Tải bản đầy đủ (.doc) (188 trang)

Hoàn thiện kỹ năng dạy học cho trợ giảng ở đại học quân sự hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 188 trang )

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA 1
LỜI CAM ĐOAN 2
MỤC LỤC 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ 5
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ 6
MỞ ĐẦU
7
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 12
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN KỸ NĂNG DẠY
HỌC CHO TRỢ GIẢNG Ở ĐẠI HỌC QUÂN SỰ 30
1.1. Các khái niệm cơ bản 30
1.2. Nội dung hoàn thiện kỹ năng dạy học cho trợ giảng ở đại học quân sự 47
1.3.
Con đường hoàn thiện thiện kỹ năng dạy học và các tiêu chí
đánh giá kỹ năng dạy học của trợ giảng ở đại học quân sự
55
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA HOÀN THIỆN KỸ NĂNG
DẠY HỌC CHO TRỢ GIẢNG Ở ĐẠI HỌC QUÂN SỰ
HIỆN NAY 61
2.1. Đặc điểm của trợ giảng ở đại học quân sự hiện nay
61
2.2. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới quá trình hoàn thiện kỹ năng
dạy học cho trợ giảng ở đại học quân sự hiện nay 64
2.3. Thực trạng và một số kinh nghiệm hoàn thiện kỹ năng dạy học cho trợ
giảng ở đại học quân sự hiện nay 68
Chương 3 BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN KỸ NĂNG DẠY HỌC CHO
TRỢ GIẢNG Ở ĐẠI HỌC QUÂN SỰ HIỆN NAY 90
3.1. Bổ sung kiến thức sư phạm, kinh nghiệm sư phạm cần thiết cho trợ giảng 90


3.2. Quy trình hóa hoạt động rèn luyện kỹ năng chuẩn bị và tiến hành
bài giảng của trợ giảng 94
3.3.
Rèn các kỹ năng dạy học cơ bản cho trợ giảng thông qua thực
tiễn hoạt động nghiệp vụ sư phạm thường xuyên
106
3.4.
Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng dạy học
cho trợ giảng theo hướng kết hợp truyền thống với hiện đại
112
Chương 4 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 125
4.1. Những vấn đề chung của thực nghiệm 125
4.2.
Xử lý và phân tích kết quả sau tác động thực nghiệm
135
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
154
PHỤ LỤC
162
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
1 Bài giảng BG
2 Chính trị quốc gia CTQG
3 Đảng uỷ Quân sự Trung ương ĐUQSTƯ
4 Đại học quân sự ĐHQS

5 Đơn vị cơ sở ĐVCS
6 Đối chứng ĐC
7 Giáo dục GD
8 Giáo dục học GDH
9 Giảng viên GV
10 Học viên HV
11 Khoa học xã hội và nhân văn KHXH&NV
12 Kỹ năng KN
13 Kỹ năng dạy học KNDH
14 Nhà xuất bản Nxb
15 Quân đội nhân dân QĐND
16 Số lượng SL
17 Tâm lí học TLH
18 Thực nghiệm TN
19 Trợ giảng TG
20 Xã hội chủ nghĩa XHCN
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
TT
Tên bảng,
biểu đồ
Nội dung Trang
1 1.1 Bảng tiêu chí đánh giá KN chuẩn bị và tiến hành BG của TG 58
2 2.4 Bảng tổng hợp kết quả điều tra nhận thức về sự quan tâm
của trợ giảng và cán bộ, GV về hoàn thiện KNDH 78
3 4.1 Bảng các tiêu chí đánh giá và thang đánh giá KN chuẩn bị
và tiến hành BG của TG 130
2
4 4.2 Phân phối tần số điểm đánh giá trình độ đầu vào KNDH
của các nhóm ở hai cơ sở TN 134
5 4.3 Kết quả khảo sát trình độ đầu vào KNDH của các nhóm ở

hai cơ sở TN 134
6 4.4 Bảng thống kê kết quả sau TN về sự tiến bộ của KNDH ở
cơ sở TN 1 137
7 4.5 Bảng phân phối tần suất về sự tiến bộ của KNDH ở nhóm
TN và ĐC tại cơ sở TN 1 137
8 4.6 Bảng phân phối tần suất tích luỹ kết quả về sự tiến bộ của
KNDH ở nhóm TN và ĐC tại cơ sở TN 1 137
9 4.7 Mức độ tiến bộ về KNDH sau TN ở cơ sở thực nghiệm 1 138
10 4.8 Bảng phân phối các tham số đặc trưng về sự tiến bộ của các
KNDH ở nhóm TN và nhóm ĐC tại cơ sở TN 1 139
11 4.9 Bảng thống kê kết quả sau TN về sự tiến bộ của các
KNDH ở nhóm TN và ĐC tại cơ sở TN 2 142
12 4.10 Bảng phân phối tần suất về kết quả sự tiến bộ của các
KNDH ở nhóm TN và nhóm ĐC tại cơ sở TN 2 142
13 4.11 Bảng phân phối tần suất tích luỹ kết quả sự tiến bộ của các
KNDH ở nhóm TN và nhóm ĐC tại cơ sở TN 2 142
14 4.12 Mức độ tiến bộ về KNDH sau TN ở cơ sở TN 2 143
15 4.13 Bảng phân phối các tham số đặc trưng về sự tiến bộ của
các KNDH ở nhóm TN và ĐC tại cơ sở TN 2 144
16 4.14 Bảng so sánh kết quả đánh giá về tính tích cực hoàn thiện
KNDH của TG ở các nhóm TN và nhóm ĐC 148
17 2.1 Tổng hợp kết quả điều tra các KNDH cần hoàn thiện cho
TG ở ĐHQS 178
18 2.2 Bảng tổng hợp kết quả tự đánh giá của TG về trình độ KNDH 179
19 2.3 Bảng tổng hợp kết quả đánh giá của cán bộ, GV về trình độ
KNDH của TG 180
20 2.5 Bảng tổng hợp kết quả đánh giá của TG về tổ chức các
hoạt động sư phạm nhằm hoàn thiện KNDH 181
21 2.6 Bảng tổng hợp kết quả đánh giá của cán bộ, GV về tổ chức
các hoạt động hoàn thiện KNDH cho TG 182

22 2.7 Bảng tổng hợp kết quả tự đánh giá của TG về tính tích cực khi
tham gia các hoạt động hoàn thiện KNDH 183
23 2.8 Bảng tổng hợp kết quả đánh giá của cán bộ, GV về tính tích cực của
TG khi tham gia các hoạt động hoàn thiện KNDH 184
3
24 2.1 Biểu đồ so sánh nhận thức về sự cần thiết của các KNDH giữa
TG và cán bộ, GV 73
25 2.2 Biểu đồ so sánh nhận thức của TG và cán bộ GV về hoàn
thiện KNDH 78
26 2.3 Biểu đồ kết quả đánh giá của trợ giảng về tổ chức các hoạt
động sư phạm nhằm hoàn thiện kỹ năng dạy học 81
27 2.4 Biểu đồ kết quả đánh giá của cán bộ, GV về tổ chức các hoạt
động sư phạm nhằm hoàn thiện KNDH 81
28 4.1 Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra đầu vào trình độ KNDH
của nhóm TN và nhóm ĐC tại cơ sở TN 1 134
29 4.2 Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra đầu vào trình độ KNDH
của nhóm TN và nhóm ĐC tại cơ sở TN 2 135
30 4.3 Biểu đồ so sánh về sự tiến bộ của các KNDH ở nhóm ĐC
và nhóm TN tại cơ sở TN 1 138
31 4.4 Biểu đồ so sánh kết quả sự tiến bộ của các KNDH ở nhóm
ĐC và nhóm TN tại cơ sở TN 2 143
4
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ
TT
Tên đồ
thị, Sơ đồ
Nội dung Trang
1 2.1 Đồ thị so sánh kết quả tự đánh giá của TG về tính tích cực khi
tham gia các hoạt động hoàn thiện KNDH 83
2 2.2 Đồ thị so sánh kết quả đánh giá của cán bộ, GV về tính tích

cực của TG khi tham gia các hoạt động hoàn thiện KNDH 84
3 4.1 Đồ thị biểu diễn tần suất tích lũy về sự tiến bộ của KNDH ở
nhóm TN và nhóm ĐC tại cơ sở TN 1 138
4 4.2 Đồ thị biểu diễn tần suất tích lũy về sự tiến bộ KNDH của
nhóm TN và nhóm ĐC tại cơ sở TN 2 143
5 1.1 Mối quan hệ giữa hai thành tố trong cấu trúc của KN 34
6 1.2 Cấu trúc quá trình phát triển KNDH trong các chức
danh nhà giáo ở ĐHQS 43
7 1.3 Hệ thống các KNDH cần hoàn thiện cho TG ở ĐHQS 55
8 3.1 Sơ đồ quy trình hoàn thiện KN chuẩn bị và tiến hành
BG của TG 96
9 2.1 Mối quan hệ của các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới quá
trình hoàn thiện KNDH cho TG ở trường ĐHQS 177
10 4.1 Sơ đồ khái quát quá trình thực nghiệm 185
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Trợ giảng là một trong những giai đoạn của các chức danh nhà giáo, là
bước quan trọng để xây dựng nền tảng vững chắc cho các phẩm chất và năng lực
5
sư phạm của người GV. Hoàn thiện KNDH cho TG là nhiệm vụ thường xuyên
trong quá trình bồi dưỡng, phát triển đội ngũ GV ở trường ĐHQS hiện nay. Thực
tiễn sư phạm cho thấy, trong quá trình phát triển đội ngũ GV, TG được quan tâm
rèn luyện, hoàn thiện thường xuyên sẽ tạo ra một thế hệ GV kế cận có năng lực sư
phạm tốt, có phẩm chất nhân cách mẫu mực, thực sự là tấm gương mẫu mực cho
HV noi theo. Tuy nhiên, hoàn thiện KNDH cho TG hiện nay đang gặp rất nhiều
khó khăn trong cả lý luận và thực tiễn, đòi hỏi cần có một cơ sở khoa học xác
đáng, phương hướng, biện pháp thực hiện phù hợp, khả thi với trường ĐHQS, sự
phối hợp đồng bộ của các chủ thể mới tạo sự chuyển biến tích cực.
Đề tài Luận án “Hoàn thiện KNDH cho TG ở ĐHQS hiện nay” được thực
hiện với mong muốn đưa ra các kiến giải khoa học góp phần nâng cao chất lượng

thực hiện nhiệm vụ, hoàn thiện KNDH cho TG trong thời gian tập sự. Để thực hiện
đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận hoàn thiện KNDH cho
TG; đánh giá thực trạng trình độ KNDH và thực trạng hoàn thiện KNDH cho TG ở
trường ĐHQS, tìm ra những nguyên nhân chủ yếu. Từ đó, đề xuất biện pháp hoàn
thiện KNDH cho TG ở ĐHQS. Kết cấu của đề tài gồm phần mở đầu, 4 chương, kết
luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Để phát triển đất nước, đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, Đảng ta
đã xác định rõ: “phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then
chốt” [16, tr.131]. Trong đó, chú trọng nâng cao trình độ tay nghề, bồi dưỡng
năng lực sư phạm và đạo đức nhà giáo, đảm bảo đội ngũ nhà giáo “đủ về số
lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng” [16, tr.216].
Hoàn thiện KN nghề nghiệp là một yêu cầu thường xuyên của bất cứ
ngành nghề nào. KNDH là một trong những KN quan trọng của người GV ở
ĐHQS, là bộ phận cấu thành năng lực sư phạm trong cấu trúc văn hoá sư phạm
của người GV, không có KNDH hoặc KNDH yếu, GV sẽ không đảm nhiệm
được chức năng chủ yếu của mình. Hoàn thiện KNDH là yêu cầu thường xuyên,
liên tục và bắt buộc đối với người GV nói chung, trong ĐHQS nói riêng. Nghị
6
quyết số 86 của ĐUQSTƯ về Công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới đã
chỉ rõ: “Chú trọng về nâng cao trình độ học vấn, năng lực và tay nghề sư phạm,
kinh nghiệm thực tiễn” [19, tr.22]. Đây cũng là những yêu cầu cấp thiết đặt ra
đối với mỗi GV trong qúa trình tự hoàn thiện mình. Những năm qua, nhìn chung
đội ngũ GV ở ĐHQS đã đảm đương được nhiệm vụ, phát huy được chức năng
của mình trong giáo dục và đào tạo. Một số GV phát triển tốt cả về phẩm chất và
năng lực sư phạm, trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, đứng
trước yêu cầu mới, chất lượng đội ngũ giáo viên nhà trường quân đội còn:
“Thiếu về số lượng và tỷ lệ đạt chuẩn về chất lượng còn thấp…Kết quả tự học,
tự nghiên cứu của một số nhà giáo còn hạn chế”[19, tr.7].
Trong quá trình đào tạo tại các nhà trường, HV được trang bị hệ thống

kiến thức và KN sư phạm chung cho hoạt động nghề nghiệp tương lai. Sau
khi ra trường nhận công tác ở các trường ĐHQS, để trở thành GV, họ phải
trải qua thời gian làm TG để tiếp tục hoàn thiện những phẩm chất và năng lực
đáp ứng yêu cầu thực tiễn sư phạm quân sự. Thời kỳ TG chính là giai đoạn
“quá độ” quan trọng để họ có thể chuyển hoá từ HV thành GV, đây cũng là
thời gian để TG tập làm các công việc của người GV trong thực tiễn nghề
nghiệp.
Trợ giảng là lực lượng GV kế cận quan trọng ở các trường ĐHQS.
Thực tiễn sư phạm hiện nay cho thấy, TG sau khi được phân công đảm
nhiệm công tác giảng dạy đã phát huy được vai trò, chức trách của mình,
thường xuyên tự bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện tay nghề sư phạm, tu
dưỡng phẩm chất nhân cách. Nhiều đồng chí đã vươn lên trở thành GV
có uy tín trong công việc và trong cuộc sống. Tuy nhiên, vẫn còn một số
đồng chí trong thời kì TG chất lượng thực hiện nhiệm vụ còn chưa cao;
nắm và vận dụng các KNDH vào thực tiễn sư phạm quân sự còn lúng
túng, nhiều KNDH còn chưa thành thạo (kể cả những KNDH đơn giản); “Khả
năng tư duy, năng lực thực hành độc lập sáng tạo và quản lý bộ đội còn yếu”[17,
7
tr.3], chưa đáp ứng được yêu cầu chức trách, nhiệm vụ; chậm thích ứng với những
biến đổi nhanh chóng của thực tiễn sư phạm quân sự; một số KNDH cơ bản chưa
được chú ý và rèn luyện đúng mức, nặng về làm theo mẫu đơn thuần; chất lượng
BG chưa cao, chưa làm chủ được nội dung và phương pháp, cách thức truyền đạt
kiến thức còn đơn điệu Nguyên nhân, do TG nặng về học theo, bắt chước, chưa
tích cực rèn luyện KNDH; phương pháp tư duy sư phạm của một bộ phận TG còn
yếu; trải nghiệm thực tiễn sư phạm quân sự, lãnh đạo, chỉ huy còn ít; một số chưa
qua đào tạo sư phạm. Mặt khác, công tác bồi dưỡng, hoàn thiện KNDH nói riêng,
năng lực sư phạm nói chung của lãnh đạo, chỉ huy các cấp cho TG còn ít được quan
tâm tổ chức thường xuyên, trong khi “Kết quả tự học, tự nghiên cứu của một số nhà
giáo còn hạn chế” [19, tr.7], các tiêu chí và xét công nhận các chức danh nhà giáo ở
ĐHQS còn chưa thống nhất đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng thực hiện

nhiệm vụ và ý chí vươn lên của TG. Quá trình hoàn thiện KNDH cho TG trong các
trường ĐHQS hiện nay còn mang tính tự phát, chưa có kế hoạch, nội dung, chương
trình hoàn thiện cụ thể. Một số TG bằng lòng với hiện tại, sự tiến bộ còn chậm.
Hiện nay, trước yêu cầu của chiến tranh hiện đại, nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đã và đang đặt ra những yêu cầu cao
trong việc chuẩn hoá chất lượng đội ngũ GV ở ĐHQS, buộc họ phải không
ngừng trau dồi, tự hoàn thiện thường xuyên mới có thể thực hiện tốt nhiệm
vụ. Đặc biệt, trước yêu cầu đổi mới nền giáo dục, nâng cao chất lượng dạy
học ở các trường ĐHQS thì việc hoàn thiện KNDH cho TG trong thời kỳ tập
sự là một trong những vấn đề cấp thiết để tạo ra một thế hệ GV kế cận có
“tâm”, có “tầm”, hết lòng phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân. Từ những
lý do cơ bản trên, chúng tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện kỹ năng dạy học cho trợ
giảng ở đại học quân sự hiện nay", để nghiên cứu với mong muốn góp phần
đưa ra những kiến giải khoa học trước thực trạng nêu trên.
3. Mục đích nghiên cứu
8
Đề xuất các biện pháp hoàn thiện KNDH cho TG nhằm góp phần nâng
cao năng lực sư phạm của TG trong các trường ĐHQS hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Quá trình bồi dưỡng GV ở các trường ĐHQS.
* Đối tượng nghiên cứu: Hoàn thiện KNDH cho TG ở các trường ĐHQS.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài đi sâu nghiên cứu tìm ra các biện pháp hoàn thiện KNDH cho TG trong
thời gian tập sự, làm cho KNDH của họ thuần thục hơn, chuẩn bị và tiến hành BG
trên lớp đạt hiệu quả hơn. Sau thời gian tập sự, TG có đủ điều kiện để trở thành GV.
Kỹ năng dạy học bao gồm hệ thống rất nhiều các KN và nằm trong hệ
thống các KN sư phạm có quan hệ biện chứng với nhau. Đề tài không đi sâu
vào nghiên cứu các KNDH mà dựa trên hệ thống các KNDH của người GV ở
ĐHQS, chúng tôi tập trung đi sâu vào hoàn thiện KN chuẩn bị và tiến hành
BG trên lớp (lý thuyết) cho TG với các KN cơ bản, phục vụ cho hoạt động

dạy học của TG trong thời gian tập sự đạt hiệu quả.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5.1. Những đóng góp mới của Luận án
Luận án làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của hoàn thiện
KNDH cho TG ở các trường ĐHQS. Với cách tiếp cận, tác giả đã đưa ra quan
niệm mới về hoàn thiện KNDH cho TG ở ĐHQS hiện nay. Theo đó, hoàn
thiện KNDH là một khái niệm động, được tiến hành thường xuyên đối với
GV đại học nói chung, GV ở ĐHQS nói riêng. Mục tiêu và nội dung hoàn
thiện kỹ năng dạy học cho trợ giảng là hoàn thiện theo chuẩn chức danh nhà
giáo, đồng thời hoàn thiện theo yêu cầu phát triển mới của lý luận dạy học và
thực tiễn sư phạm quân sự. Đặc biệt, Luận án đã xây dựng được hệ thống các
KNDH cơ bản mà TG cần hoàn thiện trong thời gian tập sự.
9
Luận án đã đề xuất các biện pháp và quy trình hoàn thiện KNDH của
TG trong thời gian tập sự, đây cũng là quy trình chung góp phần hoàn thiện
KNDH cho GV ở trường ĐHQS hiện nay.
5.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần bổ sung, phát triển làm
phong phú thêm kho tàng lý luận và thực tiễn hoạt động bồi dưỡng GV ở
ĐHQS hiện nay, đặc biệt sẽ là nội dung tham khảo hữu ích trong công tác xây
dựng, phát triển lực lượng GV ở các trường ĐHQS.
Trên cơ sở hướng tới tìm ra các biện pháp hoàn thiện KNDH cho TG,
Luận án còn có ý nghĩa nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các cấp lãnh
đạo, quản lý trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, xây dựng và phát
triển đội ngũ GV ở các trường ĐHQS hiện nay; bồi dưỡng, rèn luyện thói
quen hành vi, KN và phương pháp tự hoàn thiện cho TG.
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
10
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1. Những nghiên cứu về kỹ năng dạy học và hoàn thiện kỹ năng

dạy học trên thế giới
Trong lịch sử phát triển của giáo dục thế giới, các nhà sư phạm đã sớm
nhận ra vai trò của KNDH và hoàn thiện KNDH đối với người thầy.
Ngay từ thời Cổ đại, các nhà tư tưởng tiến bộ đã đề cập nhiều đến vấn
đề năng lực và phẩm hạnh của người giáo viên. Có thể kể tên một số nhà giáo
dục tiêu biểu như: Socrate, Platon, Aristote, Khổng Tử, Mạnh tử…
Khổng Tử (551 - 479 TCN), người được mệnh danh là "Vạn thế sư
biểu" (Người thầy của muôn đời) đã chỉ rõ: Trong giảng dạy, người thầy phải
biết cách (KN) để truyền thụ kiến thức cho học trò như: Dụ: ví von. Đạo:
hướng dẫn. Trợ: giúp đỡ. Khải: mở mang. Phát: khêu gợi. "Tuần tuần thiện dụ
nhân" (Thầy khéo dẫn dắt người từng bước, mở rộng tri thức ta bằng văn
chương, ước thúc hành vi ta bằng lễ tiết, khiến ta muốn ngừng hoạt động cũng
không thể được). Cách dạy học của Khổng Tử là sự gợi mở để trò tự tìm ra
chân lý, thầy không bao giờ làm thay, bày sẵn cho người học mà phải bằng sự
khéo léo, hướng dẫn, khêu gợi, mở mang tạo nên ở người học sự hứng thú,
tích cực, độc lập nhận thức trong quá trình dạy học [5, tr.8 - 13]. Hay là quan
điểm: “Học hải vô nhai” (Biển học vô bờ), qua đó nhắc nhở cả thầy và trò
không bao giờ được sao nhãng việc học tập, biết tự trau dồi học vấn để trở
thành người có ích cho xã hội. Đặc biệt, với người thầy giáo, Ông luôn đề ra
yêu cầu cao trong việc phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức và trí tuệ để làm
gương cho học trò noi theo. Mặc dù không đề cập trực tiếp tới hoàn thiện
KNDH nhưng Khổng Tử đã chỉ ra vai trò quan trọng của việc tu dưỡng những
phẩm chất và năng lực của người thầy giáo. Người thầy phải trở thành hình
ảnh mẫu mực nhất, toàn diện nhất trong học trò.
Socrate (469 – 399 TCN), đã sáng tạo ra phương pháp tranh luận
(Thuật đỡ đẻ) trong dạy học với những KN gợi mở cần thiết của người thầy
giúp cho người học tự suy nghĩ, tự tìm tòi và tự tìm ra chân lý. Ở mức độ nào
11
đó, Socrate đã đưa ra được các yêu cầu trong tổ chức quá trình nhận thức của
người học với cách thức, phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học hướng tới

phát huy được sự sáng tạo của học sinh, làm cho họ tích cực, chủ động
nhận thức nhằm nâng cao hiệu quả dạy học [63, tr.40]. Ông đã đưa ra yêu
cầu cao với người thầy giáo là phải thường xuyên trau dồi kiến thức, phẩm
chất đạo đức. Theo Ông, kiến thức là thực tiễn cuộc sống, chân lý có sẵn
trong mỗi con người là vô tận, điều quan trọng là mỗi người phải tự mình
tìm ra nó để tự hoàn thiện mình.
Từ thời kỳ Phục hưng trở đi, vấn đề KNDH và hoàn thiện KNDH của
người thầy giáo trong các nhà trường được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn
với những quan điểm khoa học và những hoạt động cụ thể được tiến hành
nhằm nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên, các nghiên cứu gắn với tên
tuổi của các nhà sư phạm nổi tiếng như : Mông-te-nhơ (Pháp), Kômenxki
(Tiệp Khắc), Rút-xô (Pháp), Usin-xki (Nga), Đitexvec Trong đó, nổi bật là
tư tưởng của Kômenxki (1592 - 1670), người được mệnh danh là “Ông tổ của
nền sư phạm cận đại” cho rằng: người thầy phải có phương pháp giảng dạy
thích hợp với từng đối tượng và sáng tạo nhiều phương pháp phong phú như:
đàm thoại, kể chuyện, câu đố; người giáo viên phải quan tâm tìm tòi tất cả
mọi con đường dẫn tới việc mở mang trí tuệ và tận dụng hợp lí những con
đường đó. Kômenxki luôn qúy trọng, đề cao và tôn vinh nghề dạy học và
chức vị giáo sư (giáo viên). Với vị trí, chức năng của nghề dạy học, Ông yêu
cầu người thầy phải mẫu mực, trong sáng về đạo đức và tác phong, có lòng
nhân ái: “Không thể trở thành người thầy nếu không phải là một người
cha”[63, tr.88]. Người thầy giáo không chỉ cần tấm lòng bao dung, độ lượng
của một người cha, mà còn biết không ngừng mệt mỏi tìm kiếm phương thức
mở mang trí tuệ cho người học, đồng thời mở mang trí tuệ cho chính bản thân
12
mình. Với ý nghĩa như vậy, Kômenxki cũng đã yêu cầu người thầy giáo phải
biết không ngừng tự hoàn thiện mình.
Cũng đề cao vai trò của người thầy giáo, theo Usinxki (1824 - 1870)
người thầy giáo là cầu nối giữa quá khứ và tương lai, sự nghiệp của người
thầy giáo là sự nghiệp vĩ đại nhất trong lịch sử. Trong dạy học và giáo dục, ông

cho rằng: “Điều chủ yếu là nhân cách của người giáo viên trực tiếp làm việc với
học sinh. Nhân cách của nhà giáo dục có sức mạnh giáo dục to lớn đến mức
không thể thay thế bằng sách giáo khoa, bằng lời khuyên bảo về đạo đức, bằng
hệ thống khen thưởng và kỷ luật nào cả” [10, tr.75]. Đánh giá cao vai trò, tầm
quan trọng của người thầy trong giáo dục, Usinxki là người đầu tiên trong lịch
sử giáo dục thế giới đã đề xuất ý tưởng thành lập trường sư phạm, trường chuyên
làm nhiệm vụ đào tạo giáo viên. Qua môi trường chuyên biệt đó, các phẩm chất
và năng lực sư phạm của người giáo viên được hình thành, rèn luyện và phát
triển một cách có hệ thống và khoa học. Đây là cơ sở quan trọng giúp người giáo
viên tự hoàn thiện tay nghề trước những yêu cầu của thực tiễn sư phạm.
Nhưng phải đến thế kỷ XX, vấn đề KNDH và hoàn thiện KNDH cho
người thầy giáo mới được đề cập một cách chi tiết và khoa học.
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, hầu hết các nước trên thế giới đều rất
quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đào tạo, rèn luyện kỹ xảo, KN nghề
nghiệp sư phạm. Đặc biệt, ở Liên Xô (trước đây) và các nước XHCN ở Đông
Âu, hàng loạt các công trình nghiên cứu về vấn đề này đã ra đời. Dựa trên nền
tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhiều nhà giáo dục đã tiếp tục khẳng
định sự cần thiết và tầm quan trọng của các KNDH, hoàn thiện KNDH của
người giáo viên nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học. Đặc biệt, các
nghiên cứu về KNDH, hoàn thiện KNDH không chỉ hướng tới mục đích giúp
học sinh sau khi ra trường có thể thích ứng nhanh với nghề nghiệp mà còn
hướng tới cho họ khả năng tự hoàn thiện, tự đào tạo mình trong cuộc sống.
13
Antôn Sêmiônôvic Makarenko (1888 - 1939) là nhà giáo dục Xô Viết
lỗi lạc, khi bàn về vấn đề này, Ông đã yêu cầu người thầy giáo phải rèn luyện,
học tập và tự hoàn thiện mình về phẩm chất tư cách, năng lực. Ông cho rằng:
“Tôi đi đến một niềm tin sâu sắc là không có nhà giáo dục nào cả còn tốt hơn
là có những nhà giáo dục tự rèn luyện kém’’[63, tr.272]. Ông đã chỉ ra một số
nghệ thuật giáo dục mà nhà giáo dục phải rèn luyện và hoàn thiện như: Phải
biết giọng nói của mình như thế nào, nói năng với học sinh ra sao, nói gì và

khi nào nên nói. Với ông thì một người thầy giáo không làm chủ được vẻ mặt
hoặc khí sắc là một nhà giáo không tốt. Phải biết giữ dáng điệu, phải biết đùa
cợt, phải biết vui buồn và có khả năng điều khiển học sinh. Phải biết xử lý
mọi cử chỉ để nó có tác dụng giáo dục [63, tr.272], để có được KN đó đòi
hỏi người thầy giáo phải khổ công rèn luyện, biết tự hoàn thiện mình mãi mãi.
Đầu những năm 60 của thế kỷ XX, O.A. Apdullina với công trình:
“Bàn về KN sư phạm”, đã nêu rõ từng loại KN sư phạm của người giáo viên,
đồng thời đi sâu phân tích KN chung và KN chuyên biệt trong hoạt động
giảng dạy và giáo dục của họ. Đặc biệt, tác giả đã đề cập đến KNDH và đã đề
xuất những biện pháp phát triển các KN đó ở người giáo viên. Ông nhấn
mạnh vai trò của KNDH đối với người giáo viên, việc phát triển các KN đó
không chỉ khi họ còn ngồi trên ghế nhà trường sư phạm mà ngay cả khi họ đã
tốt nghiệp, trên cương vị thực tế của mình. Cùng quan điểm đó, Ph.N.
Gônôbôlin trong tác phẩm: “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên” đã
đưa ra những năng lực sư phạm, mà sinh viên cần rèn luyện và phát triển.
Theo Ông, phát triển và hoàn thiện các năng lực cho sinh viên phải được tổ
chức thường xuyên ở trên lớp và trong thực tập sư phạm, đây là các cơ hội cơ
hội để "lần đầu tiên" "lựa chọn", "lắp ráp", "ứng dụng" các thuộc tính tâm lý của
người giáo viên vào những yêu cầu hoạt động sư phạm" [24, tr.111], từng bước
giúp sinh viên rèn luyện và tự hoàn thiện năng lực sư phạm của mình. Đối với
14
người giáo viên sau khi tốt nghiệp ra trường, Ông cho rằng: “Dù cho việc học
tập trong nhà trường sư phạm có ý nghĩa to lớn thế nào đi chăng nữa trong việc
đào tạo người giáo viên tương lai, nhưng trong bốn bức tường của nhà trường
không thể nảy sinh ra một con người có những năng lực sư phạm đã được hình
thành đầy đủ” [24, tr.11]. Như vậy, sự phát triển các năng lực sư phạm của
người giáo viên chủ yếu diễn ra trong quá trình họ công tác trong nhà trường;
hoạt động sư phạm sáng tạo đòi hỏi lao động căng thẳng hàng ngày; sự giúp đỡ
của lãnh đạo, đồng nghiệp lớn tuổi đối với các giáo viên mới vào nghề chỉ là
những góp ý và chỉ dẫn chung. Còn bản thân người giáo viên phải giải quyết

nhiều nhiệm vụ khó khăn. Và chính ở đây, trong quá trình lao động thực sự sáng
tạo và đầy tính trách nhiệm, các năng lực sư phạm của họ mới được thực sự hình
thành. Tác phẩm giúp cho GV trẻ mới bước vào nghề thấy được những yêu cầu
mà nghề nghiệp đề ra cho họ, họ cần rèn luyện và phát triển các năng lực sư
phạm như thế nào, đặc điểm của công tác giáo dục và giảng dạy là gì để rèn
luyện tay nghề một cách đầy đủ, có hệ thống và vững chắc hơn. Đây chính là cơ
sở lý luận để khẳng định hoàn thiện KN sư phạm nói chung, KNDH nói riêng
phải được tiến hành thường xuyên, liên tục ở mỗi giai đoạn, mỗi mức độ phát
triển khác nhau trong nghề dạy học của người GV.
Những năm 70, nhiều công trình nghiên cứu về KNDH và hoàn thiện
KNDH cho giáo viên ra đời nhằm nâng cao chất lượng quá trình dạy học, đào
tạo nguồn nhân lực. Tiêu biểu có các tác giả như: M. Ia. Côvaliôv, Iu.K.
Babanxki, N.I. Bônđưrev… Nổi bật là công trình nghiên cứu của X.I.
Kixegop: “Hình thành các KN, kỹ xảo sư phạm trong điều kiện giáo dục đại
học”. Tác giả đã khẳng KNDH được hình thành thông qua luyện tập, qua rèn
luyện nghiệp vụ trong nhà trường sư phạm. Ông đã chia thực tập sư phạm của
sinh viên làm 2 giai đoạn: Thực tập tập luyện và thực tập tập sự. Ở giai đoạn thứ
nhất, sinh viên cần hình thành các KN, như: KN thiết kế, KN kiến thiết, KN
15
nhận thức, KN tổ chức, KN giao tiếp Ở giai đoạn thứ hai, ông cho rằng điều
cốt yếu của sinh viên là tiếp thu các KN đó để tiến hành giờ lên lớp có hiệu quả.
Mặc dù Kixegop đã đưa ra hệ thống các KNDH và luận chứng khoa học về quá
trình hình thành và phát triển chúng trong rèn luyện tay nghề sư phạm cho sinh
viên. Tuy nhiên, việc rèn luyện, hoàn thiện các KNDH đó như thế nào sao khi họ ra
trường thì chưa được bàn đến. Cùng với X.I. Kixegop, O.A.Apđulinna cũng đã luận
chứng đưa ra một hệ thống các KN giảng dạy và các KN giáo dục riêng biệt, các
KN được mô tả cụ thể theo thứ bậc. Trong nghiên cứu, các tác giả đã liệt kê được
hơn 100 KN nghiệp vụ giảng dạy và giáo dục, trong đó tập trung vào 50 KN cần
thiết nhất, được phân chia luyện tập theo từng thời kỳ thực hành, thực tập cụ thể.
Các KN giảng dạy và KN giáo dục được các tác giả mô tả theo thứ bậc.

Một số nước phương Tây và tư bản phát triển như Hoa Kỳ, Canada,
Úc… cũng quan tâm đến KNDH của người thầy giáo trong việc tạo ra hứng
thú học tập cho học sinh. Các nghiên cứu đã có nhiều khám phá trong việc tổ
chức rèn luyện, hoàn thiện KNDH cho sinh viên theo những luận điểm của các
nhà TLH hành vi như J. Watson 1926, A. Pojoux 1926, F. Skinner 1963…
Những công trình tiêu biểu như: The process of learning của J.B Bigs và
R.Tellfer, 1987; Beginning teaching của K.Barry và L.King 1993 đang được sử
dụng và đưa vào giáo trình thực hành lý luận dạy học trong đào tạo giáo viên ở
Úc và một số nước khác.
Trung Quốc là quốc gia gần gũi với Việt Nam, công cuộc cải cách giáo
dục của họ đang được tiến hành rất mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực phương
pháp giảng dạy. Những cách dạy học trước đây được các nhà sư phạm làm
mới lại theo tinh thần coi người học là trung tâm, một trong những nghiên cứu
về KNDH và hoàn thiện KNDH nổi bật là “Bộ sách bồi dưỡng KNDH môn
Ngữ văn cho giáo viên Trung học cơ sở, Trung học phổ thông”. Bộ sách gồm
6 cuốn, giới thiệu và huấn luyện các KNDH rất cơ bản của người giáo viên
16
như: KN tổ chức lớp – KN biến hoá trong giảng dạy [13], KN giảng giải, KN
nêu vấn đề [14], KN dẫn nhập, KN kết thúc [20], KN phản hồi, KN luyện tập
[28], KN trình bày bảng, KN trình bày trực quan [81], KN ngôn ngữ, KN
nâng cao hiệu quả học tập [89]. Các KN trên được trình bày kỹ lưỡng về cơ
sở lý thuyết kèm theo các BG mẫu minh họa. Theo các tác giả, thông qua việc
bồi dưỡng nâng cao các KNDH này:
Sinh viên sư phạm có thể có được trình độ cơ bản để đảm nhiệm
công việc dạy học của người giáo viên; người giáo viên mới vào
nghề có thể làm cho KNDH của mình được chuẩn hoá, thuần thục
hơn, nhanh chóng đáp ứng được những yêu cầu trong công tác giảng
dạy; giáo viên lâu năm thì có thể tôi luyện nghệ thuật dạy học của
mình thành thạo, điêu luyện hơn, đồng thời kết hợp giữa kinh
nghiệm dạy học phong phú của bản thân với kiến thức chuyên

ngành để hình thành được phong cách và mầu sắc độc đáo trong
giảng dạy [89, tr.7].
Có thể nói, đây là bộ sách đầu tiên được biên soạn chi tiết nhằm hoàn
thiện KNDH môn Ngữ văn cho giáo viên trung học cơ sở và trung học phổ
thông. Đây là những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn sinh động để tiến hành
hoàn thiện các KNDH cho GV đại học.
Theo UNESCO: Người thầy giáo thế kỷ XXI phải là một nhà chuyên
môn nắm vững khoa học cơ bản, thấm nhuần một khoa học sư phạm mới dựa
trên cơ sở liên ngành, có khả năng đối thoại với sinh viên, chuẩn bị cho sinh
viên lựa chọn và sử dụng một cách có phê phán các thông tin công cộng và làm
quen với một vài nguyên tắc cơ bản về giáo dục người lớn. Khuyến cáo trên của
UNESCO muốn đi đến một khẳng định, giáo viên phải được đào tạo để trở thành
những nhà giáo dục hơn là trở thành người “thợ dạy”. Người giáo viên không phải
là một cỗ máy dạy học cứng nhắc mà họ phải là người thổi linh hồn vào các BG
17
thông qua vận dụng hiệu quả các KNDH. Người giáo viên phải là tấm gương mẫu
mực về đạo đức, học tập và rèn luyện không ngừng nghỉ để học sinh noi theo.
Khi bàn về xã hội tương lai là “xã hội dựa vào tri thức”, “kiến thức là sức
mạnh”, với mục tiêu đào tạo những con người hiếu học, một “xã hội học tập”, R.
Singh đã yêu cầu cần nhận thức lại vai trò của người giáo viên trong dạy học. Ông cho
rằng:
Giáo viên không chỉ là người truyền thụ những phần tri thức rời rạc,
giáo viên phải là người cố vấn, hướng dẫn, người mẫu mực của người
học. Để có được điều đó, giáo viên phải có các KN tương ứng, và
muốn như vậy không có cách nào tốt hơn người giáo viên phải được
thường xuyên bồi dưỡng về mọi mặt, phải là người học tập suốt đời
[60, tr.90 - 115].
Ngoài ra, còn rất nhiều tác giả và các công trình nghiên cứu khác đề
cập đến vấn đề KNDH, hoàn thiện KNDH. Các nghiên cứu đều rất quan tâm
đến việc dạy nghề cho sinh viên, đặc biệt là hình thành và rèn luyện KNDH

cho sinh viên sư phạm.
1.2. Những nghiên cứu về kỹ năng dạy học và hoàn thiện kỹ năng
dạy học ở Việt Nam
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, ngay từ thời phong kiến, dưới ảnh
hưởng mạnh mẽ của Nho giáo, các triều đại đã nhận thấy vai trò to lớn của
giáo dục đối với sự hưng thịnh đất nước. Xã hội đặt lên vai người thầy trọng
trách to lớn là giáo dục thế hệ trẻ, đào tạo nhân tài cho đất nước, nhưng chính
những người thầy cũng luôn “tự biết mình, trau đồi vốn kiến thức và học vấn
sâu sắc, uyên thâm và rộng mới có thể đi dạy được người khác” [32, tr.20].
Việc học tập, tu dưỡng, tự hoàn thiện của các thầy giáo trong lịch sử đã trở
thành những tấm gương bất hủ, mãi mãi được các thế hệ học trò kính trọng và
noi theo. Cùng với sự thương yêu học trò hết mực của thầy, sự thông minh,
18
cần cù, chăm chỉ, ham học hỏi của những thế hệ học trò đã tạo nên truyền
thống hiếu học của dân tộc Việt Nam.
Vấn đề KNDH và hoàn thiện KNDH chỉ được quan tâm thực sự khi có
một nền giáo dục mới, nền giáo dục XHCN. Sau khi Cách mạng tháng Tám
thành công, chúng ta bắt tay vào thực hiện cải cách nền giáo dục. Trong đó,
Đảng ta xác định vấn đề then chốt, quyết định chất lượng giáo dục chính là
đội ngũ thầy giáo, xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo cả về số lượng và
chất lượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: phải xây dựng được đội ngũ
đông đảo những người làm công tác giáo dục yêu nghề, yêu trường, hết lòng
thương yêu, chăm sóc giáo dục học sinh, không ngừng trau dồi đạo đức, tự
bồi dưỡng nâng cao tay nghề để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo. Người thường nhắc nhở các thầy, cô giáo: “Dạy cũng như học phải biết
chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan
trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” [44, tr.329].
Người đề cao vai trò của đạo đức, coi đạo đức là linh hồn của người thầy giáo,
Người luôn căn dặn: “Muốn cho học sinh có đạo đức thì giáo viên phải có đức
… Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu” [44, tr.492]. Vì vậy, Hồ Chí

Minh luôn coi trọng và dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự trau đồi, rèn luyện
phẩm chất và năng lực của người làm công tác giáo dục. Theo Người thì tự trau
dồi đạo đức là nguyên tắc để phát triển các phẩm chất đạo đức cách mạng, để
“tự mình tiến bộ mãi”, đây là một trong những cơ sở xuất phát quan trọng cho
việc nghiên cứu, phát triển các phẩm chất nhân cách, hoàn thiện KN nghề
nghiệp của người giáo viên.
Cùng với các quan điểm đó là các trường sư phạm, các trung tâm bồi
dưỡng giáo viên được thành lập, đặc biệt là các công trình nghiên cứu về
KNDH và những yêu cầu hoàn thiện phẩm chất nhân cách của người giáo viên
được tiến hành một cách toàn diện và sâu sắc.
19
Tác giả Lê Văn Hồng với công trình nghiên cứu về: “Một số vấn đề về
năng lực sư phạm của người giáo viên xã hội chủ nghĩa”(1975), đã đưa ra hệ
thống những năng lực sư phạm của người giáo viên XHCN cần phải có trong sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, phát triển con người. Đây là công trình nghiên cứu
đầu tiên của nước ta đã đề cập đến KNDH, bồi dưỡng, rèn luyện một số KNDH
để hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho người giáo viên.
Từ những năm 1990, các vấn đề chương trình đào tạo, rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm mới được đề cập chính thức trong các văn bản pháp quy của ngành
giáo dục về mục tiêu, chương trình đào tạo. Đáng lưu ý là một số công trình sau.
Năm 1995, đề tài “Hình thành KN sư phạm cho giáo sinh sư
phạm”[11] của tác giả Nguyễn Hữu Dũng đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận về KN
sư phạm, vị trí của KN sư phạm trong việc hình thành năng lực sư phạm
cho sinh viên. Năm 1996, trong đề tài cấp Bộ mang mã số B94 - 37 - 46:
“Định hướng đổi mới phương pháp đào tạo và bồi dưỡng giáo viên” [12],
Ông đã đề cập đến nhiều KN cần có của người giáo viên. Trên cơ sở đó,
Ông đã đưa ra một số định hướng đổi mới quy trình đào tạo giáo viên nhằm
đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo
người giáo viên sau khi ra trường có khả năng tự hoàn thiện mình, đáp ứng
được những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn sư phạm.

Năm 1997, Nguyễn Đình Chỉnh đã xuất bản tài liệu có tính chuyên
khảo về thực tập sư phạm, trong đó tác giả đã giải quyết được những vấn đề
cơ bản như: Xác định khái niệm năng lực sư phạm; cấu trúc của năng lực sư
phạm; các con đường hình thành và phát triển năng lực sư phạm [9]. Trong
cấu trúc năng lực sư phạm, tác giả đã đề cập đến năng lực dạy học, con đường
phát triển, hoàn thiện các năng lực dạy học của giáo sinh sư phạm.
Tác giả Phan Thị Hồng Vinh trong giáo trình “Phương pháp dạy học
giáo dục học”, cũng cũng cho rằng, KNDH là KN thuộc nhóm các KN sư
phạm chuyên biệt [99]. Trong dạy học GDH, tác giả yêu cầu cần rèn luyện
20
nghiêm túc các KN sư phạm cơ bản và các KN sư phạm chuyên biệt, trên cơ
sở đó, hình thành và phát triển năng lực sư phạm. Mặc dù chưa đưa ra hệ
thống các KNDH cụ thể nhưng tác giả đã đưa ra quy trình 6 bước để rèn
luyện KN sư phạm cho sinh viên; các điều kiện và phương pháp rèn luyện KN
sư phạm có hiệu quả trong dạy học GDH.
Trước yêu cầu đổi mới nền giáo dục nước nhà, nâng cao chất lượng dạy
học, đổi mới phương pháp giảng dạy trong các nhà trường, các nghiên cứu về
KNDH, hoàn thiện KNDH của các nhà khoa học ngày càng cụ thể, đi sâu
mang tính chuyên biệt hơn, thúc đẩy hoạt động dạy học của giáo viên mang
lại hiệu quả cao hơn. Tác phẩm “Rèn luyện KN sư phạm” của Hà Nhật Thăng
và Lê Quang Sơn đã đề cập đến hầu hết các KNDH và các hoạt động của
người giáo viên ở nhà trường phổ thông trước ý nghĩa và yêu cầu đổi mới
giáo dục hiện nay. Theo các tác giả thì tổ chức hoạt động dạy học ngày nay có
những yêu cầu khác trước đây, vì:
Dạy học ngày nay là tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích cực
nhận thức và rèn luyện, là dạy cho học sinh cách học, cách chiếm
lĩnh tri thức của nhân loại. Dạy học là kích thích sự ham hiểu biết,
tạo ra và phát triển động cơ thái độ học tập tự giác sáng tạo ở học
sinh. Khơi dậy ở thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm, sự ham mê cống hiến
cho xã hội để khẳng định vai trò chủ thể trong cuộc sống [64, tr.53].

Quá trình dạy học ngày nay đã có nhiều thay đổi, nó không phải là quá
trình truyền thụ tri thức một chiều mà là quá trình tương tác, trong đó người
học đóng vai trò làm trung tâm. Do vậy, giáo viên phải có những KNDH mới,
cập nhật những tri thức mới, và thường xuyên học tập để không tụt hậu trước
sự phát triển của thực tiễn dạy học. Nhận thức được thực tiễn sư phạm như
vậy, các tác giả đã chỉ ra 22 KNDH mà sinh viên sư phạm cũng như giáo viên
phổ thông cần phải rèn luyện. Trong đó, có các KNDH đã có và những
21
KNDH mới, những yêu cầu mới trong rèn luyện, hoàn thiện KNDH của sinh
viên sư phạm ngày nay.
Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Như An với đề tài: “Hệ thống KN giảng
dạy trên lớp về môn GDH và quy trình rèn luyện các KN đó cho sinh viên
khoa tâm lý- giáo dục” [2]. Công trình công trình đã làm rõ các vấn đề về KN
sư phạm và KN giảng dạy; Xây dựng được hệ thống các KN giảng dạy trên
lớp; quy trình rèn luyện các KN giảng dạy trên lớp cho sinh viên sư phạm.
KNDH là kết quả của sự rèn luyện, sự thuần thục của KNDH tỷ lệ thuận với
sự miệt mài, chăm chỉ của sinh viên sư phạm. Để thuần thục KNDH sinh viên
cần được rèn luyện, hoàn thiện theo quy trình, đây là điều kiện tiên quyết để
KNDH của họ bền vững.
Tác giả Trần Anh Tuấn với luận án Tiến sĩ: “Xây dựng quy trình
luyện tập các KN giảng dạy cơ bản trong các hình thức thực tập sư phạm”
[80]. Cho rằng, KNDH cũng là các hành động, thao tác mà giáo sinh thực
hiện khi lên lớp, người có KN là người thực hiện có hiệu quả các thao tác,
các hành động đó. Tuy nhiên, để có KN cần phải có sự luyện tập chặt chẽ,
luyện tập theo quy trình nhất định, chỉ có như vậy mới nâng cao chất lượng
thực tập cho sinh viên sư phạm. Luận án chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm
của công tác thực hành, thực tập sư phạm hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả
đã đưa ra một quy trình luyện tập các KN giảng dạy cho sinh viên trong
quá trình học tập.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Phan Thanh Long: “Các biện pháp rèn

luyện KNDH cho sinh viên cao đẳng sư phạm” [41]. Tác giả đã phân chia hệ
thống các KNDH thành các KNDH cơ bản và các KNDH chuyên sâu, tổ chức
rèn luyện từng KNDH cho sinh viên cao đẳng sư phạm trong quá trình đào
tạo, đặc biệt trong quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên của
các trường cao đẳng sư phạm.
22
Là một bộ phận nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong những
năm qua nhà trường ĐHQS đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về KN, KN
nghề nghiệp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đáp ứng với yêu
cầu của thực tiễn quân sự hiện nay.
Tác phẩm “Những vấn đề huấn luyện và giáo dục trong các nhà trường
quân sự”, tập 2, xuất bản năm 1986 các nhà GDH Liên Xô (cũ) đã đưa ra hai
giải pháp cần thực hiện nghiêm túc để hoàn thiện tay nghề sư phạm cho giảng
viên trẻ trong nhà trường quân sự.
Một là, hoàn thiện kiến thức của giáo viên về các môn chuyên
ngành theo kịp các thành tựu khoa học kỹ thuật quân sự mới nhất.
Hai là, bảo đảm việc nghiên cứu các môn cơ sở của lao động sư
phạm quân sự (sư phạm và tâm lý quân sự) và hoàn thiện tài nghệ
sư phạm dưới sự hướng dẫn của các giáo viên giỏi nhất của học viện
[39, tr.193].
Tác phẩm cũng chỉ ra biện pháp cụ thể để thực hiện hai giải pháp nâng
cao trình độ, hoàn thiện tay nghề cho giáo viên đó là: thông qua tổ chức các
khoá nâng cao trình độ, tổ chức cả quá trình huấn luyện cũng như từng buổi
lên lớp thật mẫu mực để cho mỗi giáo viên khi trở về trường mình đều
phấn đấu thực hiện được như vậy; tổ chức thực tập tại đơn vị, tham gia các
cuộc diễn tập của bộ đội, thực hành ở các xí nghiệp; tổ chức công tác
phương pháp như hội nghị khoa học phương pháp, hội thảo phương pháp
và xêmina phương pháp, tập huấn, công tác nghiên cứu khoa học… đây là
những biện pháp rất cụ thể và hiệu quả mà các nhà GDH Xô Viết đã đưa ra
nhằm hoàn thiện tay nghề cho cán bộ sư phạm.

Nghiên cứu về người giáo viên, tác giả Hoàng Linh và Lê Hồng Quang cũng
đã đưa ra 5 KN trong hệ thống năng lực khi bàn về mô hình người giáo viên
KHXH&NV các trường cao đẳng quân sự như: KN truyền đạt kiến thức và kỹ xảo
23
có được; KN mô hình hoá mục tiêu đào tạo; KN điều khiển trí tuệ HV; KN sử dụng
phương tiện kỹ thuật dạy học; KN làm chủ các trạng thái tâm lý [30, tr.18].
Trong tác phẩm “Lý luận dạy học đại học quân sự” và “Giáo trình
phương pháp dạy học GDH quân sự”, tác giả Đặng Đức Thắng đã đề cập chi
tiết về các KNDH, đặc biệt là các KNDH trên lớp của người GV ở ĐHQS.
Trên cơ sở phân chia hệ thống các KNDH theo từng bước, công đoạn của
người GV, tác giả đã đưa ra quy trình chung (6 bước), những cách thức, biện
pháp cụ thể để rèn các KNDH cho HV sư phạm. Đây cũng là cơ sở, nền tảng
vững chắc để HV sư phạm sau khi ra trường có thể tự hoàn thiện mình. Mặt
khác, các tác phẩm cũng là lời cảnh báo, nhắc nhở người GV ở ĐHQS phải
luôn biết vươn lên chiếm lĩnh những KNDH mới để theo kịp sự phát triển của
thời đại, bởi nếu không “người GV sẽ không đảm nhận được chức năng chủ
yếu của mình” [75, tr.79].
Tác giả Lê Minh Vụ trong tác phẩm “Quy trình đánh giá năng lực
sư phạm quân sự của đối tượng tuyển chọn đào tạo GV hiện nay” cũng
đã bàn đến hệ thống các năng lực sư phạm của người GV trong nhà
trường quân sự, xây dựng quy trình để hình thành, phát triển các năng
lực sư phạm đó cho HV sư phạm. Tác giả nhấn mạnh: năng lực sư phạm
có thể là “năng khiếu” sẵn có tiềm tàng trong mỗi con người, nhiệm vụ
của các nhà sư phạm là cần phát hiện, bồi dưỡng những năng lực tiềm
tàng đó, giúp cho chúng phát triển thuận lợi nhất để tạo ra những thế hệ
GV ưu tú cho nhà trường quân đội [103]. Tuy nhiên, để có thể thực hiện
được nhiệm vụ nặng nề đó, người GV phải có năng lực nghề nghiệp, biết
cách khơi gợi những tiềm tàng trong mỗi HV.
Ngoài ra, Luận án Tiến sĩ Giáo dục học của tác giả Nguyễn Thành Vân,
với đề tài: “Những biện pháp bồi dưỡng KN tổ chức hoạt động nhận thức cho

giáo viên KHXH&NV ở các trường ĐHQS hiện nay”, đã trình bày khái niệm
24
về KN, KN sư phạm, KN tổ chức hoạt động nhận thức, phân tích cơ chế vận
hành quá trình bồi dưỡng KN hoạt động nhận thức, xác định biện pháp cơ bản
để bồi dưỡng những nội dung trên cho giáo viên KHXH&NV ở các trường
ĐHQS hiện nay [97].
Các Luận án Tiến sĩ của các tác giả như: Mai Văn Hoá [25], Nguyễn
Học Từ [86], Nguyễn Văn Phán [52]…đề cập đến vai trò của người thầy
trong trang bị tri thức cho HV, vấn đề tự học của HV, phương pháp để nâng
cao chất lượng dạy học theo cách thức học tập mới, graph trong dạy học, rèn
luyện các KN tự học, tự giáo dục cho HV trong quá trình đào tạo.
2. Những vấn đề đặt ra Luận án tiếp tục giải quyết
Qua các nghiên cứu về KNDH và hoàn thiện KNDH ở trên cho thấy.
Các công trình nghiên cứu đã xây dựng được hệ thống khái niệm công cụ về
KN, KN sư phạm, KNDH của người giáo viên tương đối hoàn chỉnh và khoa học,
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sư phạm trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử.
Các tác giả đã tập trung đi sâu vào hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm cho sinh viên trong nhà trường sư phạm, qua đó đã xây dựng được hệ
thống cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn trong việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
cho sinh viên một cách vững chắc, đảm bảo cho họ sau khi ra trường có thể
đảm nhiệm tốt nhiệm vụ giảng dạy.
Các nghiên cứu mang tính chất ứng dụng ngày càng nhiều, có chiều
hướng phát triển đi sâu vào các vấn đề chuyên biệt, hướng tới hình thành, rèn
luyện và hoàn thiện nghiệp vụ sư phạm rõ hơn, cụ thể hơn cho người học.
Nhiều quan điểm, tư tưởng ra đời từ rất sớm nhưng vẫn giữ nguyên giá trị
trong công tác rèn luyện, bồi dưỡng, phát triển, hoàn thiện KNDH cho người giáo
viên hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết.
Một là, nhiều công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở đại cương, một
số nghiên cứu mang tính ứng dụng nhưng chủ yếu tập trung cho đối tượng
25

×