Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đề phòng với bệnh u máu ở trẻ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.73 KB, 8 trang )




Đề phòng với bệnh u máu
ở trẻ

U máu thường xuất hiện ở trẻ nhỏ trong thời gian đầu
sau sinh. Phần lớn u máu tự tiêu nhưng cũng có thể
chúng liên tục phát triển ảnh hưởng đến sức khỏe.
U máu không phải là bệnh di truyền, không liên quan gì đến
bệnh tật, thuốc men hay việc ăn uống của các bà mẹ trong lúc
mang thai. Có 80% trường hợp u máu chỉ xuất hiện một điểm
nhỏ trên cơ thể và 20% trường hợp xuất hiện nhiều mảng trên
cơ thể. Trong số các trẻ nhi, tỷ lệ có u máu chiếm 4% – 10%.
Đặc biệt, bé gái dễ bị u máu hơn bé trai (gấp 3 – 5 lần) và trẻ
sinh non thường bị nhiều hơn trẻ sinh đủ tháng (25% trẻ sinh
non bị u máu).
U máu được phân ra làm 3 loại, u máu mao mạch, u máu
dạng hang hay dạng tĩnh mạch và u máu dạng hỗn hợp.
- U máu mao mạch: Ở dạng này, u xuất hiện như một vết
son hay mảng màu rượu chát trên cùng một mặt phẳng da,
khi thăm khám, ấn vào da không thấy mất màu. Những mao
mạch chằng chịt thành một màng lưới trong lớp bì hay dưới
tầng da nhưng không làm thay đổi cấu trúc tầng da.
- U máu dạng hang hay dạng tĩnh mạch (cavernous
hemangioma): Khối u thường lớn, nhô khỏi mặt da. Hầu hết
u lan rộng và lấn dưới mô da, cơ và có thể làm biến dạng các
vùng lân cận. Loại u máu dạng hang còn có thể thấy ở các
nội tạng hay trong não.
Yêu sức khỏe - Sức khỏe! Chuyên mục về tin tức sức khỏe, tư
vấn trực tuyến, gia đình, tin tức làm đẹp, đời sống, y tế.


- U máu hỗn hợp: Thường gồm cả thể hang và mạch bạch
huyết. U máu hỗn hợp thường gặp nhiều nhất ở tuyến mang
tai, thương tổn nằm cả trong và dưới da. Tổn thương ở dạng
này có thể dẫn tới u ác.
U máu thường xuất hiện ở các vị trí:
Vùng mí mắt và hốc mắt: Bệnh nhân có nguy cơ bị lão thị
hay lác. Nếu sang thương sâu hơn thì có thể bị sụp mí và
chèn ép thần kinh thị giác; Tuyến mang tai: Biểu hiện là một
khối lớn ở mang tai, gặp nhiều nhất ở trẻ gái.
U ở vị trí này thường được phát hiện sớm sau sinh, có thể gây
biến dạng mặt nhưng dây thần kinh mặt không bị ảnh
hưởng…; Hàm trên hay dưới: Ít gặp nhưng nếu chẩn đoán và
điều trị không đúng có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng
(chảy máu niêm mạc số lượng lớn quanh một răng, răng liên
quan bị sưng phù và đau). Nếu nhổ chiếc răng lung lay này,
bệnh nhân có thể bị chảy máu dữ dội và tử vong;
Dưới sụn nắp thanh quản: Ít gặp nhưng có thể đe dọa tính
mạng. Triệu chứng (xuất hiện trong vòng 3 tháng đầu sau
sinh) gồm khò khè, khó thở thanh quản, 1/3 số trẻ này có u
máu trên da kèm theo; Ở cơ tứ đầu của đùi: Có một khối u
trong cơ. Bệnh nhân thường cảm thấy đau, vùng da trên u
thay đổi; Nội tạng: Ở gan, lách, dạ dày, ruột, não cũng có thể
gặp.
Yêu sức khoẻ! Trang tin tức sức khoẻ tổng hợp, đem lại kiến
thức sức khoẻ, mẹo vặt phòng bệnh chữa bệnh cho gia đình,
những bài thuốc chữa bệnh nhân gian.

Ảnh minh họa
Nốt ruồi son cũng là một dạng của u máu
Theo Ths Phạm Quang Thái, Khoa xạ tổng hợp BV K, không

nên quan niệm rằng tất cả u máu đều tự khỏi, không cần điều
trị vì có một số u máu lớn, ở vị trí đặc biệt có thể ảnh hưởng
tới thẩm mỹ, thậm chí cả tính mạng của trẻ.
Một số nghiên cứu cho thấy có vai trò kích thích của estrogen
trong sự tăng sinh của mạch máu hay thiếu oxy tổ chức cùng
với tăng estrogen trong máu lúc sinh là yếu tố kích thích sinh
u máu.
Trong đa số trường hợp, u lan rộng và xâm lấn mô dưới da,
cơ và có thể làm biến dạng cơ thể; U máu hỗn hợp, thường
gồm cả thể hang và mạch bạch huyết, gặp nhiều nhất ở tuyến
mang tai, thương tổn nằm cả trong và dưới da. Sau khi xuất
hiện, u máu có thể lớn dần lên, từ một vết nhỏ như nốt ruồi
son trở thành một mảng hồng đậm màu, có thể gồ lên thành
mảng. U thường lớn dần theo cơ thể trẻ em, phát triển nhanh
hay chậm tùy theo từng vị trí. Những u máu ở vùng gần niêm
mạc như môi, mắt, vùng cổ, tuyến nước bọt, tuyến dưới hàm
sẽ phát triển rất nhanh. Những u ở bề mặt da, tứ chi, ngực,
bụng, thường ít phát triển hơn so với ở mặt.
Điều trị u máu ở trẻ
U máu xuất hiện ngay sau sinh vài tuần, ban đầu chỉ giống
như một nốt ruồi son rồi trở thành một mảng màu hồng đậm
và sẽ phát triển lớn dần, thậm chí gồ lên thành mảng. U này
thường lớn dần theo tuổi của trẻ, nhanh và chậm sẽ phụ thuộc
vào vị trí của u (như u máu ở môi, mắt, vùng cổ, tuyến dưới
hàm… sẽ phát triển nhanh hơn so với các khối u ở bề mặt da,
chân tay, ngực, bụng). U máu phát triển nhất vào các tháng
thứ 6-10 và sau một năm bắt đầu quá trình thoái triển. U có
thể biến mất một phần hay hoàn toàn khi trẻ 5-8 tuổi. Việc
thoái triển u máu diễn biến bằng sự thẫm màu, u có thể bị
loét, nhiễm khuẩn tại chỗ, chảy máu.

Theo dõi tiến triển của u, siêu âm, đánh giá và theo dõi định
kỳ sự phát triển của u máu, kết hợp với sự hợp tác của các
bậc cha mẹ sẽ khiến cho việc điều trị u máu ở bệnh nhi đạt
kết quả tốt hơn.
Bên cạnh đó, có thể dùng băng ép, xoa bóp nhẹ nhàng vùng
có u, tiêm thuốc gây xơ và chiếu tia. Nếu can thiệp ngoại
khoa trong điều trị u máu sẽ rất phức tạp và có nguy cơ tái
phát cao, có thể gây tử vong do chảy máu, hơn nữa sẽ để lại
những vết sẹo xấu trên cơ thể bệnh nhi. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp như u máu ở vùng niêm mạc, mắt, đường
thở… thì cần phải can thiệp phẫu thuật để không bị ảnh
hưởng tới chức năng hay biến dạng cơ thể. Tóm lại, tùy từng
vị trí của khối u mà các bác sĩ sẽ đưa ra những phương pháp
điều trị thích hợp.

×