Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Khóa Luận Tốt Nghiệp Hutech.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.01 KB, 51 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây hoa Huệ Hương (Polianthes tuberose L.) là cây hoa cắt cành thuộc
nhóm thân thảo, thích cường độ ánh sáng cao và cho hoa quanh năm. Hoa Huệ
Hương được nhập vào nước ta từ rất lâu. Cây hoa Huệ Hương được trồng phổ biến
tại vùng Nam Trung Bộ đem lại thu nhập khá cao cho người trồng và chính là cây
xóa đói giảm nghèo cho vùng chun canh lồi cây này.
Hiện nay, việc canh tác cây hoa Huệ thường chủ yếu được nhân giống bằng
kỹ thuật nhân giống truyền thống, chủ yếu là lấy củ trồng. Với phương pháp nhân
giống này dễ lây lan các mầm bệnh có sẵn trong củ, đặc biệt là bệnh virus làm giảm
năng suất và phẩm chất hoa, khiến cho giống hoa này ngày càng thối hóa.
Trong những năm gần đây, bệnh hại trên cây hoa Huệ Hương xuất hiện
nhiều, đặc biệt trong đó có một bệnh rất khó trị là bệnh chai bơng. Tác nhân gây
bệnh hiện vẫn chưa xác định được. Bệnh xuất hiện trên diện rộng làm ảnh hưởng
đến năng suất và phẩm chất hoa. Bệnh không làm cho cây chết ngay nhưng làm cho
chồi, củ, hoa kém phát triển, làm thất thu nguồn thu nhập của nông dân. Các triệu
chứng bệnh do virus được mô tả bởi Horner và Person (1988), Chen và Chang
(1998) gần giống các biểu hiện ở cây hoa Huệ Hương ở Nam Trung Bộ. Vấn đề đặt
ra là làm thế nào để tạo nguồn giống sạch bệnh cung cấp cho nhân dân?
Phương pháp nhân giống in vitro với rất nhiều ưu điểm, tạo được cây con trẻ
hóa và sạch bệnh nên tiềm năng sinh trưởng, phát triển và năng suất cao, khắc phục
được nhược điểm của phương pháp nhân giống truyền thống, khôi phục lại phẩm
chất vốn có của giống. Đồng thời hệ số nhân của phương pháp nhân giống này cao
đáp ứng được nhu cầu về số lượng giống có chất lượng cao, ổn định đáp ứng được
nhu cầu sản xuất trên quy mô rộng. Cho đến nay kĩ thuật nuôi cấy mô đã được
nghiên cứu ứng dụng rất có hiệu quả trong việc nhân giống hàng loạt các loại cây


-1-


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

trồng tạo ngân hàng cây giống sạch bệnh, khỏe mạnh cho năng suất cao, phẩm chất
tốt cung cấp cho sản xuất.

2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được ảnh hưởng của các chất đều hòa sinh trưởng thực vật lên quá
trình phát sinh hình thái trong quy trình nhân giống cây hoa Huệ Hương bằng kỹ
thuật nuôi cấy mô tế bào, làm cơ sở cho việc hình thành quy trình nhân giống in
vitro cây hoa Huệ Hương, góp phần giải quyết những khó khăn của thực tiễn sản
xuất hoa.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Cây hoa Huệ Hương là đối tượng mới của sản xuất cây giống bằng phương
pháp nuôi cấy mô ở nước ta. Xuất phát từ yêu cầu khó khăn của thực tiễn, nhằm
khắc phục hiện tượng chai bông trên cây hoa Huệ Hương, một giống hoa Huệ quý
mang lại hiệu quả cao cho nơng dân. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu xây dựng quy
trình nhân giống in vitro cây hoa Huệ đã được tiến hành thử nghiệm.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã đưa ra được các minh chứng về tác động của phương pháp khử
trùng đến tỷ lệ sống của mẫu cây, tác động của chất điều tiết sinh trưởng đến khả
năng phát sinh hình thái.
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể sử dụng nghiên cứu trong nuôi cấy mô tế
bào cây hoa. Góp phần sản xuất cây giống có hiệu quả cao, chất lượng tốt, ứng dụng

vào sản xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành sản xuất cây hoa
Huệ.

5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất điều hòa sinh trưởng thực vật đến quá
trình phát sinh hình thái của mầm ngủ trên củ hoa Huệ Hương. Sử dụng các chất
điều hòa sinh trưởng thực vật như: kinetin, BA, IBA, α-NAA, 2,4-D, IAA.

-2-


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nhân giống cây bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào
Là phương pháp nuôi cấy mô tế bào trong môi trường dinh dưỡng nhân tạo
trong điều kiện vô trùng và tái sinh chúng thành cây con.
Nhân giống bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào là phương pháp mới bổ sung
cho các kỹ thuật nhân giống truyền thống nhiều kỹ thuật tiến bộ, có thể khắc phục
được những hạn chế của các phương pháp nhân giống truyền thống.

1.2. Lịch sử nuôi cấy mô tế bào thực vật
Năm 1838, trên cơ sở những nghiên cứu độc lập, hai nhà bác học người Đức
là Schleiden và Schwamn cùng khởi xướng học thuyết tế bào. Học thuyết này cho
rằng tế bào là đơn vị cấu trúc và chức năng của sinh vật, vì vậy có khả năng tồn tại
độc lập.
Gottlibe Haberlandt là người đầu tiên đề xuất phương pháp nuôi cấy mô tế
bào thực vật vào năm 1902 để chứng minh học thuyết về tính tồn năng của tế bào.

Theo ơng mỗi tế bào của bất kỳ cơ thể nào đều mang toàn bộ hệ thống di truyền cần
thiết và đầy đủ thơng tin của sinh vật đó, khi gặp điều kiện thích hợp, mỗi tế bào
đều có thể phát triển thành cơ thể hồn chỉnh. Ơng tiến hành thí nghiệm với tế bào
khí khổng và các tế bào đã được biệt hóa về chức năng khác nhưng khơng thành
cơng. Điều đó đã giảm sự tin tưởng của các nhà khoa học đối với phương pháp nuôi
cấy mô tế bào trong thời gian dài.
Đến năm 1922 học trò của Gottlibe Haberlandt là Kotte và Robbinss đã làm
lại thí nghiệm của ơng. Họ đã lấy đỉnh sinh trưởng của rễ cây hòa thảo ni cấy
trong mơi trường có khống, đường, đầu rễ đã sinh trưởng mạnh và tạo ra hệ rễ nhỏ
và cả rễ phụ. Tuy nhiên sự sinh trưởng chỉ tồn tại trong một thời gian mặc dù
chuyển sang môi trường mới.
Năm 1934, bắt đầu giai đoạn thứ 2 trong lịch sử nuôi cấy mô tế bào thực vật
khi White đã nuôi cấy thành công đầu tiên rễ cà chua trên mơi trường lỏng có chứa
đường, muối khống, dịch chiết nấm men. Các thí nghiệm tiếp theo ơng thay thế
-3-


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

dịch chiết nấm men bằng hỗn hợp 3 vitamin nhóm B : thiamin (B1), nicotinic acid
(B3), pyridioxin (B6). Sau đó ít lâu Went và Thimann tìm ra chất kích thích sinh
trưởng đầu tiên là IAA.
Năm năm sau Gautheret đã thông báo về sự tái sinh của cây cà rốt, đây cũng
là lần đầu tiên sự phát triển của mô sẹo không bị giới hạn. Bằng cách thêm IAA vào
mơi trường ni cấy, ơng có thể kích thích sự phát triển của mơ đã biệt hóa trên vết
cắt của bề mặt mẫu cấy vơ trùng. Sau này người ta mới thấy rằng callus có thể trực
tiếp nuôi cấy vô thời hạn. Đến năm 1948, Steward xác nhận tác dụng của nước dừa
trên mô sẹo cà rốt. Trong thời gian này nhiều chất sinh trưởng thuộc nhóm auxin

được tổng hợp như naphthylacetiic acid (NAA), 2,4-Diclophenoxyacetic acid
(2,4D). Nhiều tác giả nhận thấy cùng với nước dừa, NAA và 2,4 D đã giúp tạo mô
sẹo gây phân chia tế bào thành công ở nhiều đối tượng thực vật trước đó khó ni
cấy.
Năm 1955, Miller và Skoog đã xác định vai trị của chất kích thích sinh
trưởng là 6-Furfuryl aminopurin (kinetin). Việc phát hiện ra chất kích thích sinh
trưởng, vitamin và nước dừa là những bước tiến quan trọng trong giai đoạn thứ 2.
Năm 1957, Miller và Skoog đã công bố các kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng
của tỷ lệ auxin/kinetin trong môi trường nuôi cấy đối với sự hình thành cơ quan, tỷ
lệ auxin/kinetin thấp, mơ sẹo có khuynh hướng tạo chồi, ngược lại tỷ lệ
auxin/kinetin tăng, mơ sẹo có khuynh hướng tạo rễ. Hiện nay, những kết quả này
cũng được quan sát thấy trên nhiều loại cây khác nhau và đóng góp nhiều vào việc
điều khiển quá trình sinh trưởng, phát triển và phát sinh cơ quan của mô tế bào
trong nuôi cấy. Thành công của Miller và Skoog đã mở đầu cho giai đoạn thứ ba
của lịch sử nuôi cấy mô tế bào thực vật.
Những thành công trên là cơ sở bùng nổ ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô tế
báo thực vật trong sản xuất. Morel và Martin đã phát triển kỹ thuật nuôi cấy đỉnh
sinh trưởng để tạo giống sạch bệnh ở khoai lang và hoa lan. Chính hai nhà khoa học
này đã mở đầu cho một hướng mới của nuôi cấy mô tế bào thực vật, đó là vi nhân
giống.

-4-


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

Từ những năm 1960, ngồi các hướng trên, ni cấy bao phấn và hạt phấn,
nuôi cấy tế bào đơn và tế bào trần được phát triển mạnh. Các kỷ thuật lai soma bằng

dung hợp tế bào trần và kỷ thuật chuyển gen được phát triển và thu được những
thành tựu đáng kể.
Chúng ta đang bước vào giai đoạn thứ 4 của nuôi cấy mô tế bào thực vật. Đó
là giai đoạn ni cấy mơ tế bào được ứng dụng mạnh mẽ vào thực tiễn chọn giống,
sản xuất các chất thứ cấp có hoạt tính sinh học và vao nghiên cứu lý luận di truyền
thực vật bậc cao.

1.3. Cơ sở lý luận của nuôi cấy mô tế bào thực vật
Cơ sở lý luận của phương pháp nuôi cấy mô tế bào in vitro là học thuyết về
tính tồn năng (totipotence) của tế bào. Theo Haberlandt G. (1902), nhà thực vật
người Đức, tất cả các tế bào của cây đều mang tồn bộ lượng thơng tin di truyền của
cơ thể, khi gặp điều kiện thích hợp, mỗi tế bào đều có khả năng tái sinh và phát triển
thành cá thể hoàn chỉnh. Thực tế đã chứng minh được khả năng tái sinh một cơ thể
thực vật hoàn chỉnh từ một tế bào riêng rẽ. Hàng trăm lồi cây trồng đã được nhân
giống trên qui mơ thương mại bằng cách nuôi cấy trong môi trường nhân tạo vô
trùng và tái sinh chúng thành cây với hệ số nhân giống vơ cùng lớn (Murashige,
1980).
Q trình phát sinh hình thái trong nuôi cấy in vitro thực vật thực chất là kết
quả của các q trình phân hóa và phản phân hóa. Tất cả các tế bào trong các cơ
quan khác nhau của cơ thể thực vật đều bắt nguồn từ tế bào phôi sinh. Sự chuyển tế
bào phôi sinh thành các tế bào chuyên hóa để đảm nhiệm các chức năng khác nhau
được gọi là sự phân hóa tế bào. Cịn q trình phản phân hóa thì ngược lại với q
trình phân hóa, có nghĩa là tế bào đã phân hóa thành mơ chức năng khơng hồn tồn
mất đi khả năng phân chia mà ở điều kiện thích hợp chúng có thể trở về dạng phơi
sinh và tái phân chia.
Bản chất của quá trình này là một quá trình hoạt hóa, ức chế các gen. Trong
q trình phát triển cá thể, ở từng thời điểm nhất định đều có một số gen nhất định
được hoạt hóa cho ta tính trạng mới, một số gen khác lại bị đình chỉ hoạt động. Điều

-5-



Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

này xảy ra theo một chương trình đã được mã hóa trong cấu trúc phân tử DNA của
mỗi tế bào khiến quá trình sinh trưởng phát triển của cơ thể thực vật luôn được hài
hịa. Mặt khác, khi nằm trong khối mơ bình thường, tế bào luôn bị chi phối bởi các
tế bào xung quanh. Khi tế bào được tách riêng rẽ, tác dụng ức chế của các tế bào
xung quanh khơng cịn nữa thì các gen được hoạt hóa và q trình phân hóa sẽ xảy
ra theo một q trình định sẵn.

1.4. Ưu, nhược điểm của phương pháp nhân giống in vitro
Phương pháp nhân giống in vitro có khả năng khắc phục được nhiều trở ngại
mà những phương pháp nhân giống khác thường gặp. Sau đây là những ưu điểm
chính :
- Cây con được trẻ hóa và sạch bệnh, vì vậy có tiềm năng sinh trưởng, phát triển và
năng suất cao.
- Tạo cây con đồng nhất về mặt di truyền, bảo tồn được các tính trạng đã chọn lọc.
- Tạo được dịng thuần của các cây tạp giao.
- Tạo được cây có genotip mới (đa bội, đơn bội).
- Bảo quản và lưu giữ tập đồn gen.
- Có khả năng sản xuất quanh năm.
- Có thể nhân nhanh nhiều cây khơng kết hạt trong những điều kiện sinh thái nhất
định hoặc hạt nảy mầm kém.
- Hệ số nhân giống cực kì cao (thường đạt được ở các loài cây khác nhau trong
phạm vi từ 36 - 1012/năm), rút ngắn thời gian đưa một giống mới vào sản xuất đại
trà.
Trong công tác giống cây trồng, vấn đề được quan tâm hàng đầu là chất

lượng và số lượng giống. Bằng phương pháp nuôi cấy đỉnh sinh trưởng, người ta đã
tạo ra được những giống cây hoàn toàn sạch virus. Limasset và Cornel (1945) đã
chứng minh được rằng, nồng độ virus trong thực vật giảm dần ở bộ phận gần đỉnh
sinh trưởng, riêng đỉnh sinh trưởng thì hoàn toàn sạch virus (Morel và Martin,
1952). Nguyên nhân của hiện tượng này là:

-6-


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

- Đỉnh sinh trưởng khơng có hệ mơ dẫn, làm cho virus và vi sinh vật khơng có khả
năng thâm nhập.
- Đỉnh sinh trưởng là nơi sinh tổng hợp của auxin nên hàm lượng auxin khá cao,
auxin có tác dụng ức chế sinh sản của virus.
- Q trình phân chia của tế bào phơi sinh (ở đỉnh sinh trưởng) không kéo theo sự
phân chia của virus.
Về phương diện hệ số nhân, nhân giống in vitro là phương pháp khơng gì có
thể so sánh kịp, kể cả phương pháp nhân giống bằng hạt. Nuôi cấy in vitro có thể
coi là một cuộc cách mạng về hệ số nhân.
Nhược điểm chính của phương pháp ni cấy in vitro là đòi hỏi trang thiết bị đắt
tiền và kỹ thuật cao nên chỉ có hiệu quả đối với những cây có giá trị cao hoặc khó
nhân giống bằng phương pháp khác (Nickell, 1973). Ngồi ra, phương pháp này
cịn có những bất lợi sau:
- Mặc dù số lượng cây giống thu được có thể rất cao nhưng cây con có kích thước
nhỏ, địi hỏi phải có chế độ chăm sóc đặc biệt ở giai đoạn sau ống nghiệm.
- Cây có thể có những đặc tính khơng mong muốn.
- Khả năng tạo đột biến tăng.

- Khả năng tái sinh có thể bị mất đi do cấy truyền callus hay huyền phù tế bào nhiều
lần.
- Cây giống có thể bị nhiễm bệnh đồng loạt.
Tuy vậy phương pháp nhân giống in vitro ngày càng được sử dụng rộng rãi
để phục vụ cho những mục đích sau:
- Nhân nhanh và duy trì các cá thể đầu dòng tốt để cung cấp hạt giống các loại cây
trồng khác nhau như cây lương thực có củ, cây rau, cây hoa, cây cảnh và cây dược
liệu thuộc nhóm cây than thảo.
- Nhân nhanh và kinh tế các kiểu gen quí hiếm của giống cây lâm nghiệp và gốc
ghép trong nghề trồng cây ăn quả, cây cảnh thuộc nhóm than gỗ.
- Nhân nhanh ở điều kiện vơ trùng và cách ly tái nhiễm kết hợp với làm sạch virus.

-7-


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

- Bảo quản và lưu giữ các tập đồn giống nhân giống vơ tính và các loài giao phấn
trong ngân hàng gen.

1.5. Kỹ thuật ni cấy in vitro
Kỹ thuật ni cấy in vitro có thể chia thành các bước sau:
- Lựa chọn đối tượng (cây trồng, giống, bộ phận cây) thích hợp.
Nguyên liệu sử dụng cho ni cấy mơ tế bào thực vật có thể là bất cứ bộ
phận nào của cây: các đoạn của rễ, thân, các phần của lá (cuống lá, phiến lá…), các
cấu trúc của phôi như lá mầm, trụ trên, trụ dưới lá mầm, hạt phấn, nỗn… thậm chí
cả mẫu thân ngầm hay cơ quan dự trữ dưới mặt đất (củ, căn hành…) cũng được
dùng cho nuôi cấy.

- Khử trùng mẫu và tiến hành nuôi cấy.
Nguyên liệu để nuôi cấy in vitro được chọn từ những cá thể ưu tú của lồi,
khỏe và sạch bệnh, nhưng ít nhiều đều có nhiễm vi sinh vật và nấm tùy thuộc vào sự
tiếp xúc của chúng với mơi trường xung quanh. Có một số bộ phận như phơi trong
hạt, mơ trong quả, dịng lúa non… ít bị nhiễm vi sinh vật hơn các bộ phận khác,
ngược lại các bộ phận nằm dưới mặt đất như rễ, củ, thân ngầm, có lượng vi khuẩn
và nấm rất cao. Phương pháp thông dụng nhất hiện nay để loại bỏ hệ vi sinh vật
khỏi vật liệu nuôi cấy là sử dụng các hóa chất có hoạt tính diệt khuẩn và nấm.
Khả năng tiêu diệt nấm và vi sinh vật của hóa chất khử trùng phụ thuộc vào
nồng độ, thời gian xử lý và mức độ xâm nhập của chúng vào các ngõ ngách trên bề
mặt của mô cấy. Để làm tăng hiệu quả, người ta thường nhúng mẫu vào ethanol 70 80% trong 30 giây, sau đó mới xử lý bằng dung dịch diệt khuẩn. Đối với những
mẫu có bề mặt được bao phủ lớp sáp, muốn đạt được kết quả tốt nhất cần cho them
vào dung dịch khử trùng vài giọt Tween 20, Tween 80 hay teapol…vì các chất này
làm tăng tính bám dính của hóa chất khử trùng. Với các mẫu quá bẩn phải rửa kỹ
bằng nước xà phòng và để dưới vòi nước chảy từ 20 đến 30 phút sẽ có tác dụng làm
giảm đáng kể hệ vi khuẩn khỏi mẫu cấy.
Tác nhân khử trùng, ngồi tác dụng diệt vi sinh vật cịn ảnh hưởng đến mơ
cấy vì vậy việc lực chọn loại hóa chất phải căn cứ vào mức độ nhiễm khuẩn và độ

-8-


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

mẫn cảm của từng mẫu. Trong số các hóa chất hay được sử dụng để khử trùng thì
Calcium hypoclorite và natri hypoclorite là hay được sử dụng hơn cả vì có tính độc
thấp đối với mô được xử lý, không gây ức chế sinh trưởng và hiệu quả diệt khuẩn
tốt. Nồng độ của Calcium hypoclorit và natri hypoclorit tương ứng thường là 5 15% và 0,5 - 2% trong thời gian 15 - 30 phút. Tuy nhiên, những chất này không bền

nên trong thực tế HgCl2 cũng hay được dùng để thay thế.
- Xác định điều kiện nuôi cấy (môi trường dinh dưỡng, nhiệt độ, ánh sáng) để điều
khiển q trình phát triển ni cấy theo định hướng.
Thành công của phương pháp nuôi cấy in vitro phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện nuôi cấy. Nhu cầu dinh dưỡng cho sự sinh trưởng và phát triển tối ưu của các
lồi là khơng giống nhau, ngay cả giữa các bộ phận trong cùng một cơ thể cũng ít
nhiều khác nhau. Sự lựa chọn mơi trường ni cấy bao gồm cả chất lượng và số
lượng hóa chất sử dụng đóng vai trị quyết định đối với bản thân sự phân hóa và
chiều hướng phân hóa của tế bào.
Cho đến nay, đã có nhiều loại mơi trường dinh dưỡng được tìm ra : mơi
trường Murashige và Skoog (1962), môi trường Linsmaer và Skoog (1963), môi
trường Gamborg (1968), môi trường Knop (1974)… Đây là những môi trường cơ
bản và sẽ được cải tiến thành nhiều loại môi trường khác nhau phù hợp với mỗi đối
tượng nghiên cứu và mục đích thí nghiệm. Trong số đó, mơi trường MS (Murashige
và Skoog, 1962) được đánh giá là phù hợp nhất cho đa số các lồi thực vật và chính
Murashige (1974) đã dung mơi trường này để ni cấy nhiều lồi cây trồng.
Thành phần chủ yếu của tất cả các loại môi trường gồm những nhóm chất
sau : muối khống đa lượng và vi lượng (muối chloride, nitrate, sulphate, chất tham
gia điều chỉnh sự phân hóa của rễ, chồi…
Các auxin đều có hiệu quả sinh lý ở nồng độ thấp, thường được sử dụng với
nồng độ từ 10-1 M đến 10-6 M tùy theo từng chất, mục đích và đối tượng nghiên
cứu. Auxin được thêm vào môi trường nuôi cấy sẽ kết hợp với auxin nội sinh để
điều khiển chiều hướng và cường độ các quá trình sinh trưởng. Hàm lượng auxin

-9-


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ


thấp sẽ kích thích sự phân hóa rễ, ngược lại ở hàm lượng cao sẽ phát động sự tạo
mô sẹo.
Các auxin thường được sử dụng trong nuôi cấy mô là IBA (indol butyric
acid), α-NAA (a-naphtylacetic acid), 2,4-D (2,4 diclorophenoxy acetic acid), IAA
(indool acetic acid).
Cytokinin là nhóm phytohormone dẫn xuất của adenine, có vai trị sinh lý
tương tự nhau. Cytokinin liên quan chặt chẽ với phân bào, duy trì sự trẻ hóa các cơ
quan, làm giảm ưu thế ngọn, kích thích sự phân hóa chồi từ mơ sẹo ni cấy…
Nồng độ cytokinin cao kìm hãm sự hình thành và phát triển của rễ.
Các cytokinin thường được sử dụng trong nuôi cấy là kinetin, BAP
(benzylaminopurin) với nồng độ 10-4 - 10-7 M.
Nhiều tác giả đã tổng kết rằng sự biệt hóa cơ quan thực vật in vitro là kết quả
tác động qua lại giữa hai nhóm auxin và cytokinin. Cân bằng tỷ lệ auxin/cytokinin
nếu nghiêng về phía auxin sẽ kích thích sự hình thành rễ, ngược lại nếu cân bằng
này nghiêng về phía cytokinin sẽ thúc đẩy sự tạo chồi. Ở tỷ lệ trung gian, mô sẹo
được hình thành. Đây là nguyên tắc chung để điều khiển q trình phát sinh hình
thái của mơ ni cấy. Các mơ khác nhau có phản ứng khơng giống nhau. Vì vậy,
với từng loại mơ và từng giai đoạn sinh trưởng khác nhau, việc tìm được tổ hợp
nồng độ auxin/cytokinin thích hợp có ý nghĩa quan trọng.
- Đưa những cây tái sinh được trở lại điều kiện tự nhiên.
Đây là giai đoạn quan trọng bao gồm việc huấn luyện cây in vitro thích nghi
với điều kiện thay đổi nhiệt độ, độ ẩm, sự mất nước, sâu bệnh và chuyển từ trạng
thái di dưỡng sang tự dưỡng hồn tồn. Q trình thích nghi ở đây được hiểu là q
trình thay đổi đặc điểm sinh lý và giải phẫu của cây in vitro. Thời gian tối thiểu cho
sự thích nghi là 2 - 3 tuần.

- 10 -



Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

1.6. Các hướng nhân giống vơ tính in vitro
Khả năng thành cơng của ni cấy mô tế bào phụ thuộc chủ yếu vào trạng
thái tuổi của tế bào. Tế bào càng gần trạng thái phôi sinh bao nhiêu, khả năng nuôi
cấy thành công càng cao. Như vậy tế bào phơi thường cị triển vọng nhất rồi đến tế
bào các đỉnh sinh trưởng đang ở trạng thái hoạt động (đỉnh ngọn, chóp rễ) và sau đó
là tế bào ở trạng thái ngủ nghỉ (chồi nách).
Trong nhân giống in vitro, cây non có thể được tái sinh từ các điểm sinh
trưởng có sẵn trong các bộ phận (phôi, đỉnh chồi, chồi nách) hoặc từ những mô có
khả năng hình thành điểm sinh trưởng phụ. Có hai phương pháp tái sinh cây con:
+ Tái sinh trực tiếp từ đỉnh sinh trưởng, phôi, ngọn, chồi hay chồi nách.
+ Tái sinh cây gián tiếp thơng qua giai đoạn hình thành mô sẹo.
Tái sinh trực tiếp từ mẫu nuôi cấy là quá trình phát động những điểm sinh
trưởng đã tồn tại sẵn trong mô nuôi cấy phân chia và tái sinh thành cây. Các điểm
sinh trưởng này bao gồm các tế bào phôi sinh chứa 2n nhiễm sắc thể đặc trưng cho
loài. Cây con tạo ra theo con đường này hồn tồn đồng nhất về mặt di truyền và
duy trì được những tính trạng của cây mẹ.
Trong hướng tái sinh gián tiếp, mẫu nuôi cấy không tái sinh thành cây ngay
mà phát triển thành khối mơ sẹo (callus). Có thể thấy ngay là hệ số nhân của hướng
này vô cùng lớn. Từ một khối mơ sẹo có thể tạo ra khối lượng lớn cây giống trong
một thời gian ngắn thong qua kỹ thuật tạo phôi soma hoặc chế ra hạt giống nhân
tạo. Nhiều cây tái sinh từ mơ sẹo có thể rất khác với cây mẹ về mặt di truyền.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do trong quá trình phát sinh và phát triển của
mô sẹo, thường xuất hiện những tế bào đột biến mang số nhiễm sắc thể không giống
với tế bào ban đầu hoặc chứa những đột biến gen do hiện tượng nội nguyên phân.
Nội nguyên phân là hiện tượng nhân đôi nhiễm sắc thể không kèm theo sự phân bào
trong thực tế và là hiện tượng tự nhiên trong cơ thể thực vật, nhưng tăng lên dưới

ảnh hưởng của các thành phần của môi trường dinh dưỡng và điều kiện cũng như
phướng pháp nuôi cấy, nhất là khi cấy chuyển nhiều lần. Đột biến tuy không có lợi
cho việc duy trì ngun trạng những đặc tính di truyền trong quá trình tạo giống

- 11 -


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

nhưng lại chính là đối tượng tìm kiếm trong quá trình cải tạo giống. Ngồi việc
cung cấp những đột biến tự nhiên, mơ sẹo còn là đối tượng lý tưởng để tạo ra những
đột biến nhân tạo bằng các tác nhân gây đột biến hoặc cơng nghệ gen.
Vì vậy, trong nhân giống in vitro, để nhân nhanh những cá thể đã chọn lọc
người ta thường tái sinh cây theo hướng trực tiếp, còn mục tiêu của tái sinh gián
tiếp là tạo ra nhiều biến dị để phục vụ cho việc chọn lọc và cải tạo giống cây trồng.

1.7. Quy trình nhân giống in vitro
Quy trình nhân giống được chia làm 5 giai đoạn:
1.7.1. Lấy mẫu và xử lý mẫu
Đây là giai đoạn quan trọng quyết định vi nhân giống. Khả năng nhiễm bệnh
của mẫu phụ thuộc vào cách lấy mẫu, xử lý mẫu trong điều kiện khử trùng. Mỗi cây
đều có ngưỡng nhiệt độ và độ ẩm phù hợp khi bảo quản và xử lý mẫu. Với cây nhiệt
đới và á nhiệt đới thì nhiệt độ 25oC, độ ẩm 75% là điều kiện giữ mẫu thích hợp, tỷ
lệ nhiễm bệnh thấp.
1.7.2. Tái sinh mẫu ni cấy
Mục đích của giai đoạn này là tái sinh các cơ quan từ mẫu nuôi cấy. Mẫu
thường là chồi đỉnh, chồi nách hay lát cắt đốt thân tùy thuộc đối tượng và mục đích
nghiên cứu. Quan trọng nhất là cần chú ý đến trạng thái sinh lý của mẫu. Khả năng

thành công của nuôi cấy mô, tế bào phụ thuộc chủ yếu vào trạng thái tuổi của tế
bào, càng gần trạng thái phơi sinh bao nhiêu thì ni cấy càng có khả năng thành
cơng bấy nhiêu. Như vậy, tế bào phơi thường có triển vọng nhất rồi đến tế bào đỉnh
sinh trưởng đang hoạt động (đỉnh ngọn, đầu rễ), sau đó là tế bào ở trạng thái ngủ
(chồi nách).
1.7.3. Nhân nhanh chồi
Đây là giai đoạn đánh giá tính ưu việt của phương pháp vi nhân giống. Môi
trường ở giai đoạn này được bổ sung điều hòa sinh trưởng thực vật (cytokinin,
auxin) tăng thời gian chiếu sáng lên 16 giờ/ngày, cường độ ánh sáng tối thiểu là
1000 lux. Ánh sáng tím là thành phần kích thích phân hóa mạnh, nhiệt độ thích hợp
từ 20 - 30oC.

- 12 -


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

1.7.4. Tái sinh rễ
Khi chồi đạt đến một kích thước nhất định, mẫu được chuyển sang môi
trường tạo rễ. Môi trường này thường được bổ sung auxin (IBA, α-NAA, 2,4-D) ở
liều lượng thích hợp. Tuy nhiên, ở một số cây như chuối thì sự hình thành rễ tốt hơn
ở mơi trường khơng có chất điều hòa sinh trưởng.
1.7.5. Đưa cây in vitro ra vườn ươm
Ở giai đoạn này, cây được chuyển từ trạng thái dị dưỡng sang tự dưỡng. Vì
vậy cần phải huấn luyện cho cây thích nghi với sự biến đổi của mơi trường, đồng
thời thay đổi những đặc điểm sinh lý và giải phẫu của cây con.

1.8. Sơ lược về đối tượng nghiên cứu

1.8.1. Nguồn gốc
Cây hoa Huệ Hương có tên khoa học là Polianthes tuberose L. Đây là loài
hoa cắt cành, thuộc nhóm cây thân thảo, cho hoa quanh năm, nở hoa vào ban đêm,
có nguồn gốc chủ yếu từ Mexico và hiện đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới.
Loài hoa này đã được du nhập vào nước ta từ rất lâu và được trồng phổ biến
tại một số tỉnh thuộc vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
1.8.2. Phân loại
Trong hệ thống phân loại thực vật học, cây
hoa Huệ Hương là cây thuộc:
- Ngành: Plantae (Thực vật)
- Lớp: Monocotyledonae (Một lá mầm)
- Bộ: Liliales (Hành)
- Họ: Amarylidaceae (Thủy Tiên)
- Chi: Polianthes
- Loài: Polianthes tuberose L.
Theo kết quả thống kê trên thế giới
thì hiện tại ở Mexico có khoảng 12 lồi hoa
Huệ Hương.
Hình 1.1. Polianthes tuberose L.

- 13 -


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

Riêng ở Việt Nam hiện nay, dựa vào đặc điểm của hoa thì chia thành 2
giống, chủ yếu là huệ đơn và huệ kép.
- Huệ đơn hay còn gọi là huệ xẻ: cây thấp, mảnh khảnh, cách hoa nhỏ, bơng chỉ có

một lớp cánh nhưng hương thơm rất đậm.
- Huệ kép hay còn gọi là huệ tứ diện: cây cao, hoa dày và bông dài hơn huệ đơn
nhưng hương thơm kém hơn.
1.8.3. Đặc điểm thực vật học
1.8.3.1. Thân
Huệ thuộc cây thân thảo, thân hành hay còn gọi là thân giả được kết bởi các
bẹ lá xếp chồng lên nhau, bẹ lá trước xếp phủ lên bẹ lá sau. Thân thẳng đứng không
phân nhánh vươn lên thành ngồng hoa cao khoảng 0,8 - 1m.
1.8.3.2. Lá
Cây hoa huệ có lá đơn mọc quanh gốc, xanh và dài, cuống lá gốc rộng và to
thành hình như cái bao bao lấy củ, giữa phiến lá và bẹ lá không phân biệt rõ ràng.
Chiều dài lá khoảng 20 - 30cm, bề rộng của lá từ 0,5 - 1cm.
1.8.3.3. Hoa
Cây hoa huệ là cây cho hoa quanh năm, nhưng hoa nở chủ yếu vào mùa hè
cịn mùa đơng tỷ lệ ra hoa ít, hoa nhỏ và bơng nắng hơn.
Hoa huệ có màu trắng, bao hoa hình phễu, thường tỏa hương vào ban đêm. Hoa có
vị ngọt, hơi chát, thơm, khơng độc. Cành hoa thường dài, ở nách mỗi lá có 2 hoa
màu trắng, có tràng đơn hay tràng kép, nhị gắn giữa ống, bầu dưới 3 ô.
1.8.3.4. Củ và rễ
Cây huệ có bộ rễ chùm phát triển mạnh, rễ phân bố chủ yếu ở lớp đất mặt 115cm. Có 2 loại rễ: rễ mọc từ củ mẹ ban đầu gọi là rễ sơ cấp và rễ mọc từ củ con
gọi là rễ thứ cấp, củ huệ thực chất chính là thân ngầm của cây huệ.
1.8.4. Yêu cầu ngoại cảnh của cây hoa Huệ Hương
1.8.4.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố vật lý có ảnh hưởng lớn đến thời gian sinh trưởng, phát
triển cũng như khả năng phân hóa hoa của cây hoa Huệ Hương.

- 14 -


Khóa luận tốt nghiệp


SVTH: Lê Ngọc Mỹ

Cây hoa Huệ Hương là cây ưa nhiệt độ mát mẻ (20 - 25oC), nhưng chịu nóng
tốt, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, cho hoa tốt vào mùa hè. Tuy
vậy, khi nhiệt độ mùa hè quá cao kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng
sinh trưởng của cây, chất lượng hoa và nhất là sâu bệnh phá hại mạnh.
Trước khi phân hóa hoa và lúc cây có 5 - 6 lá cần nhiệt độ mát mẻ (15 - 22oC) nếu
không tỷ lệ nở hoa sẽ rất thấp và chất lượng hoa kém.
1.8.4.2. Ánh sáng
Cây hoa Huệ Hương là cây ưa sáng mạnh. Giai đoạn đầu sau khi trồng, cây
sống chủ yếu nhờ vào nguồn dinh dưỡng từ củ. Khi cây ra lá, cây sử dụng chất dinh
dưỡng từ quá trình quang hợp. Trong thời kỳ phân hóa mầm hoa nếu khơng cung
cấp đủ ánh sáng thì tỷ lệ ra hoa thấp, hoa nhỏ.
Ngoài ra, nếu thiếu ánh sáng cây hoa Huệ Hương rất dễ bị nhiễm bệnh.
Trong điều kiện ngày ngắn, ánh sánh yếu thì ảnh hưởng mạnh đến sự sinh trưởng
phát triển của cây. Cường độ ánh sánh cũng là yếu tố ảnh hưởng tới sự sinh trưởng
và phân hóa mầm hoa. Nếu cường độ chiếu sáng dưới 3500 lux thì cường độ quang
hợp và sự thoát hơi nước giảm, cây mọc vống, cành lá yếu. Do đó khi trồng ở vụ
đơng cần đảm bảo chế độ chiếu sáng phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân
hóa mầm hoa, hoa tự dài đồng thời tăng chất lượng hoa. Số giờ chiếu sáng thích hợp
cho cây hoa huệ sinh trưởng và phát triển tốt từ 12 - 16 giờ và cường độ ánh sáng
khoảng 6000 lux.
1.8.4.3. Nước
Cây hoa Huệ Hương là cây rễ củ nên khi nảy mầm cũng như quá trình sinh
trưởng cần phải có đủ nước. Các giai đoạn sinh trưởng khác nhau thì có nhu cầu về
nước khác nhau. Sau khi trồng vài ngày, rễ mầm nhú ra và phát triển thì yêu cầu đất
xung quanh củ phải đủ ấm, vì vậy trước khi trồng nên tưới nước. Khi cây mọc nếu
đất q khơ thì phải tưới nước ngay. Trong suốt thời kỳ sinh trưởng, cây hoa Huệ
Hương cần rất nhiều nước, đặc biệt là ở giai đoạn có 3 - 7 lá, đây là thời kỳ cây có

nhu cầu về nước lớn, nếu thiếu nước cây sẽ sinh trưởng chậm ảnh hưởng đến khả
năng phân hóa của hoa.

- 15 -


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

1.8.4.4. Đất
Cây hoa Huệ Hương có thể trồng trên bất cứ loại đất nào, tuy vậy cây chỉ
sinh trưởng tốt, cho hoa đẹp trên loại đất hơi kiềm (pH = 6 - 7), có cấu trúc mịn, giữ
ẩm tốt. Tuy vậy, cây hoa Huệ Hương khơng thích hợp ở nơi q trũng, chua.
Cây hoa Huệ Hương có thể trồng trên các loại đất có thành phần cơ giới sau:
- Đất cát pha có độ tơi xốp cao, độ hổng lớn, thống khí, ngấm nước tốt nhưng có
độ phì kém. Do đó, khi trồng hoa Huệ Hương trên loại đất này cần phải bón nhiều
phân hữu cơ để bổ sung dinh dưỡng cho cây.
- Đất thịt nhẹ, thoát nước tốt, giàu dinh dưỡng là loại đất trồng thích hợp đối với cây
hoa Huệ Hương. Nếu đất quá ẩm, rễ rất dễ bị thối, vì thế vào mùa mưa cần chống
úng, tháo nước kịp thời không để ruộng bị ngập úng.
Mặc khác hoa Huệ Hương cũng là cây rất mẫn cảm với các loại muối kim
loại nặng. Đặc biệt là loại đất có hàm lượng chì cao, rễ cây sinh trưởng kém, cây
phát triển chậm và khả năng ra hoa kém. Chính vì vậy trước khi trồng hoa huệ cần
chú ý đến các biện pháp canh tác đất.
1.8.5. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
1.8.5.1. Chuẩn bị giống
Theo phương pháp canh tác truyền thống, cây huệ trồng bằng củ, vì vậy khi
cây có nhiều lá úa vàng thì bới củ, tách nhẹ nhàng từng củ, chọn những củ có kích
thước đạt tiêu chuẩn sau đó cắt bỏ lá và rễ tiến hành phơi nắng 2 - 3 ngày cho lá héo

rồi đem bảo quản nơi thoáng mát, cao ráo, sau 2 - 3 tháng có thể đem trồng trở lại.
Trong thời gian bảo quản nên thường xuyên kiểm tra tránh hiện tượng củ bị thối.
Trong những năm gần đây, xuất hiện bệnh chai bông trên diện rộng, vì vậy
để phịng trừ bệnh chai bơng trên cây hoa Huệ Hương cần tiến hành các bước sau:
- Không sử dụng củ bị nhiễm bệnh hoặc lấy củ từ những ruộng đã bị nhiễm bệnh
trước đó làm củ giống.
- Phơi củ trong vòng 1 - 1,5 tháng trước khi đem ra trồng.
- Nên thay đổi chân đất sau mỗi vụ trồng hoặc luân canh cây hoa Huệ Hương với
một loại cây trồng khác.

- 16 -


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

- Khi phát hiện thấy có triệu chứng bệnh cần loại bỏ cây bệnh ra khỏi ruộng, phơi
khơ và đốt bỏ. Khi khơng có củ giống sạch bệnh, có thể chọn củ ở cây khơng có
triệu chứng bệnh và tiến hành phơi nắng kĩ từ 1-1,5 tháng, sau đó xử lý củ với nước
nóng khoảng 56 - 57oC.
Quy trình xử lý củ Huệ Hương bằng nước nóng để phịng trừ bệnh chai bơng
gồm các bước sau:
- Bước 1: Chuẩn bị củ Huệ Hương để xử lý.
Sau khi thu hoạch, đem phơi củ trong 1 - 1,5 tháng, chọn những củ có đường
kính từ 3 cm trở lên để xử lý.
- Bước 2: Xử lý củ Huệ Hương bằng nước nóng.
Đổ nước nóng và nước lạnh vào trong một thùng nhựa với tỷ lệ 6:5, rồi điều
chỉnh để nhiệt độ nước trong thùng khoảng 56 - 57oC thì bắt đầu cho củ vào nước.
Lượng nước xử lý cần gấp 6 - 7 lần lượng củ xử lý. Sau đó đậy nắp thùng khoảng

15 phút và lại chỉnh cho nước trở lại nhiệt độ 56 - 57oC bằng cách đổ thêm một ít
nước sơi từ từ khuấy đều, và ngâm củ trong thùng đậy kín trong 15 phút nữa.
- Bước 3: Sau khi xử lý xong, củ được rải đều và phơi khô trong 2 ngày sau rồi đem
trồng ra ruộng.
1.8.5.2. Chuẩn bị đất
Nên chọn nơi trảng nắng, luống trồng liên tiếp rộng khoảng 1,2 m và sâu
0,5m để có thể giữ nước tốt. Luống đất nên bố trí dọc theo hướng mặt trời để cây
nhận ánh sáng tốt và đồng đều. Trước khi trồng nên bón phân lót và phun xịt các
loại thuốc diệt nấm và mầm bệnh.
1.8.5.3. Chăm sóc
Trong canh tác cây hoa Huệ Hương yếu cầu về nước rất là quan trọng, phải
thường xuyên tưới nước đồng thời phải xớt đất và làm cỏ giúp cho bộ rễ phát triển
tốt. Phân bón thường sử dụng để bón cho cây là hỗn hợp (Ure, lân và Kali), sau khi
trồng được khoảng 2 - 3 năm cây hoa Huệ Hương bắt đầu bị thối hóa: sinh trưởng
chậm, cho hoa ít và chất lượng kém. Do đó phải nhổ lên phân loại củ và trồng lại
trên một diện tích khác.

- 17 -


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

Trong thời gian trồng và thu hoạch cần tiến hành trừ cỏ, xới đất, bón phân,
tưới nước, phun thuốc…, thường xuyên để tránh lây lam nguồn sâu bệnh hại.
Khi trừ cỏ phải tiến hành theo nguyên tắc trừ sớm, trừ khi cỏ còn non và trừ
sạch, có thể trừ cỏ bằng tay hoặc bằng thuốc.
Trong q trình trồng, nên bón phân với số lượng ít và chia thành nhiều đợt
như bón lót, bón thúc. Ngồi cách bón vào đất cịn có thể phun lên lá để bổ sung

dinh dưỡng, hỗ trợ cho quá trình ra hoa và chống rụng nụ hoa. Trong thời kì phân
hóa mầm hoa cần bón thêm phân đạm, khi ra nụ và sau khi ra hoa cần bón thêm lân
và kali.
1.8.6. Vấn đề sâu bệnh trên cây hoa Huệ Hương
Trên cây hoa Huệ Hương, sâu thường gặp là rệp sáp, nhện đỏ và nhất là
tuyến trùng.
Bệnh gây hại trên cây hoa Huệ Hương được chia thành hai nhóm:
- Nhóm bệnh không truyền nhiễm, do ngoại cảnh không phù hợp thường gặp nhất là
thối xám, thối gốc, đốm lá, gỉ sắt… có thể phịng trị bằng các loại thuốc hóa học.
- Nhóm bệnh truyền nhiễm chủ yếu là do vi sinh vật ký sinh gây ra bao gồm : vi
khuẩn, xạ khuẩn, nấm, mycoplasma, virus,… thường rất khó trị, nhất là bệnh do
virus gây ra rất dễ lây lan và phát tán thành dịch, gây hại nghiêm trọng và truyền từ
đời này sang đời khác, đặc biệt là ở nhóm cây nhân giống vô sinh (bằng củ) như cây
huệ. Virus không thể phịng chống hay tiêu diệt bằng hóa chất như vi khuẩn, nấm,,
sâu bệnh, cách duy nhất để loại bỏ virus là phải tách chúng ra khỏi cây bị bệnh, trả
lại cho cây cuộc sống bình thường khỏe mạnh. Vì vậy, biện pháp làm sạch virus
phải luôn được kết hợp với biện pháp duy trì tính sạch bệnh.
Sau khi trồng khoảng 1 tháng, ở cây hoa Huệ Hương thường bị nhện đỏ phá
hại nặng trên lá, từ 3 - 4 tháng trở đi cây dễ bị rệp sáp phá hại nên có thể phịng trị
bằng các loại thuốc sau : Nissorun, Kelthan 20 EC, Comite, Basudin 10H. Khoảng
tháng 9 - 10, khi trời mưa kéo dài huệ dễ bị úng thối lá, thối củ thì có thể khắc phục
hiện tượng này bằng các loại thuốc như: Anuil, Topsin, Ridomol…

- 18 -


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ


1.8.7. Giá trị kinh tế
Với đặc điểm sinh thái dễ thích nghi với vùng khí hậu nhiệt đới như ở nước
ta đồng thời yêu cầu trồng và chăm sóc khơng q khắt khe nên Huệ Hương được
trồng khá phổ biến và đem lại thu nhập rất cao cho người dân.
Trong những năm gần đây, cây hoa Huệ Hương đem lại thu nhập cao cho
người dân các tỉnh phía Nam như Tiền Giang, Đồng Tháp… Đặc biệt, tại các tỉnh
Nam Trung Bộ như Bình Định, Khánh Hịa, từ khu người dân mở rộng diện tích và
nâng cao kỹ thuật canh tác, cây hoa huệ đã trở thành cây trồng chính, đem lại thu
nhập cao và trở thành cây xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, thu nhập từ cây hoa Huệ
Hương ở đồng bằng song Cửu Long bình quân từ 150 - 200 triệu/ha và ở Nam
Trung Bộ là 80 - 150 triệu/ha.
Ngoài giá trị sử dụng thơng thường như trên, gần đây người ta cịn sử dụng
một số bộ phận của cây làm thuốc chữa bệnh và chế ra các loại dầu thơm.
Hiện nay, một số nghiên cứu về lồi hoa này đã tìm ra một số thành phần hóa học
có liên quan đến việc sản xuất ra các loại dầu thơm, nước hoa quý… được chiết
xuất từ các bộ phận như hoa, sáp hoa… trong đó loại tinh dầu tuyệt đối thu được khi
chiết xuất từ hoa như alcol benzil chiếm 0,7%, benzoat metal (4,5%), antranilat
metal (8,0%), metilisoeugenol (10%), benzoate benzil (24%). Ngoài ra, n-alkan
chiếm tỷ lệ không nhỏ tới 42% trong sáp hoa cũng là một thành phần hóa học quan
trọng trong việc chế xuất các loại nước hoa, dầu thơm.
Bên cạnh đó, cây hoa Huệ Hương cịn có cơng dụng trong y học, bộ phận
được sử dụng là củ. Trong tinh dầu củ huệ có chứa thành phần sapogenin,
sapogenin bao gồm hecogenin, tigogenin là loại hợp chất được chiết xuất để bào chế
ra một số loại thuốc quý. Từ lâu trong nhân gian người dân đã biết sử dụng cây hoa
Huệ Hương để làm thuốc chữa một số bệnh đơn giản. Ở Ấn Độ người ta đã dùng củ
phơi khô, tán thành bột để làm thuốc trị liệu, hoặc ở Vũng Tàu người dân nơi đây đã
dùng củ để chữa bệnh sốt rét.

- 19 -



Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Lê Ngọc Mỹ

Ở một số nơi, dân gian cịn dùng củ để chữa bệnh hóc xương bằng cách đem
giã nát củ, vắt lấy nước rồi nhỏ vào họng của người bị hóc xương sau 1 - 2 phút sẽ
khỏi.

1.9. Tình hình sản xuất hoa huệ trong nước
Du nhập vào nước ta từ rất lâu và được trồng rộng rãi trong cả nước, nhưng
cây hoa Huệ Hương được trồng phổ biến hơn cả ở miền Nam và Nam Trung Bộ.
Trong những năm gần đây, diện tích canh tác cây hoa Huệ Hương ngày càng được
mở rộng và đem lại thu nhập cao cho người trồng.
Theo thống kê hiện nay, trên địa bàn các tỉnh Đồng bằng song Cửu Long có
diện tích trồng huệ lớn hơn cả. Trung bình các tỉnh có khoảng 500 - 1000 ha canh
tác cây hoa Huệ Hương, khi thu hoạch có thể thu nhập từ 150 - 200 triệu/ha.
Do cây này dễ trồng, chi phí đầu tư thấp, ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thời
tiết và đặc biệt hơn là hoa huệ cho thu hoạch tới 14 tháng/vụ nên trong điều kiện
thuận lợi thường cho thu nhập cao.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn các tỉnh vùng Nam Trung Bộ bắt đầu
đẩy mạnh canh tác cây hoa Huệ Hương, đặc biệt là ở Bình Định và Khánh Hịa. Ở
Bình Định, cây hoa Huệ Hương dần trở thành cây trồng chính. Theo đánh giá của
người dân nơi đây, trong điều kiện thuận lợi mỗi ha bình quân cho thu nhập trên 80
- 120 triệu đồng.
Mặc dù vậy, hiện nay việc canh tác cây huệ đang gặp nhiều khó khăn, do bị
sâu bệnh hại phá hoại nhiều, trong đó có một bệnh rất khó trị là bệnh chai bơng.
Hiện nay bệnh phá hoại rất mạnh, có thể làm giảm đến 60% năng suất cây trồng.
Chính vì vậy, năng suất hoa Huệ Hương trên nhiều vùng có xu hướng khơng ổn
định và chất lượng hoa thì giảm đáng kể.

Hiện nay, bệnh chai bơng đang là nguyên nhân chính làm cho giảm năng suất
và phẩm chất hoa trên các vùng chuyên canh, đặc biệt ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Triệu chứng bệnh thể hiện:
- Trên lá: trước khi ra hoa, trên lá của cây con bị nhiễm bệnh thường xuất hiện các
đường gân sọc màu nâu đỏ kéo dài từ bẹ lá đến chóp lá, lá có thể bị xoắn.

- 20 -



×