Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.88 KB, 3 trang )
Tăng acid uric máu gây
ra hàng chục bệnh nguy
hiểm
Acid uric là một hợp chất khác vòng của các bon, nitơ, ôxy, và hyđrô với
công thức C5H4N4O3. Nó tồn tại dưới dạng các ion và muối được gọi là
urat, và acid urat như ammonium acid urate. Acid uric được tạo thành trong
cơ thể do quá trình thoái giáng các nhân purin. Acid uric trong máu cao có
thể gây ra một loại viêm khớp được biết đến với tên gọi bệnh Gout (Gút).
Acid uric còn liên quan đến các bệnh lý khác như bệnh sỏi thận amoniaurat.
7,9-dihydro-1 H -purine-2, 6,8 (3 H ) trione
Acid uric lần đầu tiên được phân lập từ sỏi thận vào năm 1776 bởi Scheele.
Xanthine và hypoxanthine (lần lượt được sản xuất từ purin) dưới tác dụng
của enzyme xanthine oxidase tạo thành acid uric. Trong các tế bào, xanthine
oxidase có thể tồn tại như dehydrogenase xanthine và oxireductase xanthine,
cũng đã được tinh chế từ sữa bò và các chất chiết xuất từ lá lách. Acid uric
được tạo thành trong điều kiện thiếu oxy.
Trong con người và động vật linh trưởng, acid uric là sản phẩm cuối cùng
của quá trình oxy hóa chuyển hóa purin và được bài tiết qua nước tiểu.
Trong hầu hết các loài động vật có vú khác, enzyme uricase tiếp tục oxy
hóa acid uric thành allantoin. Sự thiếu hụt uricase các loài linh trưởng bậc
cao song song với giảm khả năng tổng hợp acid ascorbic. Cả acid uric và
acid ascorbic đều là chất chống oxy hóa mạnh. Ở người, hơn một nửa khả
năng chống oxy hóa của huyết tương có nguồn gốc từ acid uric. Ở loài chim
và bò sát và trong một số động vật có vú ở sa mạc (chuột túi kangaroo), acid
uric là sản phẩm cuối cùng của quá trình chuyển hóa purine, nhưng nó được
bài tiết trong phân là một khối khô. Ở người, khoảng 70% acid uric được
đào thải qua thận và trong 5-25% trường hợp suy giảm chức năng bài