Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Đề tài bi kịch trong văn học việt nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.87 KB, 159 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
các số liệu và kết quả trong Luận án là trung thực và chưa từng được công bố
nơi khác
Tác giả luận án
Phạm Thị Chiên
MỤC LỤC
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Vào đầu thế kỷ XX, kịch nói xuất hiện được xem là sản phẩm mới
của lịch sử văn học, khẳng định mạnh mẽ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây
vào nước ta. Kịch tỏ ra có ưu thế đặc biệt, thích ứng kịp với cuộc sống đang
thay đổi, với xã hội Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.
Với kịch nói, văn học nghệ thuật nước ta có thêm một thể loại mới, hòa nhập
tích cực vào tiến trình văn học hiện đại của thế giới.
Kịch nói là sản phẩm của nền văn minh đô thị, tác phẩm kịch do lớp trí
thức Tây học và tiểu tư sản sáng tác để đáp ứng nhu cầu tinh thần, tâm lí, thị
hiếu của tầng lớp thị dân. Kịch nói từ thú chơi tài tử của những trí thức tân
học, dần dần trở thành một bộ môn kịch nghệ thu hút cả những nghệ sĩ, những
nhà văn có tên tuổi, chiếm số đông khán giả thành thị, tạo lập một phong trào
làm thay đổi hẳn tập quán thưởng thức, mang đến cho đời sống đô thị một
sinh hoạt văn hóa nghệ thuật mới.Vì vậy, ngoài giá trị tạo nên một thể loại
mới, kịch đã tạo nên một lớp nhà văn, nghệ sỹ và công chúng mới có thẩm mĩ
của xu hướng Âu hóa.
Một thế kỷ hình thành và phát triển, thể loại kịch đã thực hiện nhiệm vụ
lịch sử giao cho trong việc tiên phong thể hiện thực tiễn xã hội đa dạng và
phức tạp, miêu tả được những mâu thuẫn của đời sống xã hội và cảm thức con
người hiện đại trong từng thời kì.


1.2. Về bi kịch, từ thời cổ đại, thể loại này đã được nghiên cứu khá sâu
và có tầm ảnh hưởng cho tới tận ngày nay (tiêu biểu là Aristote). Về sau,
nhiều học giả nổi tiếng (Gorasi, Shakespeare, Lessing, Rousseau …) đã có
những bàn luận sâu sắc về kịch nói chung, bi kịch nói riêng ở nhiều góc độ
khác nhau. Ở Việt Nam, bi kịch là thể loại quan trọng cần nhiều tâm huyết
nghiên cứu để tìm ra những đặc điểm chung mang tính thời đại cũng như
những đặc trưng mang tính dân tộc của thể loại văn học đặc thù này. Tuy vậy,
thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam còn khá mới mẻ và trong một thời
gian dài bị chìm lắng hoặc quên lãng cả trong nghiên cứu cũng như sáng tác.
Thành tựu của bi kịch Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với các thể loại khác
hoặc ngay với các chủng loại khác của kịch. Những vấn đề lý thuyết bi kịch,
bản chất và thi pháp của thể loại bi kịch tuy đã được đề cập và bàn luận ít
nhiều nhưng vẫn còn nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, cần phải tìm hiểu, nghiên cứu
một cách chuyên sâu hơn.
1.3. Với những tiền đề lí luận và thực tiễn trên, Luận án mong muốn góp
phần tìm hiểu bi kịch, nhằm minh định các đặc trưng của thể loại, làm rõ thêm
những giá trị về nội dung, nghệ thuật của bi kịch. Từ đó, khẳng định sự tồn tại
của thể loại bi kịch như một thể loại trong nền văn học Việt Nam hiện đại với
những đặc điểm về xung đột bi kịch, về nhân vật, về biểu hiện của sự thanh
lọc trong cấu trúc hình tượng nhân vật và hiệu ứng thanh lọc trong nhận thức
của khán giả trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Những kết quả đạt được của
luận án sẽ góp phần làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu bi kịch cũng như
cung cấp những cứ liệu thực tiễn cho việc giảng dạy học tập về kịch nói
chung và bi kịch nói riêng trong nhà trường.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Đối tượng của đề tài là nghiên cứu bi kịch từ góc độ thi pháp thể loại qua
khảo sát các tác phẩm kịch trong văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm bi
kịch thuộc văn học nước ngoài, kịch bản sân khấu truyền thống Việt Nam như
tuồng, chèo, cải lương…không thuộc đối tượng nghiên cứu trong đề tài này.

2.2. Phạm vi:
3
Kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Kịch vừa để biểu diễn đồng
thời vừa để đọc. Sân khấu là không gian sinh tồn của một vở diễn. Tuy vậy,
trong giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu tác phẩm kịch ở phương
diện kịch bản văn học.
Một thế kỷ bi kịch ra đời và trưởng thành có nhiều tác phẩm, tác giả góp
phần làm nên diện mạo nền văn học kịch, nhưng do đối tượng và phạm vi của
luận án, chúng tôi chỉ khảo sát những tác phẩm bi kịch tiêu biểu, cụ thể là: Kim
tiền (Vi Huyền Đắc), Yêu Ly (Lưu Quang Thuận), Vũ Như Tô (Nguyễn Huy
Tưởng), Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ). Ngoài ra, nhằm làm
sáng rõ hơn các đặc trưng của bi kịch trong văn học Việt Nam, luận án mở
rộng diện khảo sát các tác phẩm có chứa đựng yếu tố bi kịch trong một số vở
kịch Con nai đen, Rừng trúc, Cái bóng trên tường, Người đàn bà hóa đá,
Trương Chi của Nguyễn Đình Thi, Quỷ ở với người của Nguyễn Huy Thiệp
3. Mục đích nghiên cứu
Luận án nhằm đạt những mục đích sau đây:
3.1. Bước đầu khái quát được tiến trình phát triển bi kịch Việt Nam thế
kỷ XX, qua việc tìm hiểu đánh giá một số tác phẩm tiêu biểu.
3.2. Rút ra được hệ thống nhận định, đánh giá về bi kịch trong văn học Việt
Nam thế kỷ XX trên các yếu tố cơ bản: Xung đột, nhân vật và sự thanh lọc.
3.3. Tìm hiểu vấn đề bi kịch trong văn học Việt Nam nhằm minh định
các đặc trưng của thể loại, làm rõ thêm những giá trị về nội dung, nghệ thuật
của các tác phẩm bi kịch tiêu biểu trong văn học hiện đại
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý thuyết
a) Về cơ sở lý thuyết, luận án vận dụng lý thuyết Thi pháp học thể loại.
Đặc trưng thể loại bi kịch được xác định gồm: Xung đột bi kịch, nhân vật bi
kịch, hành động bi kịch, ngôn ngữ bi kịch…trong sự khu biệt với hài kịch và
chính kịch.

4
b) Về giả thuyết nghiên cứu, với đề tài Bi kịch trong văn học Việt Nam
hiện đại, Luận án nhằm giải đáp những vấn đề sau:
- Trong văn học Việt Nam có tồn tại những tác phẩm bi kịch hội đủ các
đặc trưng để trở thành một thể loại hay chỉ là tác phẩm kịch có yếu tố cái bi?
- Nếu văn học Việt Nam có thể loại bi kịch thì bi kịch mang những đặc
trưng gì?
- Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam có gì độc đáo, mang bản sắc
riêng?
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Về mặt phương pháp luận, để thực hiện đề tài, chúng tôi thiên về hướng
tiếp cận từ góc độ thi pháp để làm rõ đặc trưng thể loại, đó là xung đột bi
kịch, nhân vật bi kịch và sự thanh lọc. Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại: Phương pháp này là để có được các
dẫn liệu có tính thuyết phục cao qua việc khảo sát thống kê và sắp xếp các dẫn
liệu, tổng hợp thành những luận điểm lớn, tạo cơ sở đáng tin cậy cho việc nghiên
cứu.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này nhằm làm rõ sự giống nhau
và khác nhau giữa các tác phẩm bi kịch từ đó khái quát được những đóng góp
và hạn chế của mỗi vở bi kịch.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này để đánh giá các
hiện tượng và rút ra các nhận định trên một số phương diện: xung đột bi kịch,
nhân vật bi kịch và sự thanh lọc.
- Phương pháp hệ thống: Phương pháp này nhằm chỉ ra các đặc điểm
của xung đột bi kịch, nhân vật bi kịch và sự thanh lọc là những yếu tố trong
mối quan hệ với hệ thống các yếu tố khác của thể loại bi kịch trong văn học
Việt Nam hiện đại.
5
Ngoài ra, luận án còn vận dụng phương pháp tiếp cận liên nghành (Mỹ

học, Văn hóa học, Sân khấu học) và các thủ pháp nghiên cứu (miêu tả, diễn
dịch, quy nạp) để làm rõ đặc trưng thi pháp thể loại bi kịch.
5. Những đóng góp mới của luận án
Trên phương diện lí luận, từ trước đến nay tình hình nghiên cứu vấn đề
bi kịch mới chỉ dừng lại ở việc dịch thuật các tài liệu nước ngoài phục vụ cho
nghiên cứu giảng dạy, mà chưa có công trình lí luận riêng biệt và hoàn thiện
về vấn đề này. Luận án là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu về bi
kịch trong văn học Việt Nam hiện đại.
Luận án có những đóng góp mới như sau:
- Bước đầu, qua cứ liệu thực tiễn, chỉ ra sự tồn tại, sự thể hiện của bi
kịch trong các tác phẩm kịch; qua đó, về mặt lí luận, góp phần khẳng định:
trong văn học Việt Nam hiện đại, những tác phẩm thể hiện yếu tố bi kịch khá
đa dạng và mới mẻ, có những tác phẩm tiêu biểu đã hội đủ các điều kiện để
tạo nên thể loại bi kịch.
- Nghiên cứu đặc điểm xung đột bi kịch ở các phương diện: Các kiểu
xung đột bi kịch, cách giải quyết xung đột trong thể loại bi kịch; đặc điểm
nhân vật bi kịch, phân loại các kiểu nhân vật.
- Mặt khác, đề tài đã chứng minh được vấn đề tính dân chủ trong một
thể loại xem trọng tính giai tầng ở phương diện nhân vật; làm rõ vấn đề về
con người bình dân trong các tác phẩm bi kịch Việt Nam, thể hiện sự cách tân
trong quan niệm nghệ thuật về xây dựng nhân vật ở thể loại bi kịch.
- Nghiên cứu vấn đề thanh lọc trong bi kịch trên hai phương diện: sự
thanh lọc diễn ra ở quá trình tiếp nhận của khán giả qua sự lo sợ và thương
cảm; sự thanh lọc diễn ra ngay trong chính cấu trúc tác phẩm, tức là sự thanh
lọc ở nhân vật bi kịch.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án gồm có
bốn chương:
6
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu bi kịch trong văn học Việt

Nam hiện đại
Chương 2. Những vấn đề lý thuyết liên quan đến bi kịch. Khái quát về bi
kịch trong văn học Việt Nam hiện đại
Chương 3. Vấn đề xung đột qua các tác phẩm bi kịch trong văn học Việt
Nam hiện đại
Chương 4. Nhân vật và sự thanh lọc qua các tác phẩm bi kịch trong văn
học Việt Nam hiện đại
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BI KỊCH
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Bàn về sự tồn tại của thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về bi kịch là một vấn đề mới, đang còn nhiều
tranh cãi. Cho đến nay ý kiến bàn bạc chưa nhiều và chưa hệ thống. Trong số
các tác giả nghiên cứu về bi kịch chúng ta thấy có hai xu hướng trái ngược
nhau. Xu hướng thứ nhất, cho rằng trong văn học Việt Nam bi kịch chưa phải
là một thể loại mà các tác phẩm kịch chỉ có yếu tố bi kịch. Xu hướng thứ hai
khẳng định bi kịch là một thể loại tồn tại độc lập bên cạnh hài kịch và chính
kịch. Ở xu hướng này, các nhà nghiên cứu ngoài việc chỉ ra sự tồn tại của bi
kịch như một thể loại còn khẳng định trong văn học Việt Nam hiện đại có tác
phẩm xứng đáng là bi kịch đích thực có thể sánh tầm với những bi kịch cổ
điển trên thế giới.
1.1.1. Xu hướng phủ nhận sự tồn tại của thể loại bi kịch
Trước tiên là quan điểm cho rằng không có thể loại bi kịch trong văn
học Việt Nam, tiêu biểu là ý kiến của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học "Ở Việt Nam, không
có bi kịch như một thể loại văn học - sân khấu theo quan niệm cổ điển mà chỉ
có một số vở tuồng hoặc kịch hiện đại mà nội dung tư tưởng nghệ thuật có
chứa yếu tố bi kịch. Có thể coi Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng là một ví
dụ." [31;Tr19]. Thực ra, ý kiến trên chỉ xuất hiện trong một cuốn sách chứ

chưa được phát triển thành hệ thống bài nghiên cứu chứng minh vấn đề sự
không tồn tại của bi kịch như là một thể loại. Trong thư mục mà chúng tôi có
được, quan điểm phủ nhận sự tồn tại bi kịch mới chỉ dừng lại ở tài liệu này.
Từ đó đến nay chưa có tác giả nào, công trình, hay bài viết nào phát triển
khẳng định và đồng tình với luận điểm trên. Tuy nhiên, cũng có những nhà
nghiên cứu coi các tác phẩm kịch là hiện tượng tiểu biểu của văn học Việt
Nam nhưng chỉ mới dừng lại ở việc đánh giá nội dung tư tưởng của các vở
8
trên mà chưa bàn sâu về thi pháp bi kịch và đặc biệt là không chú ý vào vấn
đề sự tồn tại thể loại.
1.1.2. Xu hướng thừa nhận sự tồn tại của thể loại bi kịch
Chiếm đa số vẫn là quan điểm nhất quán khẳng định sự tồn tại của thể
loại bi kịch ở nước ta, không chỉ có mặt như một thể loại mới làm phong phú
cho diện mạo văn học hiện đại mà hơn thế ngay từ khi mới xuất hiện đã có
những đỉnh cao về sáng tạo bi kịch.
Tất Thắng trong bài “Cuộc tao ngộ giữa kịch và văn”, khẳng định Vũ
Như Tô là một bi kịch : “Bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sỹ
khát khao sáng tạo trong một xã hội không có chỗ cho sự khát khao đó. Cái
chết của Vũ Như Tô do đám đông quần chúng giết, cái đám đông nổi cơn
cuồng phong bạo động làm rung chuyển và quay đổi lịch sử khiến ta nhớ đến
những bi kịch lớn trong kho tàng kịch nhân loại như Juyliut Xeda của
Sechspia hay Borris Godunop của Puskin” [48;Tr 400 - 401].
Đỗ Đức Hiểu với bài “Bi kịch Vũ Như Tô”, đã khẳng định: “Với Vũ
Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng sáng tạo một bi kịch hiện đại ở Việt
Nam”[45;Tr 421]. “Vũ Như Tô là một bi kịch, kiểu bi kịch cổ điển Pháp thế
kỷ XVII, với tiêu đề vở là tên nhân vật trung tâm (Andromaque, Phedre, Vũ
Như Tô ), với những hồi, những cảnh (lớp) kế tiếp nhau, liên tiếp với nhau
chặt chẽ, với những xung đột đầy kịch tính, và cuối cùng kết thúc bằng những
cái chết ” [45;Tr424]. Như vậy, trong bài viết này Đỗ Đức Hiểu đã chỉ ra
được vở Vũ Như Tô là bi kịch, hơn thế là một bi kịch hiện đại của văn học

Việt Nam. Mặt khác, ông so sánh sự tương đồng giữa vở Vũ Như Tô với các
vở bi kịch cổ điển Pháp trên các biểu hiện như tên tác phẩm, xung đột, và
philna cuối cùng là cái chết của nhân vật. Đỗ Đức Hiểu quan tâm nhiều đến
đối thoại kịch, nhân vật kịch, hình thức kịch bản và phân tích biểu hiện chi
tiết qua vở Vũ Như Tô.
Phan Trọng Thưởng trong “Lời giới thiệu” cuốn sách Vũ Như Tô đã viết:
“Về mặt thể loại, các nhà nghiên cứu văn học và mĩ học đã tường giải Vũ
9
Như Tô là một sáng tạo bi kịch xuất sắc có thể sánh ngang với những sáng tạo
bi kịch vào hàng cổ điển trong văn học thế giới. Với cống hiến quan trọng này
Nguyễn Huy Tưởng đã nhanh chóng vượt trên Vi Huyền Đắc, đưa nghệ thuật
kịch còn non trẻ ở Việt Nam vào thời điểm tác phẩm ra đời lên đỉnh cao vinh
quang của thể loại.” [93;Tr8]
Phạm Vĩnh Cư trong bài "Bàn thêm về bi kịch Vũ Như Tô", đã viết:
"Chúng tôi sẽ cố gắng chứng minh rằng Vũ Như Tô là tác phẩm bi kịch duy
nhất và đích thực của Nguyễn Huy Tưởng. Nó đáp ứng đầy đủ và khá toàn
hảo mọi yêu cầu, mọi tiêu chí của một thể loại văn học mà mĩ học châu Âu
xưa nay có lí do coi là thể loại cao quý nhất và khó nhất". Ông nhấn mạnh:
"Sáng tạo được những bi kịch thực thụ tức là sánh ngang với Eschyle,
Sophocle, Shakespeare, Corneille, Racine.…" [9;Tr50]. Và tác giả Phạm Vĩnh
Cư xem vở bi kịch Vũ Như Tô là "một trong những trái chín sớm tuyệt vời của
tiến trình văn hóa Việt Nam hội nhập văn hóa thế giới". "Với Vũ Như Tô,
Nguyễn Huy Tưởng sáng tạo một bi kịch hiện đại ở Việt Nam". Tác giả Phạm
Vĩnh Cư trong bài "Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam thế kỉ XX"
khẳng định sự tồn tại của thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam, dù số
lượng các tác phẩm bi kịch đích thực không nhiều nhưng đều là những đỉnh
cao và góp phần xác lập một thể loại lớn. Ông viết: "Ba tác phẩm bi kịch - Vũ
Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, Trường hận - Dương Quý Phi của Vi Huyền
Đắc - Thế Lữ, Yêu Ly của Lưu Quang Thuận… cho phép ta nói không chỉ về
cảm hứng sáng tạo mãnh liệt, mà còn về khuynh hướng chín muồi gia tốc của

thể loại bi kịch trong văn học nước ta thời ấy" [8;Tr102]
Tác giả Nguyễn Bích Thu cho rằng: “Vũ Như Tô là bi kịch hiện đại đầu
tiên của nền kịch Việt Nam, một thể loại ghi nhận tài năng, tư chất cùng
những đóng góp tích cực và hiệu quả của kịch tác gia Nguyễn Huy Tưởng
trong quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam thế kỷ XX” [101]. Tác giả
khẳng định vị trí quan trọng của vở kịch Vũ Như Tô đó là “bi kịch hiện đại
10
đầu tiên” và đóng góp to lớn của Nguyễn Huy Tưởng đối với tiến trình hiện
đại hóa của văn học.
Như vậy, điểm qua ý kiến của các nhà nghiên cứu bi kịch cho thấy sự
thống nhất cao trong việc xác định tên gọi thể loại bi kịch. Các nhà nghiên
cứu thừa nhận sự tồn tại của bi kịch trong văn học Việt Nam. Việc xác định
danh tính cho vở kịch đã rõ, và quan điểm cho rằng trong văn học Việt Nam
chỉ có “yếu tố bi kịch” mà không có “thể loại bi kịch” đã được xem xét lại.
1.2. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Kim Tiền của Vi Huyền Đắc
Nguyễn Tuân trong “Lời giới thiệu” viết cho vở Kim tiền, năm 1957 bàn
khá đầy đủ và sâu sắc các mặt của vở kịch, từ cốt truyện, xung đột, nhân vật,
ngôn ngữ, trên cả hai bình diện đóng góp và hạn chế của vở. Bàn về cốt
truyện ông viết: "Đúng như cái tên Kim Tiền nêu lên, từ đầu đến cuối vở Kim
Tiền, Vi Huyền Đắc đã chuyên nói về một câu chuyện tiền nong trong một cái
xã hội An Nam trọng thị đồng tiền. Đây là một cái chuyện của người Việt
Nam nhất định làm giàu, đòi phải làm giàu cho bằng được. Cái người có chí
làm giàu này là Trần Thiết Chung và cái lịch sử một đời triệu phú này tính từ
năm 1937 ngược về trước. Nguyên là một kẻ nghèo quý trọng khí tiết và sự
trong trắng của phẩm cách làm người, Trần Thiết Chung đã từ chỗ rất khái
với đồng tiền, rất phẫn vì vợ con thắng thúc mà đi tới chỗ chạy theo tiền,
hùng hục làm tiền, cuồng tín trong sự vận dụng và kinh doanh tiền, say sưa
mà điều khiển tiền. Trần Thiết Chung là một người có chí, có cái chí và sự tự
ái trở nên giàu sụ cho đời biết tay ta. Cái người có chí ấy đã làm nên. Trước vì
khí khái nên muốn cam phận nghèo, nay vì dỗi hờn với vợ con, phẫn với

chính mình mà Trần Thiết Chung lao vào đời làm tiền. Lão đi trưng thuế đò,
thuế chợ, buôn tàu, buôn bè, mộ phu, khai mỏ, rồi lại gửi tiền vào nhà băng
mua đường sắt và tàu tận bên Tây để khai mỏ nhiều hơn nữa. Từ một vợ nay
Trần Thiết Chung đã có ba vợ ở mỗi người một dinh cơ riêng: vợ cả ở quê
gốc, vợ hai ở đồn điền, vợ ba tân thời nhất thì tậu hàng dãy phố nhà gạch và
trưng thầu thực phẩm cho phu vùng mỏ. Nhưng mà cái người nhiều khả năng
11
kinh tế kia lại là một kẻ rất thiếu hạnh phúc. Chỉ thấy nhà tư sản Trần Thiết
Chung túi bụi rối rít vì điều khiển tiền bạc vừa cầm tiền vừa than vừa hoài
nghi đồng tiền không tạo ra được hạnh phúc thực sự. Rồi cuối cùng, nhà giàu
này chưa hết của mà đã hết đời. Bên cái tủ két sắt oai nghi nọ, Trần Thiết
Chung đã chết vì một phát súng nào đó của cuộc đời " [23;Tr1,2]
Nguyễn Tuân xác định xung đột trong vở là sự mâu thuẫn sâu sắc: Xung
đột giữa đạo đức và phú quý; lòng nhân và tiền bạc (Vi phú bất nhân, vi nhân
bất phú). Ông viết "Tại sao Vi Huyền Đắc lại bắt ông chủ mỏ ấy phải có một
cái tiền thân là một nhà văn? … Có phải thâm ý của tác giả là muốn trong con
người Trần Thiết Chung đem ra thống nhất cái mâu thuẫn thanh cao nhiều tình
cảm với cái mâu thuẫn tiền bạc thô bạo của ông chủ không?" [23;Tr17]
Bàn về nhân vật, Nguyễn Tuân dành nhiều công sức để đánh giá về nhân
vật tư sản Trần Thiết Chung: "Tư sản Trần Thiết Chung trong vở kịch tiêu
biểu cho lớp tư sản của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn mất nước. Trần Thiết
Chung không chỉ buôn bán mà còn sản xuất, có vai trò trong sản xuất than đá.
Trần Thiết Chung không găm tiền lại thành cái tiền chết mà phải làm cho cái
tiền đó thành vốn sống, y bảo vợ "đừng mua nhà, tậu đất, đặt lãi làm gì nữa…
để tiền lại làm mỏ…" và quyết chí: "cả cái cơ nghiệp này mất hết đi nữa, tôi
cũng vui lòng hả dạ rằng đã làm được một việc mà người An Nam chưa ai
dám làm…" [23;Tr5]
Tính cách cao cả của nhân vật được tác giả phát hiện ra qua việc phân
tích tầm nhìn sâu rộng trong tư tưởng và hoạch định công việc của nhân vật
Trần Thiết Chung: "Trần Thiết Chung là một nhà tư sản có chữ nghĩa nên đối

với những vấn đề thời cục, lão cũng có được cái nhìn rộng và đã đem những
cái nhìn ấy mà soi vào mọi việc kinh doanh: "Than xuất cảng mỗi tháng một
tăng… Thì cứ xem thời cục Viễn Đông, bề nào người Nhật Bản cũng phải
mua than, mỗi ngày một nhiều hơn lên. Nước Nga đã hoàn thành công việc
kiến thiết ở Tây Bá Lợi Á cả hai bãi băng tuyết ấy ngày nay đã trở thành ra
một khu vực công nghệ thì phía bên này là Mãn Châu Quốc, nước Nhật cũng
12
phải có một sự kiến thiết tương đương… Than Mãn Châu, than Sơn Đông
không thể nào đủ dùng được cũng vì tôi đoán quyết như vậy, nên…" [23;Tr7]
Vì quan tâm làm giàu bằng mọi giá nên Trần Thiết Chung đã nhanh
chóng tích luỹ được khối lượng tài sản khổng lồ trong thời gian không dài,
Nguyễn Tuân chỉ ra được bản chất tham tiền say mê tích luỹ, đầu cơ và sự tha
hoá nhân cách vì đồng tiền trong sự đối sánh các mối quan hệ với gia đình, xã
hội của nhân vật Trần Thiết Chung, Nguyễn Tuân viết: "Trần Thiết Chung đã
thuộc hẳn vào cái loại người mà "tiền là cái lò xo vĩ đại của sự sống"
(Balzac), và lão đã tuyên bố lên rằng "tiền của tôi, không phải là của tôi, nó là
công việc của tôi đương làm". Cho nên nó đã xử sự đúng với cái phương
châm đề ra từ vạn cổ: vi phú bất nhân, vi nhân bất phú. Nó dám chống lại mọi
thứ tình cảm có thể xảy đến cho nó. Hắn đã tự đắc mà triết lý rằng "tôi nói
thật, ấy hễ mình mà vấp ngã là họ xéo bừa lên lưng lên đầu mình lập tức. Họ
ngã mình cũng làm như thế. Cái bí thuật là giữ thế nào cho đừng có ngã…".
Đồng tiền đã là người cố vấn tối cao bồi dưỡng cho hắn có bạo lực trong cái
nhân sinh quan người chủ. Cái giá trị của ngòi bút Vi Huyền Đắc là đã vạch
được ra cái bản chất tàn bạo của triệu phú Trần Thiết Chung, nó cũng là cái
tính chất chung của giai cấp tư sản. Và kịch tác giả đã đem cái bản chất bất
nhân ấy ra mà đối chiếu với nhiều trường hợp, để cho cái chất Trần Thiết
Chung hiện rõ hết lên. Đối với công nhân mỏ, tức là những người nai lưng
oằn xương ra mà đắp cho cơ nghiệp chủ mỏ, thì Trần Thiết Chung trắng trợn
bảo rằng: "một tên phu không thể coi là một người được… cũng chỉ là một cái
khí cụ thôi", đúng hệt cái giọng cái chữ của những tướng tá quân đội đế quốc

tư bản, trong việc sử dụng võ khí, trong việc điều động con người binh sĩ, vẫn
gọi người lính là nhân cụ" [23;Tr12]
Đối với thị phi, Trần Thiết Chung sẵn sàng đạp bằng dư luận và không
cần phải sự đánh giá đúng sai: "nếu làm việc gì mà cũng sợ dư luận, thì không
còn dám làm việc gì nữa…" [23;Tr13]
13
Sự tha hoá của Trần Thiết Chung lên đến đỉnh điểm khi hắn được đặt
trong các quan hệ tình cảm với vợ con, bạn cũ và đối tác làm ăn, Nguyễn
Tuân viết: "Ngoài quan hệ giữa chủ và thợ ra Trần Thiết Chung còn trơ tráo
hơn nữa ở các mặt tình cảm khác. Như là phía đối đãi với vợ con, với bạn làm
ăn cũ, bạn kinh doanh mới. Trần Thiết Chung đã hiện lên đầy đủ dưới cái
hình thù tàn nhẫn nhất, cạn tàu ráo máng nhất đối với Cự Lợi- cái người cố tri
đã giúp hắn lúc hắn còn nghèo đói, cái người đã tích cực giải thích cho Trần
Thiết Chung "tiền là huyết mạch. Không có tiền, không thể sống được", cái
người mà trước đây, Trần Thiết Chung đã mỉa mai là "một thi sĩ của kim
tiền". Thầu khoán Cự Lợi lúc sa sút, đến nhờ vả Trần Thiết Chung lại bị bạn
cũ tuyệt đường ân tình nhân nghĩa bằng những lời nhục mạ có hẳn cái tác
dụng bức tử người nghe: "… Giả nợ bác tôi đã giả, rồi lại giúp bác, tôi đã
giúp rồi, thế là tôi với bác thanh khoản…- Cái số trội quá ấy, tôi cho vào tiền
lãi. Thế là thanh khoản… Tôi ở vào cái cảnh ngộ của bác, tiền nong không có,
lại thêm bệnh não đầy người, thì thà một chén thuốc độc, một sợi dây trừng
chứ tôi không chịu ngửa tay cầu người này cứu, người kia giúp, hay kể tình cũ
nghĩa xưa, quấy rầy người khác…"Đối với một ông Nguyễn Văn Hòa nào đó
ở Hải Phòng định sẽ kết thúc đời mình bằng tự sát nếu Trần Thiết Chung
không cho khất nợ thì Trần Thiết Chung trả lời như thế nào? Đây là cái đểu
giả của một bản chất tàn bạo mang đầy đủ tính chất giai cấp của nó: "Hừ, ông
ấy tự tử thì thiệt thân ông ấy, khổ cho vợ con ông ấy, chứ tôi cần gì. Tôi chỉ
cần ông ấy giả nợ cho tôi". Đối với con cái, Trần Thiết Chung đòi bỏ tù, vì
đứa con đã vi phạm vào cái nguyên tắc tiền của đứa bố. Đối với người vợ ba
mà Trần Thiết Chung biệt đãi nhất, cũng vẫn chuyện buôn bán trên cơ sở tiền

bạc; với họ hôn nhân rồi cũng chỉ là sự hùn phần của hai túi bạc. Và trong
việc buôn bán lẫn nhau này, con mụ vợ ba quái ác kia, vẫn không quên cái
quy luật tàn nhẫn của giai cấp tư sản và mụ đã nắm chắc cái đó. Chồng già gạ
vợ trẻ ganh tỵ, vợ trẻ sợ người chung phần chết trước mình, rồi mình sẽ tay
không mà bước ra, nên bà vợ đã bắt ông chồng ký hợp đồng lấy mỏ ra mà bầu
14
chủ cho tiền vay, sau này vạn nhất có gì, thì cái con vợ biết chơi nhau ấy sẽ
tịch ký cái mỏ của một người con nợ mà có một lúc trước đây nó đã gọi là
chồng". [23;Tr14]
Bài viết của nhà văn Nguyễn Tuân về vở kịch Kim tiền khá sâu sắc và
toàn diện, ngôn ngữ giàu hình ảnh và đầy chất thuyết phục. Đánh giá được
những phương diện quan trọng nhất của kịch, trên phương diện thi pháp thể
loại như cốt truyện, xung đột, nhân vật, hành động Đây là bài nghiên cứu
nằm trong số ít những bài nghiên cứu về bi kịch giai đoạn trước năm 1945 ở
Việt Nam, giá trị về tư liệu và lí luận rất đáng quý. Tuy vậy, bài viết này mới
chỉ tập trung làm sáng rõ cội nguồn của bi kịch con người đó là sự tha hóa
đạo đức vì kim tiền, càng giàu có con người càng bất hạnh. Những phân tích
của Nguyễn Tuân chưa thực sự làm rõ được bản chất bi kịch trong một vỡ
diễn.
Theo quan điểm của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan, thì Vi
Huyền Đắc chỉ thật sự nổi tiếng khi ra mắt vở Kim tiền và Ông Ký Cóp. Và từ
vở kịch Uyên Ương đến các vở Kim tiền, Ông Ký Cóp; Vi Huyền Đắc đã
bước được một bước khá dài trong nghệ thuật viết kịch. Những vai trong
Uyên Ương, trong Nghệ sĩ hồn non yểu thế nào, thì những vai trong Kim tiền,
Ông Ký Cóp cứng cáp thế ấy. Động tác ở những vở sau lại rất mạnh mẽ, các
nhân vật đều được tạo trong những khuôn tâm lý sâu sắc, tỏ ra tác giả là một
kịch gia không những có nhiều tài năng, mà còn rất nhiều lịch duyệt
Phạm Vĩnh Cư trong bài viết “Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam
thế kỷ XX” VH, số 4, 2001, khá thẳng thắn khi bàn về hạn chế của tác phẩm:
"Cái kết thảm thê của vở kịch mang dấu ấn khiên cưỡng, cường điệu, hư tạo

rõ ràng và nó được trình bày như một ngẫu nhiên. Nó không tô đậm mà ngược
lại phá vỡ ấn tượng về một bi kịch con người đương hình thành trong đầu óc
người đọc hay người xem kịch"; "sự bại vong được xếp đặt của cựu văn sĩ,
nay là nhà tư bản Trần Thiết Chung"; "Cái rất giống nhưng không phải bi
kịch’’ [8;Tr89]. Chính sự hạn chế của tác phẩm đã gây phương hại đến giá trị
15
của vở kịch, sự bại vong ở phần cuối tác phẩm không đến từ ý thức của nhân
vật mà chỉ là sự ngẫu nhiên. Vì vậy, Kim tiền đích thực chỉ là vở kịch mang
sứ mệnh là sự thử nghiệm đầu tiên cho thể loại bi kịch ở nước ta. Cũng trong
bài viết này tác giả đánh giá về nhân vật Trần Thiết Chung, với quá trình tha
hóa nhân cách từ cao cả đến tầm thường và lỗi lầm nhân vật mắc phải chính là
do sự “phản bội thiên chức” và “bóp chết tâm hồn nghệ sĩ”. Ông viết: "Một
con người rất mực nhân văn và tài hoa đã phản bội tài năng và thiên chức của
mình, lao vào con đường làm giàu vật chất, bóp chết tâm hồn nghệ sĩ nơi
mình, biến cái đầu trước kia sống bằng những tư tưởng bay bổng, cao viễn
thành cái máy lạnh lùng tính toán lợi thiệt" [8;Tr88]
Kim tiền là một thử nghiệm đầu tiên trong tiến trình của thể loại bi kịch
ở nước ta, các bài viết không nhiều, vì thế nên đánh giá chưa đầy đủ về vở
kịch, đặc biệt là đóng góp về phương diện bi kịch.
1.3. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Yêu Ly của Lưu Quang Thuận
Thế Lữ là người đầu tiên bàn về vở kịch, trong “Lời mở màn” in trong
vở kịch năm 1946, có giới thiệu về tác giả Lưu Quang Thuận là người “khiêm
tốn rất đáng trân trọng” và còn là người có sự “khó tính của nhà văn”,
“nghiêm khắc với tác phẩm của mình”. Ông đã viết: “Vở Yêu Ly, năm màn
phong phú hào hùng, cho tôi thấy say sưa một tấm lòng thành niên hăng hái.
Yêu Ly đối với tôi còn thêm giá trị là dấu kỷ niệm của buổi sơ giao” [94;Tr2]
Rất lâu, từ khi vở kịch ra đời mới có người bàn về tác phẩm khá công
phu, đó là nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư cho rằng: "Xung đột bi kịch trong
kịch bản này là xung đột giữa mục đích và phương tiện trong hoạt động của
con người, xung đột giữa những giá trị này bị hy sinh vì những giá trị kia,

xung đột giữa lòng tận tụy tuyệt đối phục vụ một sự nghiệp nhất định với tính
chính nghĩa rất tương đối của sự nghiệp ấy". [8;Tr98]
Với Yêu Ly, người xem sửng sốt nhận ra sự hư vô của danh lợi, và chân lý
có sự biến đổi không bao giờ là mãi mãi, thần tượng và lí tưởng mình tôn thờ
mục đích mà mình đã chọn sẽ có lúc phản thùng lại chính mình. Sự vĩnh cửu bền
16
vững của lí tưởng là không thể. "Nhân vật nhận ra tính khả nghi của cái sự
nghiệp mà mình theo đuổi, tính vô luân bất nghĩa của nhiệm vụ mà y đã cam kết
thực hiện". [8;Tr101]. Con người bất hạnh ngay trong chính thành đạt của mình.
Tuy vậy, sự hướng thiện và biết nhận ra lỗi lầm, đặc biệt là chấp nhận sự thật
triệt tiêu cái ác lại là giải pháp, cái chết của Yêu Ly đem lại sự xót xa thương
cảm cho người xem, và vẫn giữ cho chàng ở bên này bờ thiện.
Bàn về hạn chế Phạm Vĩnh Cư viết: "Nếu có gì đáng tiếc ở tác phẩm là
sự không đồng đều giữa ý đồ sáng tạo và trình độ thực thi. Các nhân vật mới
chỉ có xương cốt chứ chưa có da thịt, nhiều tuyến triển khai sơ lược, nhiều ý
tứ diễn đạt chưa đầy đủ và có chỗ gần như trích dẫn đơn thuần Đông Chu liệt
quốc". [8;Tr101]. Vở Yêu Ly ra đời sớm, nhưng ít được chú ý, tư liệu không
nhiều. Tuy nhiên, đây là vở kịch có yếu tố cốt truyện vay mượn từ Đông Chu
liệt quốc của Trung Quốc, khác với ba vở còn lại là đề tài bản địa.
1.4. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng
Những người đầu tiên nghiên cứu về Vũ Như Tô là Hà Minh Đức và Phan
Cự Đệ. Năm 1963, trong “Lời giới thiệu” cho tập kịch Nguyễn Huy Tưởng, Hà
Minh Đức cho rằng cách đặt vấn đề và suy nghĩ của Nguyễn Huy Tưởng là tích
cực và tiến bộ, nhưng tác giả đã không giải quyết vấn đề một cách triệt để mà lí
do là tác giả mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm. Theo ông, nhân vật Vũ Như Tô
vừa đáng giận vừa đáng thương, những sai lầm của nhân vật này không bị phê
phán triệt để là do mâu thuẫn trong thế giới quan của tác giả. [26]
Bài viết của Phan Cự Đệ đăng trên tạp chí Văn học đề xuất vấn đề
nghiên cứu vở kịch Vũ Như Tô phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử những năm
1940-1943 mới có thể đánh giá đúng những vấn đề nêu lên trong vở. Theo

ông, trong vở kịch tác giả đặt ra ba vấn đề: thứ nhất, vấn đề nghệ thuật chống
cường quyền; thứ hai: vấn đề quan hệ giữa nghệ sỹ và quần chúng; thứ ba:
vấn đề văn hóa dân tộc. Vũ Như Tô muốn chống lại cường quyền nhưng lại
đứng ra xây dựng Cửu Trùng Đài, phục vụ cho giai cấp thống trị; muốn đề
cao quần chúng nhưng lại miêu tả họ như một lực lượng phá phách mù quáng;
17
muốn xây dựng một công trình vĩ đại cho dân tộc nhưng lại không biết rằng
chính điều đó đã đi ngược lại dân tộc. Ông cho rằng bi kịch Vũ Như Tô là bi
kịch của sự nhận thức.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành trong bài “Tìm hiểu kịch Nguyễn
Huy Tưởng”, cho rằng việc Vũ Như Tô nhận xây dựng Cửu trùng đài là biểu
hiện của sự khuất phục của nghệ thuật trước cường quyền, tác giả đã hướng
về nghệ thuật thuần túy, tách rời với đời sống. Cái chết của Vũ Như Tô đã
phủ định thái độ và thế đứng nửa vời của người nghệ sỹ trong xã hội phân
chia giai cấp. Nguyễn Huy Tưởng tỏ ra lúng túng khi vừa muốn phê phán
quan niệm mơ hồ về nghệ thuật của Vũ Như Tô, lại vừa muốn nâng niu nhân
vật của mình.
Nguyễn Phương Chi với bài viết “Vũ Như Tô và gửi gắm của Nguyễn
Huy Tưởng qua nhân vật Đan Thiềm”, xác định bi kịch của Vũ Như Tô là bi
kịch của một trí thức thuần túy, xa rời với cuộc sống nhân dân.
Phong Lê trong bài viết “Nguyễn Huy Tưởng- văn xuôi và kịch” đã viết:
“Nguyễn Huy Tưởng đã gửi gắm vào đây, trong vở kịch, cũng ngổn ngang
như chính Cửu Trùng đài, cả một nỗi khắc khoải lớn khi đi tìm câu hỏi và lời
giải cho mục tiêu của nghệ thuật”. Cũng trong bài viết này, Phong Lê có sự
nhận thức lại đối với tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng: “Trong nhu cầu phát
triển toàn vẹn của con người, trong một giao lưu mở với thế giới bên ngoài, ta
mới có hoàn cảnh mở rộng các quan niệm văn chương nghệ thuật để thấy sự
cần thiết cho văn chương trở về với chính nó”.
Văn Tâm trong bài “Vũ Như Tô trong cuộc đời bát nháo” đánh giá cao
vở kịch Vũ Như Tô ngay từ những ý tưởng đầu tiên của tác giả, đồng thời

cũng là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt vở là ca ngợi một kiến trúc sư tài hoa
có tâm hồn trong trẻo, xây Cửu Trùng Đài chỉ vì muốn “dựng một kỳ công
muôn thủa” để “tô điểm đất nước” và “làm vinh dự cho non sông”
Nhà nghiên cứu Tất Thắng khẳng định: “Bi kịch của Vũ Như Tô là bi
kịch của người nghệ sỹ khát khao sáng tạo trong một xã hội không có chỗ cho
18
sự khát khao đó”. Ông cũng nhấn mạnh hạn chế của vở “Đọc Vũ Như Tô thì
thấy vở kịch cũng có nhược điểm về sân khấu học, một vở kịch thiếu tính trò
diễn, tính hành động sân khấu” và ông nói đến đóng góp của vở qua chất văn
học trên từng đối thoại:“song với vấn đề mà nó đặt ra, song với tâm sự nhà
văn mà nó ẩn giấu như là hành động bên trong của vở kịch Vũ Như Tô đã làm
tăng thêm chất văn học cho kịch nói Việt Nam, thời kỳ trước 1945, cái chất
mà sân khấu Việt Nam trước kia và hiện nay đều rất thiếu”. (Cuộc tao ngộ
giữa kịch và văn)
Phan Trọng Thưởng cho rằng: “Bi kịch của Vũ Như Tô không chỉ là bi
kịch về nhận thức của chính bản thân ông mà còn là bi kịch do những tác
động lịch sử và do cả ý thức sâu sắc về thiên chức nghệ sỹ của mình” (Suy
nghĩ thêm về Vũ Như Tô…). Phan Trọng Thưởng phân biệt Vũ Như Tô –
công dân và Vũ Như Tô – nghệ sỹ. Ở góc độ là một công dân, Nguyễn Huy
Tưởng không muốn để Vũ Như Tô đem tài năng và tâm huyết phục vụ cho
giai cấp thống trị, không muốn để cho dân chúng phải cực khổ. Nhưng ở góc
độ người nghệ sỹ, ông lại muốn tận dụng cơ hội để thi thố tài năng, xây dựng
những công trình nghệ thuật tuyệt tác để điểm tô cho đất nước. Mâu thuẫn
giữa con người công dân và con người nghệ sỹ đã đẩy Vũ Như Tô đến cái
chết oan uổng.
Trở lên, các nhà nghiên cứu chủ yếu bàn sâu về tư tưởng “lúng lúng” hay
tiến bộ của Nguyễn Huy Tưởng, xét đoán đúng sai đối với nhân vật Vũ Như Tô,
mà ít nghiên cứu tác phẩm kịch trên tinh thần lí luận thể loại. Đỗ Đức Hiểu với
bài “Bi kịch Vũ Như Tô”, ngay ở tiêu đề đã xác định phương pháp nghiên cứu
vở kịch theo quan điểm thi pháp thể loại. “Vũ Như Tô là một bi kịch, kiểu bi kịch

cổ điển Pháp thế kỷ XVII, với tiêu đề vở là tên nhân vật trung tâm
(Andromaque, Phedre, Vũ Như Tô ), với những hồi, những cảnh (lớp) kế tiếp
nhau, liên tiếp với nhau chặt chẽ, với những xung đột đầy kịch tính, và cuối cùng
kết thúc bằng những cái chết ”[45]. Trong bài viết này, tác giả đi sâu vào các
đặc trưng thể loại bi kịch như tính hành động, xung đột, nhân vật và ngôn ngữ
19
kịch. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là, tác giả chưa làm rõ được sự khác biệt giữa
phạm trù bi kịch (tragédie) và phạm trù kịch (drame).
Tác giả Phạm Vĩnh Cư trong bài viết “Bàn thêm về bi kịch Vũ Như Tô”
đã “cố gắng chứng minh Vũ Như Tô là tác phẩm bi kịch duy nhất và đích thực
của Nguyễn Huy Tưởng. Nó đáp ứng đầy đủ và khá hoàn hảo mọi yêu cầu mọi
tiêu chí của một thể loại văn học mà mĩ học châu Âu xưa nay có lí do coi là thể
loại cao quý nhất và khó nhất Nhưng điều thiết thực hơn là, theo nhận thức
đinh ninh của chúng tôi, nhiều vấn đề cốt yếu còn để ngỏ, nhiều câu hỏi quan
trọng về kịch Vũ Như Tô có thể sẽ tìm thấy giải đáp thỏa đáng, nếu ta tiếp cận
với nó từ góc độ đặc trưng thể loại. Chúng tôi sẽ lần lượt đề cập đến một số bình
diện cơ bản của bi kịch Vũ Như Tô như xung đột bi kịch, nhân vật bi kịch, tội lỗi
bi kịch, hiệu ứng bi kịch ”. Ý kiến của Phạm Vĩnh Cư khá quan trọng và toàn
diện trong việc đánh giá vở kịch Vũ Như Tô, vừa xác định được tính chất “đích
thực” của vở bi kịch, vừa chỉ ra các đặc trưng cơ bản của thể loại chứa đựng
trong tác phẩm này. Và phương pháp tiếp cận tác phẩm từ đặc trưng thể loại
được nêu lên từ đầu trở thành phương pháp luận nghiên cứu,là con đường tiếp
cận tác phẩm để xác định rõ bản chất của bi kịch.
1.5. Các ý kiến luận bàn về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của
Lưu Quang Vũ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia giới thiệu về vở kịch như sau: "Hồn
Trương Ba, da hàng thịt" là vở kịch của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang
Vũ, được viết vào năm 1983, dựa theo truyện dân gian "Hồn Trương Ba, da
hàng thịt", nội dung có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Cho đến nay (2006), đây là vở kịch hiện đại duy nhất của Việt Nam tiếp

cận được với sân khấu quốc tế. Vở kịch do đạo diễn Nguyễn Đình Nghi dàn
dựng cho Nhà hát kịch nói Việt Nam. Vở diễn đã giành được huy chương
vàng tại Hội diễn Sân khấu toàn quốc năm 1990 và là vở kịch nói đầu tiên
mang ra nước ngoài công diễn. Các nhà nghiên cứu sân khấu quốc tế đã đánh
giá cao giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của vở diễn. Năm 2002, "Hồn
20
Trương Ba, da hàng thịt" được ê-kíp đạo diễn, thiết kế người Anh thực hiện
và được công diễn tại nhà hát Yellow Earth với tên The Buher's Skin.
Năm 2004, vở kịch được Nhà hát kịch nói Việt Nam dàn dựng lại với
dàn diễn viên mới và truyền hình trực tiếp từ Nhà hát Lớn, Hà Nội. (Nguồn:
Wikipedia)
Phạm Vĩnh Cư trong bài viết “Lưu Quang Vũ bi hùng kịch và bi hài
kịch”, đã xem Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một bi hài kịch đặc sắc được
công chúng trong và ngoài nước tán thưởng, Trương Ba là một nhân vật bi
kịch đích thực, ông viết: “Để có bi kịch, phải có nhân vật bi kịch, và Trương
Ba, người giỏi cờ trong truyện cổ tích, trong kịch của Lưu Quang Vũ biến
thành một nông phu nho nhã, đôn hậu, cần mẫn, cao khiết - một người trồng
cây, một người làm vườn say mê trong xã hội mà “toàn dân chạy chợ” (ta
nhận ra xã hội hôm nay, mặc dù ở đấy, những nhân vật tác oai tác quái khoác
áo các chức sắc thời xưa). Một hiện thân của linh hồn giữa nhân quần cần đến
rất nhiều thứ khác, nhưng không mấy tha thiết với linh hồn. Cái linh hồn tự
tôn ấy của Trương Ba sống không được ấm cúng trong thế gian này: ngay
trong gia đình nó là đối tượng thương xót cho vợ y và là chướng ngại vật cho
con trai y - một con người “hiện đại” sống với một hệ giá trị đã đổi khác hoàn
toàn. Ít toả sáng ngay trong nhà mình, cái linh hồn ấy lại càng không tỏa sáng
được trong làng xã, mà xem ra nó cũng không còn chí hướng toả sáng, mà chỉ
mong bảo toàn được mình, không hòa tan mình vào dòng đời đục bẩn”
(Nguồn: VieTimes). Tác giả bàn về hiệu ứng bi kịch mà vở kịch đem lại: “Vở
kịch của Lưu Quang Vũ sở dĩ thu phục được nhiều khán giả nước ngoài, có lẽ
bởi vì nó ứng hợp với tâm trạng phổ biến trong xã hội hiện đại - xã hội đã

đánh mất niềm tin cũ vào những giá trị siêu nhân loại và chưa tìm được cái gì
thay thế nó”. (Nguồn: VieTimes)
Ngô Thảo trong bài “Nhớ kịch Lưu Quang Vũ: Đau đáu phận người
muôn thuở” nhân kỷ niệm 63 năm ngày sinh nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch
Lưu Quang Vũ (17.4.1948 - 17.4.2011) khẳng định cho đến nay, Lưu Quang
21
Vũ là tác giả trẻ tuổi nhất, người duy nhất thuộc thế hệ chống Mỹ được tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, bằng những tác phẩm sân
khấu. Đã có lúc người ta tưởng kịch Lưu Quang Vũ hấp dẫn như một “món
hàng tươi sống” nhưng thời gian đã chứng minh, nó trường tồn bởi mỗi tác
phẩm đều mang trong mình một niềm đau thao thức, trăn trở với kiếp người,
phận người muôn thuở. Ngô Thảo viết: “Hồn Trương Ba – da hàng thịt viết
lại trên cốt một truyện cổ khá phổ biến – đã có mấy tác giả dựng thành vở
diễn, buổi đầu là “Trương đồ nhục”. Trong sân khấu thế giới, đây là việc bình
thường nhưng đến Lưu Quang Vũ, vở kịch đã gây dư luận trái chiều khá kịch
liệt. Cuối cùng thì công chúng và thời thế đã ủng hộ tác giả và đơn vị dựng:
Nhà hát Kịch Việt Nam. Với một êkíp diễn viên thượng thừa, kịch nói “Hồn
Trương Ba – da hàng thịt” đã trở thành một vở diễn kinh điển đạt tầm cổ điển
của sân khấu Việt Nam hiện đại.(Nguồn: Danviet)
Lưu Khánh Thơ trong bài “Về trích đoạn vở Hồn Trương Ba, da hàng
thịt" trong SGK lớp 12 viết : “Từ tư tưởng triết lý đúng về quan hệ giữa hồn và
xác, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm đẹp về cách sống: sống chân thật
đúng là mình, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người.
Trương Ba chết nhưng ông vẫn sống, sống trong tình cảm, trong “cõi nhớ” của
mọi người, sống trong Sự sống, không cần phải mượn đến thân xác của người
khác. Đó là suy nghĩ vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thượng”. Cuộc đối
thoại giữa Hồn và Xác, tác giả Hòa Bình viết trên Tuổi trẻ “Vào giây phút ấy,
nước mắt người xem ứa ra, song lại có được sự thanh thản nhẹ nhàng bởi được
củng cố lòng tin: phẩm cách cao đẹp nơi con người chẳng thể bị những mưu cầu
thấp hèn hay sự tha hóa của xã hội hạ gục. Bi kịch của Trương Ba và gia đình

ông gần gũi lạ với cuộc sống hôm nay.”
Đặng Hiển trong bài “Triết lý sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt"
đề cao một cách sống hài hòa giữa thể xác và linh hồn, và sự ảnh hưởng to lớn
của vở kịch đến quan điểm sống của con người hiện đại. Tác giả đã viết:
“Trương Ba chết, nhưng hồn Trương Ba vẫn sống - sống trong tình cảm của
22
mọi người, sống mà không cần mượn đến thân xác của ai hết. Tuy vậy, từ sự
không đồng nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta
có thể liên tưởng tới sự thống nhất cần có giữa nội dung và hình thức là hai
mặt của thực tại tự nhiên và xã hội. Khi nội dung và hình thức không phù hợp
với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm và thậm chí, sự tồn tại của sự vật bị đe
dọa con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn luôn đấu
tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác,
hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hoàn thiện Màn
kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc
quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp
và của sự sống đích thực”

( Triết học)
Lý Hoài Thu trong bài "Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Nơi kết thúc của
cổ tích và sự khởi đầu” đã so sánh kịch bản của Lưu Quang Vũ với cốt truyện
cổ tích và khẳng định Lưu Quang Vũ đã không bị lệ thuộc vào nội dung
câu chuyện, đã tìm tòi, vừa mở rộng kích thước tự sự, vừa khơi sâu vào
giá trị tư tưởng để tạo nên một vở kịch nổi tiếng mà “hạt cơ bản” là giá trị
nhân văn sâu sắc về lẽ tử - sinh. Tác giả viết: “Cách đặt vấn đề và giải quyết
xung đột của vở kịch cho thấy nhà viết kịch đã có những phản ứng quyết liệt
trước sự áp đặt làm mất quyền được lựa chọn của con người. Mọi sự áp đặt dù
mang danh nghĩa nhân đạo cao cả nhất theo Lưu Quang Vũ, suy cho cùng vẫn
không thể mang lại cho con người cuộc sống đích thực, vẫn dẫn tới bi kịch,
vẫn tiềm ẩn khả năng hủy diệt, vẫn chứa đựng yếu tố phi nhân Đó chính là

thông điệp mang màu sắc nhân quyền sâu xa mà Lưu Quang Vũ đã gửi gắm
vào tác phẩm( ). Từ một câu chuyện cổ tích có phần mờ nhạt, bằng khả
năng đồng hóa, nhào nặn và tái tạo, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được một
vở kịch có cấu trúc khá chặt chẽ và ý nghĩa nhân bản đậm đà. Đã hơn 20
năm sau ngày công diễn Hồn Trương Ba, da hàng thịt vẫn đứng ở vị trí
hàng đầu trong sự nghiệp cầm bút, là tác phẩm không chỉ gắn liền với tên
tuổi nhà viết kịch trẻ tài năng Lưu Quang Vũ mà còn đưa tên tuổi của ông
23
đến với công chúng nhiều nước trên thế giới” (Nguồn:
www.vienvanhoc.org.vn).
Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) là hiện tượng
văn học thời kỳ đổi mới, được nhiều khán giả trong và ngoài nước yêu
thích vì “nội dung có ý nghĩa xã hội sâu sắc” (Wikipedia) và “thông điệp
mang màu sắc nhân quyền sâu xa mà Lưu Quang Vũ đã gửi gắm vào tác
phẩm” (Lý Hoài Thu) và “thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp
và của sự sống đích thực” (Đặng Hiển), đó là “một quan niệm đẹp về cách
sống” (Lưu Khánh Thơ) “vở diễn kinh điển đạt tầm cổ điển của sân khấu
Việt Nam hiện đại” ( Ngô Thảo) và còn “vì nó ứng hợp với tâm trạng phổ
biến trong xã hội hiện đại - xã hội đã đánh mất niềm tin cũ vào những giá trị
siêu nhân loại và chưa tìm được cái gì thay thế nó” (Phạm Vĩnh Cư). Về mặt
thể loại, vở kịch có những tên gọi như “bi kịch lạc quan” (Đặng Hiển), “bi hài
kịch” (Phạm Vĩnh Cư), “bi kịch” (Lưu Khánh Thơ, Ngô Thảo)
1.6. Tiểu kết
Như vậy, khi bàn đến vấn đề bi kịch trong Văn học Việt Nam hiện
đại có hai xu hướng. Ở xu hướng phủ nhận chỉ có một nhóm tác giả đưa ra
ý kiến và chưa được bàn luận sâu, về sau cũng không phát triển thêm. Còn
xu hướng khẳng định sự tồn tại thể loại bi kịch vẫn chiếm đa số. Xu hướng này có
tính chất khẳng định rõ ràng bi kịch là một thể loại tồn tại độc lập và đóng góp vào
tiến trình phát triển văn học dân tộc.
Qua việc tìm hiểu các bài nghiên cứu về vấn đề bi kịch trong văn học

Việt Nam, có thể thấy:
Thứ nhất, các tác giả đã xác định rõ danh tính thể loại bi kịch;
nghiên cứu đặc trưng bi kịch trong từng tác phẩm. Riêng tác giả Phạm
Vĩnh Cư ngoài việc xác định đặc trưng thể loại qua các tác phẩm, còn
nghiên cứu tiến trình phát triển thể loại bi kịch ở Việt Nam thế kỷ XX. Đó
là những đóng góp to lớn của các tác giả đối với mảng nghiên cứu bi kịch,
24
và đây là cơ sở quan trọng để chúng tôi tham khảo, tiếp thu và phát triển
quan điểm về sự tồn tại thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại.
Thứ hai, những vấn đề mà các nhà nghiên cứu chưa giải quyết, bàn luận
thấu đáo gồm: các vấn đề xung đột bi kịch, nhân vật bi kịch, ngôn ngữ bi
kịch, hành động bi kịch, hiệu ứng bi kịch ở các vở Kim tiền (Vi Huyền Đắc)
và Yêu Ly (Lưu Quang Thuận); Đối với các vở như Vũ Như Tô (Nguyễn Huy
Tưởng) và Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) Con nai đen, Rừng
trúc, Cái bóng trên tường, Người đàn bà hóa đá, Trương Chi (Nguyễn Đình
Thi), Quỷ ở với người (Nguyễn Huy Thiệp) đã có bàn bạc nghiên cứu nhưng
cần thiết phải có sự nghiên cứu hệ thống. Các nhà nghiên cứu còn chưa giải
quyết vấn đề bản sắc của thể loại bi kịch ở Việt Nam có gì độc đáo khác biệt
so với các nền văn học khác. Mà cội nguồn của nét bản sắc ấy chính là sự tiếp
thu tinh hoa từ nghệ thuật sân khấu truyền thống của dân tộc. Những vấn đề
mà các nghiên cứu trước còn bỏ ngỏ, đó chính là nhiệm vụ nghiên cứu của đề
tài này
25

×