Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn thạc sĩ chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố biên hòa, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN HUY HOÀNG

CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021

n


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN HUY HOÀNG

CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HỊA, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự


Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

Hà Nội, năm 2021

n


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ

NGUYỄN HUY HOÀNG

n


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ......................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác............... 5
1.2. Đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh trong giai đoạn điều tra

vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác ......... 18
1.3. Chủ thể chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .................... 20
1.4. Nội dung hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra ....................... 21
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG MINH TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VÀ THỰC TIỄN CHỨNG MINH VỤ ÁN CỐ
Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
NGƯỜI KHÁC TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI...... 30
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự ...................................................................................... 30
2.2. Thực tiễn chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác tại thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai ......................................................................................... 49
2.3. Đánh giá thực tiễn chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác tại thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai ......................................................................................... 57
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC .............................................................................................. 61

n


3.1. Các yêu cầu nâng cao hiệu quả chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác ................... 61
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác .............. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82


n


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CYGTT:

Cố ý gây thương tích

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên

TNHS:


Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

n


HỆ THỐNG BẢNG SỐ LIỆU TRONG LUẬN VĂN

Bảng 2.1. Bảng số liệu số vụ án hình sự và vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai

đoạn từ năm 2016 - 2020 ........................................................................ 49
Bảng 2.2. Số vụ án VKSND Thành phố Biên Hòa trả hồ sơ cho CQĐT để
điều tra bổ sungtừ năm 2016 – năm2020 ................................................ 50

n


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình giải quyết vụ án hình sự, chứng cứ và chứng minh có vai trị,
vị trí hết sức quan trọng. Đối với giai đoạn điều tra VAHS, hoạt động này càng thể
hiện tính chất quan trọng, bởi đây là cơ sở góp phần đảm bảo hiệu quả của các giai
đoạn tố tụng tiếp theo. Trong giai đoạn điều tra, các cơ quan có thẩm quyền phải
chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn VAHS. Kết quả điều tra của giai đoạn
này là cơ sở để VKS quyết định truy tố bị can trước Tòa án hoặc quyết định đình
chỉ vụ án. Kết quả điều tra cũng là cơ sở để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Bên cạnh đó, nếu trong q trình điều tra, thu thập chứng cứ thiếu
sót, hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến phải trả hồ sơ điều tra bổ
sung, vụ án kéo dài ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân cũng như
uy tín của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được
quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đây là loại tội
phạm phổ biến, xảy ra thường xuyên trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai. Là trung tâm hành chính, kinh tế của tỉnh, thành phố Biên Hịa đã và đang thu
hút đông người dân từ nhiều địa phương về sinh sống, làm việc, là điều kiện để các
đối tượng phạm tội trà trộn, lợi dụng để hoạt động phạm tội. Theo báo cáo tổng kết
của Công an thành phố Biên Hịa, thời gian qua tình hình các loại tội phạm trên địa
bàn thành phố diễn biến phức tạp, số vụ phạm pháp chiếm gần nửa số vụ hàng năm
của cả tỉnh, đặc biệt là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác do nguyên nhân xã hội, đã và đang gây ra nhiều tác động tiêu cực, ảnh
hưởng lớn đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Biên Hịa. Cơng tác
điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thời
gian qua đạt được nhiều kết quả cao, nhất là trong hoạt động điều tra, đảm bảo đúng
quy định của pháp luật, đúng người, đúng tội, hạn chế oan sai, góp phần ổn định
tình hình trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình chứng minh trong
giai đoạn điều tra của cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai vẫn còn bộc lộ hạn chế thiếu sót, dẫn đến vụ án phải gia hạn nhiều lần, bị trả hồ
sơ điều tra bổ sung hoặc dẫn đến đình chỉ vụ án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền lợi của cơng dân. Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, đó là

1

n


hoạt động điều tra tội phạm CYGTT hoặc gây tổn tại cho sức khỏe của người khác
có những đặc điểm riêng nên vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và thiếu sót
cần phải được nghiên cứu, tổng kết để đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượnggiải quyết vụ án, góp phần giữ vững an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố nói
chung và trên tồn tỉnh Đồng Nai nói riêng. Bên cạnh đó, cịn có một phần do
những người tiến hành tố tụng cịn có tâm lý chủ quan, chưa chủ động, khách quan
nên chưa xác định đầy đủ, đúng đắn những vấn đề phải chứng minh trong quá trình
điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
đồng thời một số quy định của pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh cịn thiếu
sót khiến cho việc chứng minh của cơ quan có thẩm quyền cịn nhiều khó khăn.
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như thực trạng của hoạt
động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nhằm đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao

hiệu quả điều tra loại tội phạm này nói chung và trên địa bàn thành phố Biên Hịa,
tỉnh

Đồng

Nai

nói

riêng



vấn

đề

mang

tính

cấp

thiết.

Từnhữnglýdotrên,tácgiảchọnđềtài:“Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề

chứng minh trong tố tụng hình sự ở những mức độ và phạm vi khác nhau, đó là:
Luận án Tiến sĩ Luật học “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương năm 2000 Luận án này được hoàn thiện trước khi ban hành BLTTHS năm 2003 và Luận án
Tiến sĩ Luật học “Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự ở nước ta” của tác giả
Nguyễn Văn Du năm 2006 chủ yếu nghiên cứu quá trình chứng minh trong vụ án
hình sự, chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự cũng như chưa gắn với một địa bàn cụ thể.
Luận văn thạc sĩ luật học “Hoạt động chứng minh trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự” năm 2012 của Mạc Thị Duyên; Luận văn thạc sĩ luật học “Chứng minh
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” của tác giả Vũ Ngọc Hà năm 2013; Luận
văn thạc sĩ luật học“Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” của tác giả Nguyễn Xuân Hán; Luận văn thạc
sĩ luật học “Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp

2

n


luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Đặng Minh Phụng năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học “Chứng minh trong giai
đoạn điều tra tội giết người từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn
Minh Tuấn năm 2016….
Ngồi ra, cịn nhiều bài viết, bài nghiên cứu của các tác giả và các nhà nghiên cứu
pháp luật đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý bàn về chứng cứ và quá trình chứng
minh trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu và các bài viết trên các
tạp chí chuyên ngành chỉ đề cập đến một khía cạnh, phạm vi nhất định trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Từ khi BLTTHS 2015 có hiệu lực đến nay chưa có cơng trình
nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về chứng minh trong điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.

Từ tình hình nghiên cứu trên đây, có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài
"Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" là
yêu cầu khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3.Mụcđích vànhiệmvụ nghiên cứu
-Mụcđíchnghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai, qua đó tìm ra những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động này và đề xuất
các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự nói chung và trong điều tra tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác nói riêng trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Nhiệmvụnghiên cứu:
+ Nghiên cứunhững vấnđềlýluậnvề chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
+Nghiên cứu, phân tích, đánh giáthực trạng hoạt độngchứng minh trong giai
đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
+ Đưaracácgiảipháp nângcao hiệu quảhoạt động điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
4.Đốitượngvàphạmvinghiêncứu

3

n


- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của Bộ luật
TTHS năm 2015 và thực trạng hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2016 – 2020.
5.Cơ sở lý luận vàphươngphápnghiêncứu
Luậnvănnghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận củachủnghĩaMácLênin,tưtưởngHồChíMinh,quanđiểm củaĐảngvàNhànướctavềcải cáchtưpháp, chính
sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong tố tụng hình sự.
Luận vănsử dụng kết hợp nhiều phươngpháp nghiên cứu khác nhau,
như:sosánh,phântích,tổnghợp,thốngkê; khảo sát thực tiễn,…
6.Ýnghĩalýluậnvàthựctiễncủaluậnvăn
Vềmặtlýluận:Luận văn đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt
động chứng minh trong điều tra vụ án nói chung và trong điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng.
Về thực tiễn: Luận văn là tài liệu có giá trị dùng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật. Những đề xuất, kiến
nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra tội
phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nói riêng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngồi phần Mở đầu và Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, các Phụ lục,
Luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Chương 2: Quy định của pháp luật về chứng minh trong giai đoạn điều tra và
thực tiễn chứng minh chứng minh vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả chứng minh trong
giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác

4

n


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa chứng minh trong giai đoạn điều tra
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1.1. Khái niệm vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác
Để xây dựng khái niệm chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe, trước hết phải làm sáng tỏ thế nào là vụ
án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác? Liên quan đến vấn đề
này cần phải làm rõ thế nào là VAHS. Đối với khái niệm VAHS, theo Từ điển Luật
học thì “Vụ án hình sự là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy
định trong BLHS đã được CQĐT ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra,
truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở BLTTHS”. Trong lĩnh
vực khoa học pháp lý nước ta đến nay cũng có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm
VAHS, tuy nhiên, tác giả thống nhất với quan điểm cho rằng: “Vụ án hình sự là vụ
án phát sinh khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm và CQĐT, các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, Tịa án (thơng qua Hội
đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS
để xác định và xử lý người phạm tội” [27, tr.15].

Vậy vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là gì?
Muốn làm sáng tỏ nội dung này, trước hết cần nhận thức về tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác. Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm
phạm thân thể, gây hại đến sức khỏe người khác, được xác định bằng thương tích cụ
thể. Điều 134 BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người
nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường

5

n


hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm: a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn
có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất
nguy hiểm; c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc người khác khơng có khả năng tự vệ; d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy
giáo, cô giáo của mình, người ni dưỡng, chữa bệnh cho mình; đ) Có tổ chức; e)
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;…”[18].
Để nhận thức sâu sắc về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, cần làm sáng tỏ các yếu tố cấu thành tội phạm của tội này, theo đó:
- Về khách thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác: khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được LHS bảo vệ bị tội phạm
xâm pham tới. Đối với tội CYGTT thì khách thể trực tiếp là quyền nhân thân với
nội dung là quyền được bảo hộ, tôn trọng về sức khoẻ của con người.
- Về mặt khách quan của tội phạm này là hành vi gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trái pháp luật. Hành vi này được thể hiện dưới
dạng hành động, tác động vào cơ thể con người với các hành vi cụ thể như đâm,
chém, đấm, đá… gây thương tích hoặc tổn hại cho một bộ phận hoặc toàn bộ cơ thể

con người. Hậu quả trong CTTP cơ bản của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc, thương
tích hoặc tổn thương khác cho sức khỏe phải từ 11% trở lên hoặc thương tật dưới
11% nhưng phải thuộc các tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm a đến điểm
k khoản 1 Điều 134 BLHS. Hậu quả do hành vi cố ý gây thương tích gây ra cũng có
thể dẫn đến chết người. Cần chú ý phân biệt hậu quả chết người trong tội này và tội giết
người quy định tại Điều 123 BLHS.Ngồi ra cịn có các dấu hiệu khác như công cụ,
phương tiện…, tuy các dấu hiệu này khơng phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP
nhưng có ý nghĩa chứng minh để xác định đúng tội danh và quyết định hình phạt.
- Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp
hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Động cơ, mục đích phạm tội khơng phải là dấu hiệu bắt
buộc của cấu thành tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Về chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên đối với trường hợp phạm tội theo quy định tại khoản 1,

6

n


2 và từ đủ 14 tuổi trở lên đối với trường hợp phạm tội theo quy định tại khoản 3, 4,
5 Điều 134 BLHS.
Trên thực tế, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có
những biểu hiện gần giống với tội giết người. Do đó, cần có sự phân biệt giữa hai
tội này, nhất là ở hai trường hợp sau:
Trường hợptội cố ý gây thương tích cho người khác nhưng dẫn đến hậu quả
chết người với tội giết người ở giai đoạn phạm tội chưa đạt (hậu quả chết người
chưa xảy ra nằm ngoài ý muốn của người phạm tội). Điểm giống nhau của trường
hợp này là hậu quả cùng gây thương tích cho người khác. Nhưng điểm khác nhau
cơ bản làtrong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác
người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người xảy ra mà chỉ mong muốn

hoặc bỏ mặc cho hậu quả gây thương tích xảy ra. Cịn trường hợp phạm tội giết
người c(ở giai đoạn chưa đạt) thì người phạm tội mong muốn hậu quả chết người
xảy ra, hậu quả khơng xảy ra là ngồi ý muốn của họ.
Trường hợp tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại của người khác dẫn
đến chết người với tội giết người ở giai đoạn hoàn thành (hậu quả chết người đã xảy
ra). Mặc dù trường hợp này cả hai tội đều có điểm giống nhau là cùng gây ra hậu
quả chết người nhưng cần phân biệt: Đối với hành vi cố ý gây thương tích dẫn đến
chết người, người phạm tội khơng mong muốn làm chết người và cũng khơng có ý
thức bỏ mặc hậu quả chết người xảy ra mà chỉ mong muốn hậu quả thương tích xảy
ra. Cịn đối với hành vi trong tội giết người, người phạm tội biết rõ hành vi của
mình là tước đoạt mạng sống của người khác một cách trái pháp luật và mong muôn
đạt được hậu quả chết người.
Để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội, có thể xác định từ động cơ,
mục đích của người phạm tội và có thể qua các tình tiết biểu hiện ra bên ngồi như
công cụ, phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, vị trí tác động,…
Như vậy, tội này bao gồm hai hành vi. Hành vi: "Gây thương tích cho người
khác" là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể con người làm cho
con người có những thương tích nhất định (để lại dấu vết) và hành vi "Gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác" là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân
thể con người làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi, khơng cịn ngun vẹn như

7

n


trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ, hoặc làm mất chức năng hoạt
động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân, làm giảm chức năng hoạt động của bộ
phận đó. Đây là tội ghép gồm hai tội quy định trong cùng một điều luật: Tội cố ý
gây thương tích cho người khác và tội gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Có

thể hiểu, gây thương tích là gây ra, để lại các dấu vết trên thân thể làm ảnh hưởng
đến sức khỏe con người, còn gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là làm mất
mát, hư hại một phần, không còn nguyên vẹn như trước nữa đối với sức khỏe con
người.Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy là hai tội,
song hành vi khách quan và hậu quả của nó rất giống nhau, có nhiều điểm tương
đồng nhau. Do vậy, các nhà làm luật đã xếp trong cùng một điều luật. Để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì
phải xác định được tội danh mà người đó đã phạm phải, được quy định trong
BLHS. Căn cứ để xác định tội danh phải dựa vào các dấu hiệu cấu thành tội phạm
pháp lý cơ bản đặc trưng nhất của một tội cụ thể. Khoa học hình sự gọi những dấu
hiệu đặc trưng đó là các yếu tố cấu thành tội phạm.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người kháclà hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý xâm hại sức khỏe của người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác.
Vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là vụ
việc phát sinh khi có các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý nhằm xâm hại sức
khỏe của người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác.
1.1.1.2. Khái niệm chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
Để xây dựng khái niệm chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì cần phải làm rõ khái niệm chứng
minh trong tố tụng hình sự và khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Trước hết, nói đến chứng minh là nói đến “dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để
chỉ rõ điều gì đó là đúng hay không đúng” [40, tr.256]. Như vậy, chứng minh có thể
hiểu là hoạt động có mục đích của con người trong tư duy, nhận thức hoặc trong
thực tiễn, qua đó xác định sự đúng, sai của một sự vật, hiện tượng, xác định sự tồn
8


n


tại hay không dựa trên những chứng cứ cụ thể. Hoạt động chứng minh là một trong
những hoạt động xã hội và là một trong những hoạt động thực tiễn khơng thể thiếu
của con người. Chính vì vậy, hoạt động này dựa trên lý luận Mác - Lênin về nhận
thức, đó là q trình nhận thức thế giới khách quan của con người từ cảm tính đến
lý tính, từ những hiện tượng cá biệt đến cái chung, từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng, từ hình thức bên ngồi đến bản chất bên trong, thơng qua những giả
thiết, khả năng đánh giá, đối chiếu, tổng quan.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan TTHS phải thu thập
chứng cứ để chứng minh. Do đó, chứng minh trong TTHS là một trong những dạng
của hoạt động chứng minh nói chung: “Chứng minh tội phạm là thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội” [31,
tr.161]. Muốn xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự thì cac cơ quan THTT
có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp hợp pháp nhằm chứng minh tội phạm và
người phạm tội cũng như những tình tiết có ý nghĩa khác, đây là hoạt động phức
tạp, phải trải qua đầy đủ các hoạt động từ thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ.
Trên thực tế, những dấu vết của vụ án luôn tồn tại trong thế giới khách quan, được
con người và môi trường vật chất ghi lại, phản ánh lại. Thực chất quá trình chứng
minh trong TTHS là quá trình con người nhận thức về vụ, nhận thức về những sự
kiện phạm tội đã xảy ra. Để nhận thức được vụ án, con người sẽ phải tiến hành thu
thập, kiểm tra, đánh giá những gì thu thập được. Có thể nói, đây là q trình xác
định sự thật khách quan đối với vụ án, là quá trình nhận thức chân lý trên cơ sở thực
tiễn, đi từ cái chưa biết đến biết, phản ánh biện chứng các sự vật và hiện tượng của
thế giới vật chất vào trong ý thức con người, tuân theo các quy luật của phép biện
chứng duy vật.
Khái niêm chứng minh trong TTHS đến nay còn nhiều quan điểm khác nhau
về mặt khoa học pháp lý. Tuy nhiên, dù quan điểm khác nhau, nhưng xét về bản
chất, đa số các quuan điểm đều thừa nhận đây là quá trình nhận thức khách quan

theo quan điểm điểm Mác-xít. Theo tác giả, chứng minh trong TTHS là một quá
trình chứng minh, quá trình này phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố bao gồm cơ sở
pháp lý, chủ thể, đối tượng và phương tiện chứng minh. Trên cơ sở đó, tác giả thống
nhất với quan điểm “Quá trình tư duy và thực tiễn của cơ quan điều tra và những

9

n


người có quyền chứng minh dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật TTHS để
thu thập, kiểm tra và đánh giá các thông tin, tài liệu cần thiết nhằm xác định sự thật
khách quan của vụ án đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án”
[32, tr.183].
Quá trình chứng minh trong VAHS là trải qua các giai đoạn TTHS như giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Các hoạt động này đều thực hiện dưới hình
thức, biện pháp, thẩm quyền tố tụng hình sự khác nhau, dựa trên cơ sở pháp lý là
các văn bản: Bộ luật TTHS, Tổ chức CQĐT hình sự, Luật tổ chức VKSND, Luật
Tổ chức TAND… Mục đích của quá trình chứng minh trong VAHS của các cơ
quan THTT là xác định sự việc phạm tội và người phạm tội, xác định những tình
tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Quá trình chứng
minh VAHS bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như bắt đầu từ khi giải quyết
nguồn tin về tội phạm. Mỗi giai đoạn tố tụng khi chứng minh VAHS đều tiến hành
những hành vi tố tụng đặc trưng như: giai đoạn khởi tố vụ án hình sự do cơ quan có
thẩm quyền khởi tố chứng minh sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm khơng để
quyết định việc khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra do
CQĐT (hoặc Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) tiến
hành nhằm là rõ đối tượng chứng minh trong giai đoạn điều tra với những hành vi
tố tụng đặc trưng như: KTBC, lấy lời khai những người tham gia tố tụng, tiến hành
một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS, kết luận điều tra hoặc đình

chỉ điều tra…; Giai đoạn truy tố do VKS tiến hành thể hiện qua hoạt động thực
hành quyền công tố (là chức năng duy nhất chỉ VKS mới có thẩm quyền tiến hành)
và kiểm sát hoạt động của CQĐT, Tòa án. Giai đoạn xét xử do Tòa án tiến hành
nhằm xác định tội phạm, người phạm tội và quyết định hình phạt cũng như các
quyết định khác theo quy định của pháp luật. Các hành vi tố tụng chủ yếu của giai
đoạn này như: Xét hỏi bị cáo hoặc hỏi những người tham gia tố tụng khác, Nghị án;
Tuyên án… Tất cả những hoạt động trên đều phải được tiến hành theo đúng trình
tự, thủ tục do BLTTHS quy định, nhằm chứng minh sự thật khách quan của VAHS,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Trên cơ sở những quy định của pháp luật như BLTTHS, Luật Tổ chức
CQĐT hình sự, Luật Tố chức VKSND, Luật Tổ chức TAND, các văn bản pháp luật

10

n


khác cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử có thể đi đến kết luận: Q trình
chứng minh VAHS là q trình mà các Cơ quan có thẩm quyền THTT, người có
thẩm quyền THTT thực hiện hoạt động nhận thức chân lý về vụ án hình sự. Quá
trình chứng minh vụ án hình sự thể hiện ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự.
Để có thể dựng khái niệm chứng minh trong điều tra vụ án CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người khác, còn cần phải làm sáng tỏ thế nào là giai đoạn điều
tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Như đã phân tích
ở trên, vụ án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác mà CQĐT và các cơ quan khác theo quy định
của pháp luật ra quyết định khởi tố vụ án. Trong quá trình giải quyết VAHS nói
chung và vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng,
điều tra là hoạt động TTHS giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi thông qua hoạt động

điều tra nhằm phát hiện, thu thập kịp thời những chứng cứ để chứng minh tội phạm
và người phạm tội, xác định tính chất cũng như mức độ thiệt hại mà tội phạm đã
gây ra. Thông quan kết quả điều tra, làm cơ sở cho VKS thực hiện việc truy tố và
Tòa án xét xử tội phạm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Có thể nói, hoạt động
điều tra là hoạt động cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự, điều tra chính là
“cơng tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ” [31]. Từ những lập luận nêu trên, có thể
khái niệm điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác như
sau: “Điều tra trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác là những hoạt động tố tụng do các cơ quan điều tra có thẩm quyền tiến
hành bằng các biện pháp mà pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm nhằm xác
định sự thật của vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”.
Như vậy, điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
là hoạt động áp dụng pháp luật, hoạt động này được tiến hành bởi các chủ thể có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật TTHS nhằm chứng minh, làm sáng tỏ vụ
án trong suốt quá trình tố tụng. Qúa trình chứng minh trong điều tra vụ án CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được bắt đầu từ khi Cơ quan có thẩm

11

n


quyền khởi tố vụ án và kết thúc khi Cơ quan này kết luận điều tra đề nghị truy tố
hoặc đình chỉ điều tra. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, làm tiền đề
cho các giai đoạn tiếp theo. Để chứng minh, CQĐT được sử dụng mọi biện pháp
hợp pháp để thu thập chứng cứ và phải sử dụng, đánh giá tất cả những chứng cứ đó,
xây dựng các giả thuyết điều tra có thể xảy ra, vì những quyết định của CQĐT trong
giai đoạn này là sự đánh giá, kết luận đầu tiên về VAHS, thể hiện tính pháp lý và

thể hiện sự thật khách quan của vụ án. Giai đoạn chứng minh này có vị trí và vai trị
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả truy tố của VKS cũng
như hoạt động xét xử của Tòa án. Bên cạnh đó, chứng minh trong giai đoạn điều tra
cịn góp phần rất quan trọng trong cơng tác phịng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
nói riêng và tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác nói
riêng.Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì, điều tra là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền
điều tra áp dụng mọi biện pháp do luật định để xác định tội phạm, người thực hiện
hành vi phạm tội và các tình tiết khác làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Giai
đoạn điều tra được tính từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự đến khi cơ quan
có thẩm quyền kết thúc điều tra bằng Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc
Quyết định đình chỉ vụ án và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Từ tất cả những điều phân tích trên đây có thể xây dựng khái niệm thực hoạt
động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe người khác như sau: Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác là hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ theo trình tự, thủ tục được BLTTHS quy định của những chủ thể tiến hành
tố tụng nhằm làm làm rõ hành vi xâm hại sức khỏe của người khác dưới dạng
thương tích hoặc tổn thương khác góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Như vậy, những đặc điểm thuộc về bản chất của quá trình chứng minh như
chủ thể, phương tiện, thủ tục, nội dung và mục đích chứng minh đã được đề cập
trong khái niệm nêu trên.

12

n


1.1.2. Đặc điểm chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác

Mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, do đó
mà các chủ thể chứng minh cũng như nội dung chứng minh, phương tiện chứng
minh…cũng có sự khác nhau. Hơn nữa, mỗi vụ án khác nhau lại có những đặc
trưng riêng. Do đó, mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, mỗi vụ án khác nhau sẽ có
những đặc điểm riêng khác nhau. Đối với hoạt động chứng minh trong giai đoạn
điều tra VAHS cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất, kết luận giám định là nguồn chứng cứ bắt buộc phải có trong việc
chứng minh đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khác. Theo quy định tại điểm 4 Điều 206 BLTTHS năm 2015 thì, cơ quan có thẩm
quyền bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định tính chất thương tích,
mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả nang lao động. Khi chứng minh đối với vụ án cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nếu không dựa
vào kết luận giám định thì cơ quan có thẩm quyền khơng thể xác định được tính
chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và đây cũng là một trong những
vấn đề cần phải chứng minh trong bất cứ vụ án hình sự nào.
Thứ hai: Chủ thể của hoạt động chứng minh: Trong quá trình chứng minh vụ
án hình sự nói chung, bao gồm nhiều chủ thể khác nhau tùy thuộc vào mỗi giai đoạn
tố tụng khác nhau. Trong giai đoạn điều tra, các chủ thể chứng minh là những người
có thẩm quyền THTT trong giai đoạn điều tra, đây là những người có kiến thức về
pháp luật và nghiệp vụ điều tra, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp khoa học kỹ
thuật, kết hợp giữa lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để phát hiện và điều tra được
tội phạm. Chủ thể chứng minh ở giai đoạn điều tra nói chung và trong vụ án cố ý
gây thương tích nói riêng là những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm
Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc cán bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra : Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
kiểm ngư, lực lượng cảnh sát biển hoặc các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Theo
quy định của BLTTHS thì những người tham gia tố tụng khi được các cơ quan có


13

n


thẩm quyền tố tụng yêu cầu cũng tham gia vào hoạt động chứng minh nhưng họ
không phải chủ thể chứng minh.
Thứ ba: Thời hạn điều tra. Thời hạn điều tra vụ án hình sự được tính kể từ khi khởi
tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Trong thời hạn này, các Cơ quan có thẩm
quyền điều tra vụ án phải tiến hành các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để ban hành các văn bản tố
tụng làm cơ sở cho các giai đoạn tiếp theo của quá trình giải quyết VAHS. Khi
chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, CQĐT phải xác định hành vi phạm tội thuộc khoản nào của Điều
134 BLHS, căn cứ vào đó để tính thời hạn điều tra. Trường hợp tội phạm thực hiện
là tội ít nghiêm trọng thuộc khoản 1 Điều này thì thời hạn điều tra khơng quá hai
tháng, thuộc khoản 2 thì thời hạn điều tra trọng không quá ba tháng, thuộc khoản
3,4,5 là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì thời hạn điều tra không
quá bốn tháng. Tuy nhiên, trường hợp hết thời hạn điều tra nói trên mà khơng thể
kết thúc việc điều tra thì CQĐT có thể xem xét đề nghị Viện kiểm sát có thẩm
quyền xem xét, quyết định gia hạn điều tra. Thời hạn có thể gia hạn điều tra bao
gồm: gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng; Gia
hạn hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng đối
với tội nghiêm trọng; Gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng đối với
tội rất nghiêm trọng; Gia hạn điều tra ba lần mỗi lần không quá bốn tháng đối với
tội đặc biệt nghiêm trọng. Khi hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị
can đã thực hiện tội phạm thì CQĐT phải đình chỉ điều tra. Việc quy định thời hạn
điều tra nhằm giúp CQĐT nêu cao tinh thần trách nhiệm trong điều tra vụ án, đảm
bảo quyền lợi của những người tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng có
quy định về thời hạn điều tra bổ sung, phục hồi điều tra và điều tra lại.

Thứ tư: Các phương tiện điều tra. Các CQĐT có thể sử dụng mọi biện pháp,
phương tiện, chiến thuật hợp pháp trong quá trình chứng minh tội phạm ở giai đoạn
điều tra. Bên cạnh các phương tiện chứng minh theo quy định của BLTTHS, các
CQĐT còn sử dụng các phương tiện trong khoa học điều tra hình sự như các
phương tiện kỹ thuật hình sự, các thủ thuật, chiến thuật điều tra hình sự cụ thể. Tuy
nhiên cần lưu ý khi sử dụng các phương tiện, kỹ thuât, chiến thuật trong khoa học

14

n


điều tra hình sự để điều tra tội phạm ở giai đoạn điều tra luôn phải phù hợp với quy
định của pháp luật TTHS, không được xâm phạm quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân. Muốn chứng minh vụ án hình sự khách quan, tồn diện và
đầy đủ, phải dựa vào nguồn chứng cứ và chứng cứ trong TTHS, đây là phương tiện
duy nhất được cơ quan THTT sử dụng để chứng minh VAHS. Nguồn chứng cứ là
những thông tin phản ánh về sự việc phạm tội. Để thu thập chứng cứ chứng minh sự
việc phạm tội, người phạm tội cũng như những tình tiết có ý nghĩa khác, trước hết
CQĐT phải xác định được các nguồn chứng cứ của vụ án. Thông qua các phương
tiện điều tra do pháp luật TTHS quy định, Điều tra viên, KSV, cán bộ điều tra…tiến
hành nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đảm bảo các chứng cứ thu thập
được có đầy đủ các thuộc tính khách quan, liên quan và hợp pháp phù hợp cho quá
trình chứng minh trong điều tra vụ án CYGTT, cũng như toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
Thứ năm: Mục đích chứng minh. Q trình chứng minh trong điều tra vụ án
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được Cơ quan có thẩm
quyền, người có thẩm quyền THTT tiến hành nhằm xác định chân lý khách quan
của vụ án. Quá trình này thực chất là quá trình nhận thức về vụ án hình sự đang
được chứng minh của các chủ thể có trách nhiệm chứng minh. Do đó mục đích của

hoạt động chứng minh trong điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là xác định sự thật khách quan, tồn diện và đầy đủ của vụ án, xác
định có tội phạm và bị can - người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác hay không, để ban hành kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ
điều tra, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự này. Từ hoạt động chứng minh
trong VAHS nói chung và chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án nói riêng, góp
phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, của tổ chức, bảo vệ
quyền con người, quyền là lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Thứ sáu: Nội dung của hoạt động chứng minh: Đây cũng là phần tương đối
quan trọng trong quá trình chứng minh VAHS. Khi chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác cũng bao
gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Điều tra viên cũng như
những chủ thể có thẩm quyền tố tụng khác phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp

15

n


nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá những thông tin, tài liệu, tái hiện lại sự kiện phạm
tội đã xảy ra trước đó trong thực tiễn dưới cả hai hình thức: phản ánh trong ý thức
của con người và trong mơi trường vật chất.
Trong q trình chứng minh VAHS, phải đảm tính khách quan, tồn diện và
đầy đủ. Để đảm bảo tính tồn diện của hoạt động chứng minh vụ án thì phải xác
được định đối tượng chứng minh, đảm bảo tính đầy đủ thì phụ thuộc việc xác định
giới hạn chứng minh. Do đó, để nhận thức đầy đủ, toàn diện và đưa ra kết luận đúng
đắn khi giải quyết VAHS, cơ quan có thẩm quyền THTT phải thu thập đầy đủ
chứng cứ về việc tồn tại hay không tồn tại của các yếu tố thuộc đối tượng chứng
minh. Giai đoạn điều tra là giai đoạn đầu tiên của q trình chứng minh, có ý nghĩa
quan trọng đối với các giai đoạn sau này, do đó, vấn đề này cần được xem xét kỹ

lưỡng. Để giải quyết vấn đề này, các chủ thể có thẩm quyền THTT khi quyết định
cần thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng những chứng cứ phải căn cứ vào các
quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, căn cứ vào tình hình thực tế trong
từng vụ án cụ thể cũng như dựa vào cả niềm tin nội tâm và ý thức pháp luật để làm
sáng tỏ từng tình tiết có liên quan và tồn bộ các tình tiết thuộc đối tượng chứng
minh của vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Như vậy, đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chủ yếu tập trung ở việc
phát hiện, thu thập, kiểm tra và đánh giá và sử dụng chứng cứ chứng minh nhằm
đưa ra kết luận chính thức đầu tiên về vụ án hình sự đang thụ lý giải quyết thông
qua Bản kết luận điều tra hoặc các quyết định tố tụng cần thiết khác.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
Trong q trình giải quyết các VAHS nói chung và vụ án CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, các hành vi và quyết định tố tụng
được thực hiện ở giai đoạn này chiếm số lượng khá lớn. Vì vậy, trách nhiệm chứng
minh tội phạm được giao cho các cơ quan có thẩm quyền tố tụng thực hiện, trong
đó vai trị nổi bật là CQĐT. Hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án
CYGTT hoăc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có những ý nghĩa sau:

16

n


Thứ nhất, việc thực hiện tốt hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra
vụ án CYGTT hoăc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác góp phần đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động này là tiền đề quan trọng
cho hoạt động chứng minh trong các giai đoạn tiếp theo của vụ án. Nếu việc thu
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ đảm bảo khách quan, toàn diện và đầy đủ sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết được đúng người, đúng tội, không làm oan
người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Ngược lại, nếu hoạt động này chưa đầy đủ,
toàn diện, sẽ dẫn đến các kết luận khơng chính xác, khơng những ảnh hưởng đến
các quyền và lơi ích hợp pháp của cơng dân mà cịn làm mấ niềm tin đối với các cơ
quan có TQTHTT, lớn hơn nữa là Nhà nước, xã hội.
Như vậy, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác góp phần đảm bảo pháp chế XHCN, đảm
bảo các quyền con người và quyền công dân. Kết quả của hoạt động chứng minh
trong giai đoạn này cũng sẽ góp phần giúp VKS, Tịa án giải quyết đúng đắn vụ án,
khơng làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền và lợiích hợp
pháp, sức khỏecủa con người đã bị hành vi CYGTT xâm phạm, góp phần giữ vững
trật tự, an toàn xã hội.
Thứ hai, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho các quyết
định trong giai đoạn này được chính xác, khách quan, khơng làm oan người vơ tội,
người bị thiệt hại về sức khỏedo hành vi phạm tội gây ra được bồi thường thỏa
đáng, được bảo vệ theo quy định của pháp luật, đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ ba, những kết quả thu được của hoạt động chứng minh trong giai đoạn
điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khácgiúp CQĐT
cũng như các cơ quan THTT đưa ra các quyết định tố tụng chính xác, hạn chế tối đa
những sai sót có thể xảy ra. Thơng quan hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều
tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng giúp các chủ
thể chứng minh có thể phát tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, từ đó
áp dụng và hoặc đưa ra những kiến nghị phòng ngừa tội phạm.

17

n



1.2. Đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh trong giai đoạn điều
tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
1.2.1. Đối tượng chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
Khi chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe người khác, các cơ quan hoặc người có thẩm quyền THTT phải xác định
đối tượng chứng minh. Đối tượng chứng minh là “tất cả các tình tiết phải được xác
định đảm bỏ cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, tồn diện vụ án hình sự”
[34, tr.215]. Đây cũng là mục đích của q trình giải quyết vụ án hình sự, trong đó
có giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Việc xác định đúng đối tượng chứng minh có ý
nghĩa quan trọng nhằm xác định đúng giới hạn và phạm vi chứng minh. Nếu xác
định thiếu đối tượng chứng minh sẽ khiến cho việc giải quyết vụ án thiếu chính xác,
thiếu khách quan. Nếu xác định đối tượng chứng minh quá rộng so với tình tiết liên
quan đến vụ án đang chứng minh thì sẽ dẫn đến tình trạng tốn thời gian, cơng sức,
kinh phí để làm rõ, trong khi thời gian tố tụng được pháp luật quy định có giới hạn.
Mỗi vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác có diễn biến
khác nhau do đó những vẫn đề phải chứng minh trong từng vụ án cụ thể cũng khác
nhau, nhưng xác định đối tượng chứng minh là xác định tồn bộ những tình tiết phải
thu thập để làm rõ vụ án. Những chủ thể có quyền quyền phải chú ý đến những sự
kiện trong thực tế có liên quan đến vấn đề chứng minh, có ý nghĩa đối với vấn đề
chứng minh, để khơng mất quá nhiều thời gian làm sáng tỏ hoặc phân loại những
tình tiết khơng có ý nghĩa. Những vấn đề phải chứng minh đã được quy định trong
BLTTHS, trong đó quy định đầy đủ nội dung về đối tượng chứng minh. Đây chính
là những tình tiết bắt buộc, khi chứng minh vụ án khơng được bỏ sót bất cứ tình tiết
nào thuộc nội dung đối tượng chứng minh. Những vấn đề phải chứng minh được
BLTTHS nước ta quy định tại Điều 85. Tuy nhiên, trong từng vụ án cụ thể, Cơ quan
hoặc người có thẩm quyền phải xác định đối tượng chứng minh cụ thể. Trên cơ sở
đó, có thể thấy khi chứng minh trong điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe người khác, phải chứng minh những nội dung cơ bản sau đây:


18

n


×