhất về tính đồng
nhất sinh học của môi trường kể cả tính đồng nhất về hiệu quả của thực vật rừng.
Điều này đà không hoàn toàn đúng, vì thực tế thảm tươi có khả năng chỉ thị
nhưng không có khả năng chỉ thị cho tất cả các điều kiện lập địa, ngoài ra các
yếu tố bên ngoài như lửa rừng, khai thác, v.v, cũng ảnh hưởng đến thảm tươi.
Tuy nhiên, học thuyết cũng có giá trị ở Phần Lan trong điều kiện thảm thực vật
đơn giản, tương đối đồng nhất và các loại đất đều mỏng.
ở Mỹ, phân loại rừng theo học thuyết cực đỉnh (climax). Climax là một

quần xà thực vật ổn định trong quá trình phát triển lâu dài trên những vùng lÃnh
thổ rộng lớn với đất đai đà được hình thành từ lâu. Khí hậu là nhân tố để xác
định climax. Ngoài khái niệm climax, các nhà lâm phần Mỹ còn đưa ra khái
niệm tiền đỉnh cực (á ®Ønh cùc), ®¬n ®Ønh cùc (monoclimax), ®a ®Ønh cùc
(polyclimax).
Champion (1936) đà phân biệt bốn đai thảm thực vật lớn theo nhiệt đới:
nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới và núi cao. Cách phân loại này hiện nay vẫn được
sử dụng phỉ biÕn.
Bear (1944) ®· ®­a ra mét hƯ thèng ba cấp là: quần hợp, quần hệ và loạt
quần hệ. Còn Forber (1958) đưa ra đề án hệ thống phân loại chung cho thảm
thực vật rừng nhiệt đới dựa trên hình thái ngoại mạo cấu trúc quần thể là: lớp
quần hệ, quần hệ và phân quần hệ.
Gần đây UNESCO (1973) đà công bố một khung phân loại thảm thực vật
thế giới dựa trên nguyên tác ngoại mạo cấu trúc có thể được thể hiện trên bản đồ
1:2.000.000. Hệ thống đó được s¾p xÕp nh­ sau:

c


9


1. Lớp quần hệ
1.A. Phân lớp quần hệ
1.A.1. Nhóm quần hệ
1.A.1.1. Quần hệ
1.A.1.1.1. Phân quần hệ
Việc sử dụng viễn thám được hình thành từ đầu thế kỷ XX. Đầu tiên là ở
một số nước như Liên Xô (cũ), Mỹ, Pháp, v.v, đà sử dụng ảnh máy bay vào mục
đích quân sự, lâm nghiệp, thăm dò tài nguyên mặt đất v.v, sau đó là các nước
như Nhật Bản, ấn Độ v.v, có những vệ tinh nhân tạo chuyên hoặc không chuyên
về phân tích môi trường trái đất như các vệ tinh LANDSAT (Mỹ), SPOT (Pháp),
INSAT (ấn Độ), v.v, thì viễn thám thực sự đà trở thành một kỹ thuật với nhiều
phương pháp để nghiên cứu khoa học trái đất. Trong viễn thám, hình ảnh là dạng
tư liệu hết sức quan trọng. Một trong những kỹ thuật viễn thám là tạo nên hình
ảnh để mắt người có thể nhìn thấy được.
Nhiều nhà Địa thực vật trên thế giới đà vận dụng phương pháp này để
nâng cao hiệu quả nghiên cứu, cả về lý thuyết lẫn ứng dụng. Kiichler (1967),
thành lập bản đồ thảm thực vật, với quy trình sử dụng phương pháp viễn thám
của ông vận dụng cho cả ảnh máy bay và ảnh vệ tinh đà trở thành phương pháp
phổ cập đối với các nước đang phát triển. Phương pháp Kiichler rất phù hợp và
không gây trở ngại nào cho giải đoán bằng mắt trong các điều kiện kỹ thuật xử
lý ảnh còn hạn chế ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Blasco và
cộng sự, (1983) đà thành lập bản đồ thảm thực vật nhiệt đới đảo Xumatra, cơ bản
dựa rên phương pháp phân tích mắt ảnh vệ tinh LANDSAT. Phương pháp của
Blasco và cộng sự sử dụng thực tế không sai khác mấy so với phương pháp
Kiichler tuy về mặt chi tiết của từng công đoạn có những chi tiết khác nhau.
Mueller - Dombois, (1984) phân loại và thành lập bản đồ các quần xà thực
vật, nhấn mạnh ở vùng nhiệt đới Châu Phi thông qua trắc đạc bằng viễn thám, tư
liệu chính được sử dụng là ảnh LANDSAT. Đặc biệt trong những năm gần đây,
nhiều nước đang phát triển thuộc vùng nhiệt đới như ấn §é, Th¸i Lan, Malaixia,


c


10

Inđônêxia đang tiếp cận và sử dụng phương pháp này ngày càng rộng rÃi và có
hiệu quả trong lĩnh vực nghiên cứu thảm thực vật và tài nguyên rừng.
Chaturvedi và Khanna, (1982) đưa ra phương pháp các yếu tố giải đoán
ảnh vệ tinh LANDSAT và INSAT để thành lập bản đồ tài nguyên rừng ở ấn Độ
những kết quả này được ứng dụng khá rộng rÃi đối với ngành lâm nghiệp ấn Độ
trong lĩnh vực điều tra tài nguyên và qui hoạch rừng.
Roy (1979); Roy và Saxena, (1986) sử dụng phương pháp giải đoán bằng
mắt và xử lý số ảnh vệ tinh LANDSAT-TM và INSAT để thành lập bản đồ thảm
thực vật vườn quốc gia KANHA- ấn Độ tỷ lệ 1/100.000.
1.1. 2. ở Việt Nam
Trước năm 1960, các công trình nghiên cứu về thảm thực vật chủ yếu được

thực hiện bởi các tác giả nước ngoài như: Chevelier, (1918); Mauran, (1943);
Dương Hàm Nghi (1956). Từ những năm 1960, Loschau đà đưa ra một khu phân
loại theo trạng thái ở Quảng Ninh. Bảng phân loại này được phân chia thành 4
trạng thái như sau:
Rừng loại I: gồm những đất đai hoang trọc, trảng cỏ và cây bụi
Rừng loại II: gồm những rừng non mới mọc
Rừng loại III: gồm tất cả các rừng đà bị khai thác trở nên nghèo kiệt, tuy
còn có thể khai thác lấy gỗ trụ mỏ.
Loại rừng IV: gồm những rừng nguyên sinh chưa bị khai thác.
Đây là hệ thống phân loại rừng đà được áp dụng rộng rÃi ở nước ta trong
điều tra rừng tái sinh cũng như điều tra tài nguyên rừng theo trạng thái. Viện
Điều tra Quy hoạch Rừng đà áp dụng hệ thống này để phân loại trạng thái rừng
phục vụ công tác quy hoạch, thiết kế kinh doanh rừng.

Trần Ngũ Phương (1970) xây dựng bản phân loại rừng miền Bắc nước ta,
trong đó ®· chó ý ®Õn viƯc nghiªn cøu quy lt diƠn thế thứ sinh, diễn thế độ phì,

c


11

các tính chất vật lý, hoá học và dinh dưỡng đất qua các giai đoạn phát triển của
rừng. Bảng phân loại gồm các đai rừng và kiểu rừng sau:
A. Đai rừng nhiệt đới mưa mùa
1. Kiểu rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh ngập mặn
2. Kiểu rừng nhiệt đới mưa mùa lá rộng thường xanh
3. Kiểu rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh
4. Kiểu rừng nhiệt đới ẩm lá rụng thung lũng
5. Kiểu rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh núi đá vôi
B. Đai rừng á nhiệt đới mưa mùa
6. Kiểu rừng á nhiệt đới lá rộng thường xanh
7. Kiểu rừng á nhiệt đới lá kim trên núi đá vôi
C. Đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao
Thái Văn Trừng (1978, 1999) dựa trên quan điểm sinh thái phát sinh đà xây
dựng bảng phân loại rừng Việt Nam. Tác giả đà sắp xếp các kiểu thảm thực vật
hiện có ở Việt Nam vào một khung pháp lý, có trật tự trước sau giữa các nhân tố
sinh thái, đồng thời theo trật tự giảm dần từ kiểu tốt nhất đến kiểu kém nhất. Đây
là một công trình tổng quát, đáp ứng được quy hoạch sinh thái. Tuy nhiên, theo
tác giả thì bảng phân loại này thuộc loại đặc biệt, mang tính chất địa phương của
một vùng hay một nước. Bảng phân loại được chia làm 2 nhóm: đai thấp gồm các
kiểu thảm thực vật có độ cao dưới 1000m ở miền Nam và dưới 700m ở miềm
Bắc; đai cao gồm các kiểu thảm thực vật ở độ cao trên 1000m ở miền Nam và
trên 700m ở miền Bắc.

I. Nhóm thảm thực vật ở độ cao dưới 1000m ở miền Nam, và dưới 700m ở
miền Bắc có các kiểu thảm sau:
1. C¸c kiĨu rõng ró kÝn
- KiĨu rõng kÝn th­êng xanh m­a Èm nhiƯt ®íi
- KiĨu rõng kÝn nưa rơng lá ẩm nhiệt đới
- Kiểu rừng kín rụng lá, hơi Èm nhiƯt ®íi

c


12

- Kiểu rừng kín lá cứng, hơi khô nhiệt đới
2. Các kiểu rừng thưa
- Kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới (phân bố ở các tỉnh Đắc
Lắc, Thuận Hải, Buôn Ma Thuột, Sơn La, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Tây, Hoà
Bình).
- Kiểu rừng thưa lá kim hơi khô á nhiệt đới núi thấp (phân bố ở Sơn La
và Đà Lạt).
- Kiểu rừng cây lá kim nhiệt đới núi thấp.
Các kiểu rừng thưa trên chiếm một diện tích rộng ở miền Nam, có đặc điểm
chính là tầng cây gỗ thưa cây. Các loài cây chủ yếu là: Dầu, Bàng, Cẩm liên,
Chiêu chiêu, Sơn, Thàu táu, Me rừng, v.v.
3. Các kiểu rừng trảng, truông
- Kiểu trảng cây to, cây bụi cỏ cao, khô nhiệt đới
- Kiểu truông bụi gai, hạn nhiệt đới
II. Nhóm thảm thực vật vùng núi ở độ cao trên 1000m ở miền Nam và trên
700m ở miền Bắc có các kiểu sau:
1. Các kiểu rừng kín
- Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm, á nhiệt đới núi thấp (thường gặp ở

miền Bắc).
- Kiểu rừng kín hỗn hợp lá rộng, lá kim, ẩm, á nhiệt đới núi thấp (thường
gặp ở miền Bắc).
- Kiểu rừng lá kim ẩm, ôn đới núi vừa (thường gặp ở vùng núi cao như dÃy
Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Nam Trung Bộ).
Đó là các kiểu rừng vùng cao, có các quần thụ cây gỗ kín rậm. Thực vật
gồm: Dẻ, Re, Mộc lan, Sau sau, Cáng lò, Tre gầy, Giang, Nghiến, Kim giao,
Hoàng đàn.
2. Các kiểu quần hệ khô lạnh vùng cao
- Kiểu quần hệ khô vùng cao: đó là rú cao bụi nhỏ, tr¶ng cá cao, cá thÊp

c


13

- Kiểu quần hệ lạnh vùng cao (thường gặp ở đỉnh núi cao như Fanxipan, Tà
phình, Tây Côn lĩnh, v.v. Thực vật ở đây gồm Dẻ, Pơ mu, Đỗ quyên, Thông v.v.
Phan Kế Lộc (1985) dựa trên khung phân loại của UNESCO đà đưa ra
khung phân loại thảm thực vật ở Việt Nam được thể hiện trên bản đồ
1:2.000.000. Bảng phân loại gồm có 5 lớp quần hệ.
- Lớp quần hƯ rõng rËm
- Líp qn hƯ rõng th­a
- Líp qn hệ trảng cây bụi
- Lớp quần hệ trảng cây bụi lùn
- Lớp quần hệ trảng cỏ
Mỗi lớp quần hệ được phân ra các bậc nhỏ hơn phân lớp quần hệ, nhóm
quần hệ, quần hệ và phân quần hệ.
Bảng phân loại này đà được một số tác giả áp dụng để tiến hành phân loại
thảm thực vật trong các nghiên cứu như (Trần Đình Đại, 1990; Trần Đình Lý,

1995; Nguyễn Nghĩa Thìn, 1996).
Vũ Đình Huề (1984) đà đề nghị phương pháp phân loại rừng phục vụ các
mục đích kinh doanh. Theo tác giả, kiểu rừng là một loạt các xà hợp thực vật
thuộc một kiểu trạng thái, trong phạm vi một kiểu điều kiện thực bì rừng và
tương ứng có một biện pháp lâm sinh thích hợp.
Vũ Tự Lập (1976) trong công trình Cảnh quang địa lý miền Bắc Việt
Nam đà sử dụng nhân tố độ ưu thế của các loài cây trong ô tiêu chuẩn để xác
định các quần hợp, ưu hợp và phức hợp. Trong khi đó Thomasius (1978) căn cứ
vào chỉ số khô hạn của Buderco (1956) đà sắp xếp rừng thành 16 dạng thực bì
khí hậu, 4 dạng thực bì thổ nhưỡng.
Việc sử dụng ảnh vệ tinh để nghiên cứu về thảm thực ở Việt Nam cũng đÃ
được tiến hành từ rất sớm. Ngay từ những năm 1953-1954 người Pháp đà sử
dụng ảnh máy bay vào nhiều mục đích khác nhau trong đó có lĩnh vực lâm
nghiệp. Nhiều khu vực được lưu ý quan trắc bằng máy bay như Điện Biên (Lai
Châu), Cúc Phương (Ninh Bình), Nà Sản (Sơn La), v.v, cho tới nay vẫn còn giá

c


14

trị. Năm 1962 với sự giúp đỡ của chuyên gia Trung Quốc, chúng ta đà tiến hành
chụp ảnh hàng không phục vụ cho lâm nghiệp, địa chất, thành lập bản đồ địa
hình, v.v, và từ đó đến nay nhiều vùng khác nhau thuộc lÃnh thổ nước ta trong đó
có Nghệ An. Tuy nhiên chỉ từ năm 1980 khi ảnh vệ tinh được đưa vào Việt Nam,
cùng với việc thành lập Uỷ ban nghiên cứu vũ trụ Việt Nam và chương trình
nghiên cứu khoa học cấp nhà nước thì kỹ thuật viễn thám mới phát triển như:
điều tra tài nguyên và nghiên cứu môi trường. Trong lâm nghiệp bản đồ hiện
trạng rừng toàn quốc năm 1983 tỷ lệ 1/500.000 và các bản đồ hiện trạng rừng ở
các cấp tỷ lệ khác nhau ở nước ta đà được thành lập thông qua tư liệu ảnh vệ tinh

do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng - Bộ Lâm nghiệp (cũ) tiến hành đà phục vụ có
hiệu quả cho mục đích điều tra rừng và quy hoạch lâm nghiệp.
Trong lĩnh vực nghiên cứu thảm thực vật thì bản đồ thảm thực vật dải ven
biển Việt Nam thông qua sử dụng phương pháp viễn thám của Phan Kế Lộc và
Phan Phú Đồng (1989) là công trình đầu tiên ở Việt Nam sử dụng ảnh vệ tinh để
nghiên cứu thảm thực vật. Từ đó tới nay nhiều công trình nghiên cứu thảm thực
vật bằng phương pháp viễn thám đà công bố hoặc thực hiện trong các dự án khoa
học ở các cấp khác nhau như:
Thành lập bản đồ và đánh giá thảm thực vật tỉnh Sơn La tỷ lệ 1/100.000
và 1/250.000 do Trần Văn Thuỵ chủ biên với nguồn tài liệu chính là ảnh vệ tinh
LANDSAT-TM năm 1994.
Ngoài ra hàng loạt các công trình khác về thành lập bản đồ thông qua sử
dụng tư liệu viễn thám thuộc các vùng; Lưu vực hồ chứa các nhà máy thuỷ điện
sông Đà, Yaly, Bonron v.v, và các hải đảo Phú Quốc, Cô Tô-Thanh Lâm, Hòn
Khoai, Cồn cỏ, v.v, được thực hiện bởi phòng địa lý sinh vật, Viện Địa lý.
2.2. Điều kiện tự nhiên kinh tế xà hội khu vực nghiên cứu
2.2.1 Vị trí địa lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống nằm ở phía Tây bắc tỉnh Nghệ An và
cách thành phố Vinh về phía Tây bắc, cách Quốc lộ 1A theo đường 48 đi vào từ

c


15

huyện Diễn Châu khoảng 60 km. Khu bảo tồn trải dài từ 190 5' đến 190 29' độ vĩ
bắc và 104043' đến 105016' độ kinh đông.
Khu bảo tồn bị chia cắt với dÃy Bắc Trường Sơn bởi lưu vực sông Cả. Phía
Bắc giáp với Khu BTTN Pù Hoạt nằm trên đường biên giới với Lào, Khu BTTN
Pù Huống hình thành nên hệ thực vật và động vật quanh vành đai của Bắc

Trường Sơn. Vùng bảo vệ nghiên ngặt và vùng ®Ưm Khu BTTN Pï Hng thc
5 hun víi ®Þa phËn 12 x·
Hun Q Phong: 2 x· (C¾m Mn, Quang Phong)
Hun Quỳ Hợp: 3 xà (Châu Thành, Châu Tường, Châu Thái)
Huyện Quỳ Châu: 2 xà (Châu Hoàn, Diễn LÃm)
Huyện Con Cuông: 1 xà (Bình Chuẩn)
Huyện Tương Dương: 4 xà (Nga My, Yên Hoà, Yên Tỉnh và Hữu
Khuông).
2.2.2. Đặc điểm địa hình, thỉ nh­ìng
Pï Hng thc phÝa B¾c cđa khu vùc B¾c miền Trung của Việt Nam.
Khu BTTN có địa hình dốc và nhiều núi non. Đặc điểm cấu trúc địa chất kiến tạo
trong lịch sử hình thành và phát triển của tự nhiên khiến cho Pù Huống có những
dông núi kéo dµi vµ cã xu h­íng cÊu tróc chđ u theo hướng Tây Bắc- Đông
Nam với các đỉnh núi chính trên các dông núi này. Đây là hướng chính của địa
máng và đứt gÃy sông Cả.
Khu BTTN Pù Huống nằm trải dài ở hai mái dông chính chạy từ tam giác
Pù Huống đến Pù Luông với chiều dài 43 km, có hai đỉnh cao nhất là đỉnh Pù
Luông (1447m) và đỉnh Pù Huống (1200m). Từ dông chính có các đường phân
thuỷ đồ về các mái tạo nên các dòng chảy dốc và hiểm trở. Mái dông chảy về
hướng Đông bắc có các dòng chảy Nậm Quang, Nậm Gương, Huồi Bô, Huồi
Phạt, Huồi Phùng Căm, Huồi Lắc, Huồi Khoỏng, Huồi Mục Pán, v.v, tạo nên lưu
vực và đổ nước về sông Hiếu. Mái dông phía Đông Nam có các dòng chảy Nậm
Líp, Huồi Kít, Nậm Ngàn, Nậm Chon, Huồi Ôn v.v, tạo nên các dòng chảy đổ về
khe Bố sau đó đổ về sông Cả.

c


16


Địa hình Pù Huống có tính chất phân bậc khá rõ rệt, có thể chia ra 3 bậc
địa hình.
- Địa hình có bậc độ cao 900m đến 1500m: nằm chủ yếu ở các hướng
dông chính từ tam giác nơi tiếp giáp giữa 3 huyện Con Cuông, Quỳ Hợp, Quỳ
Châu đến đỉnh Pù Lon.
- Địa hình có bậc độ cao 300m ®Õn 900m: gåm c¸c ®åi ®Êt ®á Bazan ë
vïng ®Ưm từ Quỳ Châu đến Quỳ Hợp và các đầu bậc phân thuỷ thấp toả hai bên
các dông chính.
- Địa hình cã bËc ®é cao d­íi 300m: bao gåm chđ u lưu vực sông suối
nhỏ ở hai bên sông Cả và sông Hiếu xen kẻ các đồi núi thấp.
2.2.3. Đặc điểm khÝ hËu
Khu BTTN Pï Huèng n»m trong khu vùc nhiÖt đới ẩm gió mùa, mùa
Đông lạnh, mùa Hè nóng. Mặt khác do địa hình dÃy núi Trường sơn Bắc là dÃy
núi cao có khả năng chắn gió và nằm gần như vuông góc với hướng gió mùa
Đông Bắc và Tây Nam nên đà gây ra mưa lớn ở sườn đón gió và hiệu ứng "Phơn"
khô nóng gió vượt qua dÃy nói Pï Hng lµm cho khu vùc Pï Hng cã mưa
nhiều vào mùa Hạ (tháng 4 đến tháng 10) và khô về mùa Đông (tháng 11 đến
tháng 3 năm sau).
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,50C trong đó nhiệt độ phân
bố không đều qua các tháng, có sự giao động nhiệt độ trong năm rất rõ rệt. Mùa
Đông nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1 (170C) và tháng 12 (18,10C), còn mùa Hè
nhiệt độ cao nhất vào tháng 6 (28,30C) và tháng 7 (28,70C). Biên độ nhiệt giao
động trung bình là 80C.
Lượng mưa: Trung bình hàng năm có lượng mưa đạt 1791,1 mm, có thể
phân biệt 2 thêi kú m­a râ rÖt, thêi kú m­a nhá tõ tháng 4 (trung bình 92mm)
đến tháng 7 (trung bình158,2mm) và thời kỳ mưa lớn từ tháng 8 (trung bình
268,2mm) đến tháng 10 ( trung bình 300,5 mm) và lượng mưa vào mùa Đông là
rất ít (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau).

c



17

Độ ẩm: Có hai mùa khô và ẩm khác nhau. Thời kỳ ẩm kéo dài từ tháng 9
đến tháng 5 năm sau. Độ ẩm trung bình các tháng là 86,0%. Độ ẩm vào mùa khô
lúc có gió Lào xuống thấp vào tháng 6 và tháng 7 (74 và 81%)
Số giờ nắng trung bình /ngày: Trung bình là 4,5 giờ nắng /ngày, trong đó
tháng có giờ nắng cao nhất là tháng 7 (6,7 giờ) tháng có giờ nắng thấp nhất là
tháng 2 (2,3 giờ).
Bảng 1.1 . Một số chỉ tiêu khí hậu thuỷ văn ở Pù Huống

Chỉ
số

Nhiệt độ
(0C)

Lượng mưa
(mm)

Biên độ giao
động nhiệt độ
(0C)

Độ ẩm
(%)

Số giờ nắng
(h)


17
18,1
20,9
24,7
27,5
28,3
28,7
27,6
26,3
24
21
18,1
23,5

35,6
34,4
43,6
92
117,4
163,2
158,2
268,2
386
300,5
104,5
33,5
179,1

6,8

6,1
6,9
8,5
9,9
9,3
10
8,6
7,6
7,3
7,0
7,6
8,0

89
89
89
85
81
81
74
84
87
88
88
87
86

2,8
2,3
2,9

4,6
6,6
5,8
6,7
5,2
5,1
4,8
3,6
3,6
4,5

Tháng

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
TB năm

c



18

2.2.4. Đặc điểm kinh tế xà hội khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Huống thuộc địa phận của 5 huyện (Quế
Phong, Con Cuông, Tương Dương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu) và 12 xÃ. Dưới đây là
một số thống kê về tình hình kinh tế xà hội của 12 xà này:
- Tổng diện tích tự nhiên:

160.483,0 ha

- Đất có rừng:

84.368,1 ha

- Đất không có rừng:

66.976,3 ha

- Ruộng nông nghiệp và đất khác:

9.138,6 ha

- Dân số (Khẩu):

49.699 người

- Số hộ: 8.535 hộ
- Thu nhập bình quân đầu người: 189.160 đồng
(Theo tài liệu của Cục thống kê Nghệ An năm 2002).
Ngoài phần lớn là dân tộc Kinh thì khu vực này còn có rất nhiều dân tộc

anh em chung sống, đó là dân tộc Thái, Khơ Mú, H' Mông, Thổ, Mường, Hoa.
Phần lớn người dân ở đây thường sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp và
nương rẫy, một số lao động tham gia khai thác gỗ, tre nứa và các lâm sản ngoài
gỗ khác. Tình trạng đÃi vàng diễn ra trước đây tại các xà thuộc huyện Tương
Dương và Quế Phong. Tình trạng khai thác vàng làm ảnh hưởng đến môi trường
sông suối và gây sạt lở hai bên bờ sông suối của khu vực này.

c



×