Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Sức sản xuất sữa của bò Holstein Friesian thuần nuôi tại Lâm Đồng ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.89 KB, 3 trang )

Sức sản xuất sữa của bò Holstein Friesian thuần
nuôi tại Lâm Đồng
Milk productivity of purebed Holstein Friesian cows raised in Lam Dong province
Phạm Ngọc Thiệp và Nguyễn Xuân Trạch

Summary
A survey was undertaken to examine milk productivity of purebred Holstein Friesian (HF)
cows raised in 2 large-scale farms (Thanh Son joint venture and Lam Dong dairy cattle company)
and in small households (in Da Lat city and Don Duong district) of Lam Dong province. Results
showed that purebred HF raised in Lam Dong gave high milk yields with normal patterns of
milking curves over milking months and over lactations. Although there existed significant
differences in milk yield between farm types and between localities, it can be concluded that Lam
Dong is a good area for dairy production with purebred HF.
Keywords: Holstein Friesian, milk, dairy cattle, lactation, Lam Dong

1. Đặt vấn đề
Hiện nay, chăn nuôi bò sữa đang đợc đẩy mạnh ở nớc ta, nhng còn gặp nhiều khó khăn về
con giống. Việc nhập nội và nhân thuần bò sữa Holstein Friesian (HF) đã và đang đợc tiến hành ở
nhiều vùng khác nhau, trong đó có tỉnh Lâm Đồng, một tỉnh nằm trên cao nguyên có khí hậu tơng
đối mát mẻ, có thể thuận lợi cho việc nuôi bò HF thuần. Nếu giống bò sữa HF thích nghi đợc với
điều kiện khí hậu ở đây, thì tỉnh Lâm Đồng có thể phát triển ngành chăn nuôi bò sữa trên cơ sở nuôi
bò HF cao sản. Do vậy việc đánh giá sức sản xuất sữa của đàn bò HF thuần nuôi tại Lâm Đồng sẽ
có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng.
2. phơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này đợc tiến hành trên đàn bò Holstein Friesian (HF) thuần nuôi tại:
Công ty giống bò sữa Lâm Đồng
Công ty liên doanh Thanh Sơn (Hà Lan-Việt Nam)
Các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa thuộc huyện Đơn Dơng
Các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa thuộc thành phố Đà Lạt.
Số liệu nghiên cứu đợc thu thập từ sổ ghi chép theo dõi bò của các doanh nghiệp, các hộ chăn
nuôi bò sữa, cán bộ kỹ thuật và dẫn tinh viên cơ sở. Mặt khác, đàn bò đợc theo dõi trực tiếp trong


thời gian từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2002 trên cơ sở lập phiếu ghi chép năng suất sữa hàng ngày
cho từng bò sữa để ngời vắt sữa cân và ghi vào bảng theo dõi treo tại nơi vắt sữa trớc khi đem sữa
đi bán hoặc ghi trực tiếp vào phiếu theo dõi.
Số liệu đợc phân tích thống kê bằng chơng trình Minitab 11 (1996).
3. Kết quả và thảo luận
Kết quả trình bày ở bảng 1 cho thấy có sự khác nhau rõ rệt về năng suất sữa của bò HF nuôi
đợc theo các phơng thức chăn nuôi (khu vực kinh tế) khác nhau (P<0,01) và giữa các cơ sở/địa
phơng khác nhau (P<0,01).


Bảng 1. Năng suất sữa của bò Holstein Friesian nuôi tại Lâm Đồng
Nuôi tập trung
Nông hộ

Tham số
thống kê
Công ty LD
Thanh Sơn
Công ty giống bò
sữa Lâm Đồng
TP Đà Lạt Huyện Đơn
Dơng
Năng suất sữa/chu kỳ (kg)
n 158 60 54 33
X
5276,9 4487,9
5488,
6186,9
SE 64,5 148,9 181,1 202,8
SD 811,7 1152,7

1331,
1164,4
Cv (%) 15,4 25,7 24,2 18,8
Năng suất sữa bình quân (kg/con/ngày)
n 158 60 54 33
X
17,49 14,71 18,00 20,28
SE 0,07 0,48 0,66 0,66
SD 0,93 3,77 4,89 3,82
Cv (%) 5,30 25,62 27,16 18,83

Đối với khu vực nuôi tập trung, đàn bò của Công ty liên doanh Thanh Sơn cho năng suất sữa
cao và khá ổn định. Điều này có thể là nhờ ở Công ty này bò đợc chăm sóc nuôi dỡng tốt, thức ăn
đầy đủ quanh năm và do làm tốt việc chọn lọc đàn bò. Đàn bò nuôi ở Công ty giống bò sữa Lâm
Đồng có năng suất sữa thấp và kém ổn định hơn. Thực tế đàn bò này mới đợc khôi phục lại trong
mấy năm gần đây.
So với bò nuôi tập trung, bò nuôi ở nông hộ có năng suất sữa cao hơn rõ rệt. Lý do cơ bản có
thể là trong chăn nuôi nông hộ bò đã đợc chăm sóc và nuôi dỡng tốt hơn. Mặt khác, cũng có thể
do trong nhiều năm trớc đây giá mua sữa thấp và thị trờng tiêu thụ sữa khó khăn nên các hộ chăn
nuôi chỉ giữ lại những con cho năng suất sữa cao để không bị thua lỗ. Bởi vậy, năng suất sữa của bò
nuôi trong nông hộ tăng nhanh một phần là nhờ kết quả của sự chọn lọc này. Tuy nhiên, hệ số biến
dị về năng suất sữa của bò nuôi ở các nông hộ vẫn cao, phản ánh sự không đồng đều giữa các hộ, do
mỗi hộ có mức đầu t và trình độ chăn nuôi khác nhau. Hơn nữa, nguồn gốc bò nuôi ở các hộ và
các địa phơng khác nhau cũng không giống nhau.
So với kết quả điều tra trớc đây trên đàn bò HF thuần nuôi ở Mộc Châu
(Nguyễn Xuân Trạch
và Lê Văn Ban, 1994)
và đàn bò HF nuôi ở Thành phố Hồ Chí Minh (Vũ Đình Hiểu và Lơng Văn
Tác, 1994)
thì đàn bò HF nuôi tại Lâm Đồng hiện nay có năng suất sữa cao hơn nhiều. Đó có thể là

do kết quả của công tác chọn lọc và cải thiện điều kiện chăm sóc nuôi dỡng ở các thế hệ bò HF
sau này trên một địa bàn vốn có khí hậu mát mẻ thuận lợi cho việc chăn nuôi bò sữa cao sản. Nhìn
chung, so với các nớc nhiệt đới khác (trừ Ixraen) thì năng suất sữa của bò HF nuôi ở Lâm Đồng là
khá cao.

Bảng 2. Diễn biến năng suất sữa của các lứa đẻ của bò HF nuôi tại Công ty Thanh Sơn



Lứa đẻ n (con) X SE (kg) SD Cv (%)
1 34 3621,3 299,8 133 36,98
2 74 3950,5 157,4 135 34,27
3 42 4604,2 207,6 134 29,19
4 20 5907,7 413,5 184 31,29
5 9 4279,8 392,1 117 27,49
6 6 4137,1 639,3 156 37,86
7-9 8 3891,5 473,4 133 34,31
Theo dõi năng suất sữa qua các lứa đẻ, số liệu trình bày ở bảng 2 cho thấy sự biến động tuân
theo quy luật tự nhiên, mặc dù số liệu về những con có 5 chu kỳ tiết sữa trở lên còn ít. Biết đợc
quy luật này cho phép ngời chăn nuôi dự đoán đợc năng suất sữa ở các chu kỳ khác khi đã biết
đợc năng suất của một chu kỳ cụ thể. Theo kết quả này, nếu tính trọn đời sinh sản là 9 lứa đẻ thì
một bò cái HF nuôi ở Lâm Đồng có khả năng cho tổng sản lợng trên 40 000 kg.
Bảng 3. Diễn biến năng suất sữa qua các tháng của chu kỳ của bò HF nuôi tại Công ty Thanh Sơn
(n= 193)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Cộng
NS sữa (kg) 500,8 547,5 540,5 551,0 481,6 445,1 405,9 343,9 297,9 242,2 4316
% 11,60 12,68 12,52 11,84 11,16 10,31 9,40 7,97 6,90 5,61 100
Mặt khác, theo dõi biến động năng suất sữa qua các tháng tiết sữa của 193 chu kỳ sữa khác
nhau trên đàn bò HF nuôi tập trung của Công ty Thanh Sơn (bảng 3) cho thấy sau khi đẻ năng suất
sữa tăng, đạt cao nhất ở tháng thứ 2 và sau đó giảm dần qua các tháng cuối của chu kỳ. Nh vậy,

chu kỳ tiết sữa đàn bò HF này cũng tuân theo quy luật tự nhiên với hệ số sụt sữa bình quân hàng
tháng khoảng 8-10%. Kết quả tính toán này cho phép ngời chăn nuôi ớc tính đợc năng suất sữa
của cả chu kỳ hay một tháng nào đó của chu kỳ sữa khi biết đợc năng suất sữa của một hay một số
tháng nhất định của chu kỳ.
4. Kết luận
Từ nghiên cứu này có thể rút ra một số kết luận nh sau:
- Bò HF thuần nuôi tại Lâm Đồng cho năng suất sữa khá cao.
- Quy luật tiết sữa qua các các tháng của chu kỳ và qua các lứa đẻ tuân theo quy luật tự nhiên.
- Có sự khác nhau rõ rệt về năng suất sữa của bò HF đợc nuôi ở các khu vực kinh tế và các địa
phơng khác nhau.
Tài liệu tham khảo
Minitab Release 11 (1996), MINITAB Users Guide. USA.
Vũ Đình Hiểu và Lơng Văn Tác (1994),
Báo cáo kết quả nghiên cứu về hiệu quả kinh tế trên các
mô hình chăn nuôi bò sữa hộ gia đình ở Thành Phố Hồ Chí Minh, Báo cáo khoa học Hội
nghị khoa học kỹ thuật chăn nuôi năm 1994, Bộ NN&PTNT.
Nguyễn Xuân Trạch và Lê Văn Ban (1994), Diễn biến sức sản xuất sữa của bò Holstein thuần ở
Mộc Châu, Thông tin khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp 1-Hà Nội, Số
2/1994.

×