Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của lỗ tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.57 KB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
-----

-----

LÊ THỊ MỸ HẢO

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA LỖ TẤN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Hệ đào tạo: Chính quy
Khố học: 2011 - 2015

ĐỒNG HỚI, NĂM 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
-----

-----

LÊ THỊ MỸ HẢO

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA LỖ TẤN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH: SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Hệ đào tạo: Chính quy
Khố học: 2011 - 2015

NGƯỜI HƯỚNG DẪN
ThS. NGUYỄN THỊ QUẾ THANH

ĐỒNG HỚI, NĂM 2015


L ic m n
Xin kính gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo – Th.S Nguyễn Thị Quế
Thanh đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ em trong suốt q trình
thực hiện khóa luận.
Xin chân thành bày tỏ lịng kính biết ơn sâu sắc tới Q Thầy, Cơ giáo
Khoa Khoa học Xã hội, Quý Thầy, Cô giáo của Trường Đại học Quảng Bình
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em bồi dưỡng tri thức và hoàn thành khóa
học của mình.
Xin được bày tỏ lịng tri ân sâu nặng tới gia đình và bạn bè đã chia sẻ,
động viên, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình thực hiện khóa luận này do điều kiện thời gian cũng
như năng lực còn hạn chế nên chắc chắn cịn tồn tại nhiều thiếu sót, mong
nhận được sự góp ý của Q Thầy, Cơ giáo để đề tài hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Lê Thị Mỹ Hảo



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của chính tơi thực hiện, dưới sự
hướng dẫn của cô giáo – Th.S Nguyễn Thị Quế Thanh. Các tài liệu, những nhận định
trong khố luận là hồn tồn trung thực. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về nội
dung khoa học của cơng trình này.
Đồng Hới, tháng 6 năm 2015
Tác giả khóa luận

Lê Thị Mỹ Hảo


MỤC LỤC
MỞ DẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận ....................................................................................... 5
6. Bố cục khóa luận .................................................................................................. 5
NỘI DUNG................................................................................................................. 6
CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT CHUNG .................................................................... 6
1.1. Khái niệm .......................................................................................................... 6
1.1.1. Nhân vật văn học ......................................................................................... 6
1.1.2. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học ............................................... 6
1.1.2.1. Hình tượng nhân vật .............................................................................. 6
1.1.2.2. Hình tượng nhân vật nữ ......................................................................... 7
1.2. Lỗ Tấn – bậc thầy về truyện ngắn ........................................................................ 8
1.2.1. Vài nét về tiểu sử .......................................................................................... 8
1.2.2. Sự nghiệp văn học....................................................................................... 10
1.2.3. Giới thuyết về truyện ngắn và truyện ngắn của Lỗ Tấn ................................. 12

CHƯƠNG 2. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ THỂ HIỆN TRONG QUAN
NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI .............................................................. 16
2.1. Số phận bất hạnh ............................................................................................. 17
2.1.1. Bất hạnh trong hôn nhân và gia đình.......................................................... 17
2.1.2. Bất hạnh bởi những hủ tục phong kiến ...................................................... 24
2.2. Phẩm chất tốt đẹp ............................................................................................ 30
2.2.1. Lòng nhân hậu và đức hi sinh .................................................................... 30
2.2.2. Niềm tin cuộc sống và khát khao hạnh phúc .............................................. 33
2.2.3. Ý thức phản kháng..................................................................................... 38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 42


CHƯƠNG 3. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
NGHỆ THUẬT ........................................................................................................ 44
3.1. Nghệ thuật miêu tả........................................................................................... 44
3.1.1. Miêu tả ngoại hình ..................................................................................... 44
3.1.2. Miêu tả hành động ..................................................................................... 50
3.1.3. Miêu tả cảnh vật ........................................................................................ 54
3.2. Ngôn ngữ nhân vật .......................................................................................... 57
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại .................................................................................... 58
3.2.2 Ngôn ngữ độc thoại .................................................................................... 62
3.3. Giọng điệu ....................................................................................................... 64
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 72


MỞ DẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Trung Quốc có bề dày lịch sử hàng ngàn năm. Từ lâu, chúng ta được

tiếp xúc với các tác phẩm văn học Trung Quốc như: Vọng Lư sơn bộc bố, Tĩnh dạ tứ,
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lí Bạch, Mao ốc vị thu
phong sở phá ca, Thu hứng của Đỗ Phủ, Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Cố
hương, Thuốc của Lỗ Tấn… Và cái tên Lỗ Tấn đã trở nên rất gần gũi quen thuộc của
nhiều thế hệ độc giả Việt Nam.
Lỗ Tấn là một trong số khơng nhiều nhà văn có đề tài hấp dẫn độc giả bao thế
hệ. Lỗ Tấn không chỉ là gương mặt tiêu biểu của văn học hiện đại Trung Hoa mà còn
là nhà văn lớn của thế giới. Sáng tác của Lỗ Tấn đã góp phần giúp dân tộc mình thốt
khỏi “liệt căn tính quốc dân” và trở thành đề tài lớn của nhiều nhà nghiên cứu văn học.
Tìm hiểu về nhà văn Lỗ Tấn, chúng tơi nhận thấy đề tài người phụ nữ xuất hiện
khá nhiều trong sáng tác của Lỗ Tấn, đặc biệt là qua hai tập truyện ngắn “Gào thét” và
“Bàng hoàng”. Lỗ Tấn là nhà văn có cái nhìn tiến bộ về phụ nữ. Hình ảnh người phụ
nữ hiện lên trong tác phẩm của ông đầy bi kịch nhưng cũng tiềm ẩn sức mạnh của sự
phản kháng. Lỗ Tấn trân trọng, lên tiếng đòi quyền bình đẳng, tự do cho họ và gián
tiếp chỉ ra con đường giải phóng phụ nữ cũng là để giải phóng nhân dân.
Nghiên cứu đề tài “Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn”
giúp chúng tôi nhận thức rõ hơn về hình ảnh người phụ nữ Trung Quốc nói chung và
phụ nữ trong sáng tác của Lỗ Tấn nói riêng. Đề tài này sẽ là nguồn tư liệu phục vụ cho
việc học tập và giảng dạy sau này. Mặt khác, trong quá trình nghiên cứu đề tài, người
viết sẽ học tập ở Lỗ Tấn một tấm lòng cao cả, tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, can đảm.
Với tất cả những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài “Hình tượng nhân vật nữ
trong truyện ngắn của Lỗ Tấn” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Chúng tôi hy vọng
rằng đây sẽ là một tài liệu bổ ích giúp bạn đọc có nhu cầu tìm hiểu thế giới nhân vật vô
cùng phong phú và hấp dẫn trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. Đồng thời giúp cho độc giả
cũng như bản thân người thực hiện đề tài thêm lịng kính u, q trọng những tinh
hoa nghệ thuật được chắt lọc từ cuộc đời và tâm huyết của nhà văn Lỗ Tấn, cũng từ đó
việc học tập và nghiên cứu về Lỗ Tấn sẽ trở nên dễ dàng hơn.

1



2. Lịch sử vấn đề
Là nhà văn hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, Lỗ Tấn đã để lại cho dân tộc
Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói chung một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú,
đặc biệt là truyện ngắn với hai tập truyện tiêu biểu Gào thét và Bàng hồng. Với
những giá trị vốn có của nó đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đánh giá, nhận xét về
truyện ngắn của ông và hầu như ở các cơng trình nghiên cứu đó đều có sự thống nhất
đặt ơng ở vị trí “bậc thầy của truyện ngắn”. Xem xét tình hình nghiên cứu truyện ngắn
của Lỗ Tấn, có những cơng trình nghiên cứu giá trị nội dung, có cơng trình nghiên cứu
nghệ thuật biểu hiện. Riêng về hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn
có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến nhưng chưa thực sự hệ thống, trong đó
điển hình như:
Trong Lỗ Tấn – Tác phẩm và tư liệu, Anh Đức đã nói lên cảm xúc của mình khi
lần đầu tiên đọc Lễ cầu phúc. “Giữa cảnh tượng tưng bừng của lễ cầu phúc ấy, Lỗ Tấn
dẫn ta tới gặp một người vô phúc nhất, là chị Tường Lâm, với cái câu hỏi rùng rợn
của chị: Ơng à… ơng là người có chữ nghĩa, tơi muốn hỏi một điều: con người ta chết
rồi thì liệu cịn linh hồn nữa khơng ơng?” [17, 359]. Lỗ Tấn đã dành mối quan tâm đặc
biệt đến những con người có số phận bất hạnh trong xã hội. Và qua đó ta hiểu được
“bao trùm lên tất cả truyện ngắn Lỗ Tấn là tình yêu thương con người, là tinh thần
nhân đạo và nhân bản thấm đậm nơi ông” [17, 356].
Lương Duy Thứ trong Bài giảng Văn học Trung Quốc đã nhắc đến nỗi đau day dứt
tâm hồn thím Tường Lâm cho đến khi chết có thể nói là “muốn làm nơ lệ mà khơng
được”. Trong giáo trình này, Lương Duy Thứ cũng đã khẳng định: “Lỗ Tấn đã nêu lên
một vấn đề có ý nghĩa: u cầu giải phóng cá tính và tự do hơn nhân không thể giải quyết
đơn độc và tách rời yêu cầu giải phóng xã hội. Cho nên, cơ nữ sinh Tử Quân đã dũng cảm
đứng lên đấu tranh giành tình yêu tự do và hôn nhân tự chủ” [18, 311].

Trong Lỗ Tấn – Linh hồn dân tộc Trung Hoa hiện đại, Trần Lê Hoa Tranh cũng
đã đi vào tìm hiểu bi kịch của người phụ nữ qua truyện ngắn tiêu biểu của Lỗ Tấn. Ở
cơng trình này, tác giả đã khẳng định bằng ngịi bút của mình Lỗ Tấn khơng ngần ngại

hào hứng xây dựng hình ảnh người phụ nữ mới của Trung Quốc tương lai độc lập, tự
tin, không lệ thuộc vào người khác, có quyền làm chủ vận mệnh của mình. Trần Lê
2


Hoa Tranh cũng nhận định về những người phụ nữ biết đấu tranh cho quyền lợi của
mình: “Ái là người phụ nữ mạnh mẽ, đốp chát và triệt để. Cô quyết tâm đi tìm lẽ cơng
bằng cho cuộc hơn nhân đã tan vỡ của mình. Cơ là hình tượng phụ nữ đầu tiên của Lỗ
Tấn dám đứng lên chống lại sự bất công, áp bức của lễ giáo phong kiến, sự đè nén vô
nhân đạo, sự tôn vinh chế độ nam quyền” [19, 60]. Và cũng ở cơng trình này, tác giả
Trần Lê Hoa Tranh tiếp tục nhấn mạnh về số phận bất hạnh của người nơng dân trong
đó có hình ảnh của người phụ nữ: “Hình ảnh chị Tư Thiền và chị Tường Lâm đều là
chân dung những người phụ nữ nông dân bất hạnh nhất trong văn học hiện đại Trung
Quốc: chồng chết, ở vậy nuôi con, con chết, họ cơ đơn ngay giữa đồng loại của mình
vì khơng tìm được sự cảm thơng” [19, 59].
Trong Lí luận văn học Mác – Lênin tập III, Phương Lựu cho rằng: “viết “Lễ
cầu phúc”, nếu không liên hệ với mấy nghìn năm đen tối của thống trị phong kiến,
vạch ra sự đàn áp của những thứ tôn pháp lễ giáo, đạo đức, mê tín trong chế độ phong
kiến đối với người phụ nữ bình thường, mà chỉ căn cứ vào cuộc sống trước mắt, từ
tình cảm bơ vơ của một người phụ nữ nghèo khổ, rồi viết những chuyện như chị Tường
Lâm lo sợ, cúng tiền “quyên” ngạch cửa để chuộc tội, bị Lỗ Tấn khinh miệt… thì dẫu
có viết bi thảm hơn nữa, ý nghĩa câu chuyện nhất định cũng nghèo nàn” [8, 669]. Đọc
một vài truyện ngắn tiêu biểu của Lỗ Tấn, trước mắt người đọc hiện ra không phải chỉ
là một vài mẫu đoạn nhỏ trong đời người, mà buộc chúng ta phải liên tưởng đến một
giai đoạn lịch sử.
Trong giáo trình Văn học thế giới tập 2, khi giới thiệu về tập Bàng hồng tác
giả có viết: “Hai loại nhân vật được chú ý khắc họa nhiều nhất ở trong tuyển tập này
là phụ nữ và trí thức” [22, 235]. Ngồi ra, tác giả cịn đưa ra nhận xét: “Lễ cầu phúc và
Ly hôn là hai tác phẩm xuất sắc của Lỗ Tấn viết về người phụ nữ nơng thơn. Thím
Tường Lâm cũng như cơ Ái là những người phụ nữ nông dân vốn mạnh mẽ, khát khao

hạnh phúc song cuối cùng đều chịu thất bại trước uy quyền của lễ giáo và pháp luật
phong kiến” [22, 235]. Qua đó cho thấy, tác giả đã miêu tả hết sức sinh động những
xung đột, mâu thuẫn của nhân dân và xã hội phong kiến, đồng thời nói lên khơng khí
ngột ngạt của xã hội đương thời.
Từ những tư liệu trên cho thấy, các cơng trình nghiên cứu về truyện ngắn của
Lỗ Tấn thì rất nhiều, tuy nhiên chúng tơi chưa nhận thấy một cơng trình nghiên cứu
chun sâu và có hệ thống về hình tượng nhân vật nữ. Chúng tơi chọn đề tài “Hình
3


tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn” để góp thêm tiếng nói vào việc
nghiên cứu về nhà văn lỗi lạc này. Hi vọng khóa luận tốt nghiệp của chúng tơi sẽ đóng
góp một hướng tiếp cận mới khi nghiên cứu về truyện ngắn của Lỗ Tấn. Trong q
trình triển khai đề tài chúng tơi sẽ tiếp thu có chọn lọc ý kiến của các thế hệ đi trước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sáng tác của Lỗ Tấn rất phong phú và đa dạng. Do điều kiện nên chúng tôi chỉ
khảo sát hai tập truyện ngắn Gào thét và Bàng hoàng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này chúng tôi vận dụng phối hợp các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp lịch sử - xã hội
Khi nghiên cứu văn học chúng ta cần phải đặt vấn đề nghiên cứu vào thời điểm
mà hiện tượng văn chương đó ra đời và phát triển, xuất phát từ lịch sử - xã hội để khai
thác những nội dung lịch sử - xã hội của tác phẩm văn học. Có như vậy mới đảm bảo
tính khách quan khoa học, chống khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật và xuất phát
từ lập trường phục vụ chính trị, phục vụ đấu tranh xã hội.
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Người viết sử dụng phương pháp này để so sánh, đối chiếu hình tượng nhân vật

nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn với các nhà văn khác nhằm chỉ ra những điểm tương
đồng cũng như sự sáng tạo, sự mới mẻ của Lỗ Tấn.
4.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Trên cơ sở những tư liệu đã được khảo sát, người viết tập trung đề cập vào
những vấn đề cần thiết nhất, có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Để làm sáng rõ các
luận điểm cần triển khai trong khóa luận, chúng tơi sẽ đi vào phân tích các dẫn chứng
bằng một số tác phẩm tiêu biểu, sau đó tiến hành tổng hợp, khái quát và đi đến khẳng
định vấn đề.

4


Ngồi những phương pháp nêu trên, người viết cịn sử dụng một số phương
pháp bổ trợ khác như phương pháp khảo sát, phương pháp diễn dịch kết hợp quy nạp,
phương pháp chứng minh luận điểm… Những phương pháp này sẽ có tác dụng làm
cho những vấn đề đưa ra sẽ được giải quyết một cách rõ ràng, sâu sắc hơn và hồn
thiện hơn.
5. Đóng góp của khóa luận
Qua khóa luận này, người viết muốn chỉ ra những đóng góp cũng như vị trí của
Lỗ Tấn đối với nền văn học hiện đại Trung Quốc. Phân tích những đặc trưng hình
tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của ông. Đồng thời đưa ra cách tiếp cận mới về
nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn.
Có được những đóng góp trên, khóa luận sẽ là một tài liệu bổ ích cho việc học
tập, nghiên cứu và giảng dạy truyện ngắn của Lỗ Tấn ở Việt Nam.
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận được cấu trúc
thành ba chương như sau:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Hình tượng nhân vật nữ thể hiện trong quan niệm nghệ thuật về con người


Chương 3: Hình tượng nhân vật nữ nhìn từ phương diện nghệ thuật

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Khái niệm
1.1.1. Nhân vật văn học
“Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật. Nó mang tính ước lệ, khơng đồng
nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần
với nguyên mẫu có thật. Nhân vật là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về
con người; nó có thể được xây dựng trên cơ sở quan niệm ấy” [1, 242].
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học.
Nhân vật có thể có tên riêng như Thúy Kiều, Kim Trọng, Xn Tóc Đỏ, Chí Phèo, Bá
Kiến, A Phủ, Mị… hoặc khơng có tên riêng mà nhà văn đặt ra một cách ước lệ như
“thằng bán tơ” (trong Truyện Kiều của Nguyễn Du), “chị vợ nhặt” (trong Vợ nhặt của
Kim Lân)… Nhân vật không nhất thiết phải mang hình hài của con người mà có thể
đội lốt vật, muông thú, cây cỏ hay lốt của những sinh thể hoang đường, có khi được sử
dụng như một ẩn dụ, không chỉ một người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi
bật nào đó trong tác phẩm.
Là phương tiện nghệ thuật nhằm khai thác những nét thuộc đặc tính con người,
nhân vật có ý nghĩa trước hết ở các loại văn tự sự và kịch, ở sân khấu, điện ảnh, điêu
khắc, đồ họa. Các thành tố tạo nên nhân vật gồm: tinh thần của cá nhân, tư tưởng, các
lợi ích đời sống, thế giới cảm xúc, ý chí, các hình thái ý thức và hành động. Nhân vật
là phương tiện khái quát tính cách số phận con người.
1.1.2. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học
1.1.2.1. Hình tượng nhân vật
Theo góc độ văn học và nghệ thuật, hình tượng được hiểu là sự phản ánh hiện

thực một cách khái quát về nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh
động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính.
Hình tượng văn học trong tác phẩm ln là phương tiện hình thức để nhà văn
bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình. Mỗi nhà văn khi cầm bút
phải khơng ngừng sáng tạo tìm tịi để xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu đặc sắc.
6


Khơng phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học, không phải nhân vật
nào trong tác phẩm văn học đều trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở thành
hình tượng nhân vật phải là: “tính cách điển hình trong hồn cảnh điển hình” [7, 161].
Nghĩa là nhân vật văn học ấy phải có sức tập trung khái quát cao. Nhân vật ấy phải có
những nét chung nhất của tầng lớp, giai cấp… mà mình đại diện. Và bối cảnh xã hội
mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển hình của một vùng, một nơi nào trong
một thời điểm nhất định.
Như vậy, hình tượng nhân vật là nhân vật điển hình trong tác phẩm văn học,
mang đậm nét khái quát của tầng lớp, giai cấp của nhân vật ấy, đồng thời là nhân vật
có những nét riêng đặc biệt, xuất hiện trong bối cảnh điển hình mà tác phẩm văn học
ấy thể hiện.
1.1.2.2. Hình tượng nhân vật nữ
Khi nhắc đến hình tượng nhân vật nữ, chúng ta chợt nhớ đến hai câu thơ bất hủ
của Nguyễn Du:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Nàng Kiều của Nguyễn Du, người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, chị
Dậu của Ngô Tất Tố hay nàng Anna Karenina của Lev Tonstoi, Tachiana của
Pushkin… mỗi người đều đau những nỗi đau riêng của mình, khơng có nỗi đau nào
giống với nỗi đau nào. Tất cả đều là những phận đàn bà bạc mệnh. Đã từ lâu trong văn
học thế giới cũng như văn học Trung Quốc, thân phận người phụ nữ luôn giữ một vị trí
trung tâm và là đối tượng chính để tác giả thể hiện quan niệm nhân sinh của mình. Từ

trong bản chất, văn chương bao giờ cũng gần gũi với nữ giới hơn là nam giới và bởi
thế, nhân vật bi kịch của văn học thường là nhân vật nữ, những số phận và nạn nhân
đau đớn của biết bao thế lực, cả hữu hình lẫn siêu hình. Hiểu ở một ý nghĩa có tính
chất khái qt hơn, thân phận người phụ nữ cũng chính là thân phận của con người nói
chung. Và quả thật, chúng ta khơng hiểu được văn chương tồn tại để làm gì, nếu khơng
nói lên được một cách trung thực tiếng nói của thân phận con người… Các tác giả đã
thể hiện sự bênh vực, cảm thông chia sẻ với người phụ nữ trước thế lực của xã hội
phong kiến – một xã hội trọng nam khinh nữ, để lại bao thiệt thòi cho họ. Điều này
ảnh hưởng lớn đến nhân vật nữ trong sáng tác của Lỗ Tấn.
7


Nhân vật nữ trong văn học ngày càng phong phú và đa dạng. Bên cạnh những
đức tính dịu dàng, cần cù chịu khó, họ cịn là những người bản lĩnh, có niềm tin, ln khát
khao hạnh phúc và có tinh thần phản kháng mạnh mẽ. Đó cũng chính là thơng điệp mà Lỗ
Tấn đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của ông. Người viết đề tài
này cũng mong muốn với khả năng của mình giúp cho người đọc có được sự cảm thơng
và chia sẻ đối với số phận bất hạnh của người phụ nữ, đồng thời cảm nhận được vẻ đẹp
tâm hồn người phụ nữ Trung Quốc nói riêng và người phụ nữ tồn thế giới nói chung.
1.2. Lỗ Tấn – bậc thầy về truyện ngắn
1.2.1. Vài nét về tiểu sử
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tự là Dự Tài, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881
trong một gia đình nho học tại phủ thành Thiệu Hưng thuộc tỉnh Chiết Giang. Năm
1881 tức là sau chiến tranh nha phiến bốn mươi năm, sau Hồng Dương cách mạng ba
mươi năm, bấy giờ bản thân phong kiến Trung Quốc đã hủ bại suy đồi, thế lực xâm
nhập của đế quốc như Anh, Pháp đã bắt đầu lan rộng nhiều nơi trong nước, nhân dân
đã thêm bần cùng thống khổ vì chịu sự bóc lột đè nén của cả hai phía. Lỗ Tấn trưởng
thành cũng là lúc triều đình Mãn Thanh càng ngày càng suy yếu đổ nát. Trung Quốc
dần dần trở thành một nước nửa thuộc địa.
Từ sáu tuổi đến mười bảy tuổi, ông đã đọc đủ các sách kinh sử, có vốn cựu học

chắc chắn. Năm mười sáu tuổi cha chết, cảnh nhà sa sút, bị người xung quanh khinh
rẻ, Lỗ Tấn bắt đầu có ý đoạn tuyệt với quê hương. Năm mười tám tuổi, nhờ bà mẹ
chạy cho được tám đồng bạc đi đến Nam Kinh, thi vào Thủy sư học đường, sau
chuyển sang Khoáng lộ học đường. Bốn năm tốt nghiệp, được tuyển đi du học Nhật
Bản. Trong bốn năm Lỗ Tấn học ở Nam Kinh ấy, Trung Quốc xảy ra ba việc lớn:
Chính biến Mậu Tuất năm 1898, Nghĩa hịa đoàn đấu tranh phản đế và liên quân tám
nước đánh Bắc Kinh năm 1990, ký điều ước Tân Sửu năm 1901. Một người thanh niên
mới ngồi hai mươi tuổi có học thức, có chí khí như Lỗ Tấn mà gặp những biến cố ấy
chắc phải suy nghĩ nhiều lắm.
Ở Nhật Bản học lớp dự bị hai năm rồi vào học thuốc ở trường y học Tiên Đài.
Được hai năm, bỏ học thuốc, bắt đầu có quyết tâm quay sang cơng tác văn nghệ. Bấy
giờ thanh niên Trung Quốc lưu học ở Nhật Bản đơng lắm, và tại đó, hai phe chính trị
đối lập của Trung Quốc, phe cách mạng của Tơn Trung Sơn và phe bảo hồng của
8


Lương Khải Siêu đều có cơ quan tun truyền, cơng kích nhau kịch liệt. Tất nhiên là
Lỗ Tấn đứng về phía phe cách mạng. Ơng có gia nhập Quang phục hội là một đoàn thể
cách mạng.
Ở Nhật Bản cả thảy tám năm, đến năm 1909, Lỗ Tấn về nước. Vì gia đình
nghèo túng, gửi thư mong ơng về giúp đỡ sự sống cho gia đình nên ơng phải về. Về
nước rồi, ông làm giáo sư trong mấy trường trung học tỉnh nhà, dạy về vật lý học, hóa
học. Đến năm 1911 thì có cuộc Cách mạng Tân Hợi, Lỗ Tấn cũng có tham gia hoạt
động ít nhiều tại nơi mình ở. Năm 1912, sau khi chính phủ lâm thời thành lập tại Nam
Kinh, ông nhận lời mời của Thái Nguyên Bồi, bộ trưởng Bộ Giáo dục, đi làm một
chức viên trong bộ ấy theo chính phủ dời lên Bắc Kinh, ở đó cho đến năm 1926.
Trong khi làm chức viên ở Bộ Giáo dục, Lỗ Tấn có kiêm làm giảng sư ở mấy
trường đại học tại Bắc Kinh. Năm 1917, nhân việc Trương Hn "phục tích", ơng phẫn
mà từ chức ở Bộ Giáo dục trong hai tuần lễ. Trương Huân thất bại, ông lại phục chức.
Tháng 8 năm 1925, nhân Chương Sĩ Chiêu, bộ trưởng Bộ Giáo dục đàn áp học sinh,

Lỗ Tấn phản đối ra mặt, bị Chương Sĩ Chiêu cách chức, nhưng sang đầu năm sau, sau
khi Chương Sĩ Chiêu hạ dã, ông được phục chức, làm việc ở Bộ Giáo dục như cũ.
Ngày 18 tháng 3 năm 1926, học sinh và cơng nhân Bắc Kinh có một cuộc biểu
tình, bị chính phủ Đồn Kỳ Thụy thẳng tay đàn áp, bắn chết và bị thương hơn hai trăm
người. Chúng đổ cho cuộc biểu tình ấy là cuộc bạo động của Đảng cộng sản mà Lỗ
Tấn là một người trong đám lãnh đạo, ra sức trát nã. Ông phải lánh nạn trong mấy
bệnh viện ngoại quốc, đến tháng 5 mới trở về nhà. Và liệu không thể yên thân được,
tháng 8 ơng bèn lìa Bắc Kinh, đi Phúc Kiến, làm giáo thụ ở trường Hạ Môn đại học.
Ở Phúc Kiến cũng không yên thân, tháng giêng năm 1927, ông đi đến Quảng
Châu, làm chủ nhiệm văn học hệ ở trường Trung Sơn đại học. Ngày 12 tháng 4, Tưởng
Giới Thạch làm phản Cách mạng, giết tại đó hơn ba ngàn người vừa đảng viên cộng
sản, vừa công nông tri thức. Ông chạy cứu cho những học sinh bị bắt mà không được,
bèn từ chức. Ở Quảng Châu, Lỗ Tấn thấy mình cũng có nguy cơ bị hại, tháng 10 trở
lên Thượng Hải. Năm ấy ông đã 47 tuổi.
Tháng 9 năm 1927, Lỗ Tấn rời khỏi Quảng Châu, tháng 10 ông định cư ở
Thượng Hải, ông chuyên viết báo, viết sách mà khơng dạy học nữa. Lúc bấy giờ chính
là lúc Tưởng Giới Thạch đàn áp Cách mạng nghiêm ngặt tàn khốc lắm, mà Lỗ Tấn lại
9


cứ hoạt động phản đối và cứ hay viết báo cơng kích, cho nên có ba lần sợ nguy hiểm
đến tính mạng, phải tạm lánh mình trong mấy tơ giới. Năm 1932, Nhật Bản đánh
Thượng Hải, nhà trọ Lỗ Tấn ở ngay trong vòng lửa đạn, cũng phải dời ở tô giới Anh.
Năm 1936, ông lâm bệnh, ngày 19 tháng 10 qua đời tại nhà số 9 phố Đại Lục Thân
Thôn, Thượng Hải, hưởng thọ 56 tuổi.
1.2.2. Sự nghiệp văn học
Lỗ Tấn là nhà văn tiêu biểu của văn học Trung Quốc. Ơng suốt đời trung thành với
lí tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi áp bức bóc lột của đế quốc và
phong kiến. Ơng đã tình nguyện làm người “thầy thuốc” chữa bệnh tinh thần cho nhân
dân. Ơng có ý thức dùng sức mạnh của văn học nghệ thuật để cải tạo xã hội, thức tỉnh

nhân dân, giúp họ trút bỏ những khuyết điểm, nhược điểm về tinh thần, truyền cho họ
niềm tin và nghị lực để đứng lên trong cuộc đấu tranh chống áp bức.
Ngòi bút của Lỗ Tấn là ngòi bút hiện thực tỉnh táo. Ông dũng cảm vạch trần tội ác,
bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột. Ơng cũng phê phán một cách sâu sắc những “bệnh
tật”, khuyết điểm tinh thần của nhân dân, của dân tộc với thái độ “ai kì bất hạnh, nộ kì bất
tranh” (thương họ bất hạnh, giận họ không đấu tranh).
Để đấu tranh chống kẻ thù, tự phê phán dân tộc mình, Lỗ Tấn đặc biệt thành công
trong nghệ thuật châm biếm.
Lỗ Tấn cũng là một nhà văn có ý thức kế thừa truyền thống nghệ thuật của dân tộc,
kết hợp với sự tiếp thu tinh hoa của văn học thế giới. Điều đó khiến cho phong cách nghệ
thuật của ông vừa hiện đại vừa rất “Tàu” [4, 103].
Đi sâu tìm hiểu sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn ta thấy toàn bộ sáng tác của ông chủ
yếu là ba tập truyện ngắn, 17 tập tạp văn (bình luận chính trị, xã hội, văn nghệ). Tất cả đều
tập trung phê phán các căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội, tiêu biểu là các
truyện AQ chính truyện, Thuốc, Lễ cầu phúc, Cố hương, Nhật kí người điên, Khổng Ất Kỷ,
Tiếc thương những ngày đã mất...
Nếu Nga có Tchékhov, Pháp có Maupassant, Mỹ có O’Henry, Nhật Bản có
Kawabata thì Trung Quốc tự hào có Lỗ Tấn. Lỗ Tấn là chủ tướng của cách mạng văn
hóa Trung Quốc. Ơng khơng chỉ là nhà văn lớn, mà còn là nhà tư tưởng, nhà cách
mạng vĩ đại. Lỗ Tấn kiên cường bất khuất, chưa một phút chịu khom lưng uốn gối. Đó
chính là tính cách vơ cùng q báu của nhân dân thuộc địa và nửa thuộc địa. Lỗ Tấn là
10


một anh hùng dân tộc: nhiệt tình nhất, trung thực nhất, kiên quyết nhất, đúng đắn nhất,
xông xáo mưu lược nhất trước kẻ thù trên mặt trận văn hóa. Ơng đại diện cho số đơng
của tồn dân tộc. Phương hướng của Lỗ Tấn chính là phương hướng của nền văn hóa
mới dân tộc Trung Hoa.
Truyện của Lỗ Tấn giàu tính sáng tạo, độc đáo, phong cách nổi bật, đầy đặn mà
chắt lọc, thâm thúy mà nhẹ nhàng, khôi hài mà hùng biện. Sự hình thành phong cách

đó xuất phát từ việc ông biết tiếp thu những tinh hoa của văn học cổ điển trong và
ngoài nước trên nhiều mức độ khác nhau. Lỗ Tấn khâm phục cách biểu hiện tinh tế sâu
sắc mà chất phác của nghệ thuật truyền thống Trung Quốc. Các sáng tác thuộc trường
phái hiện thực của Nga, Ba Lan và của các nước vùng Bancăng có ảnh hưởng lớn đối
với ông.
Khi bàn về nghệ thuật sáng tác của các nhà văn trong và ngồi nước, ơng ca
ngợi phương pháp “tả đôi mắt” và “vẽ linh hồn”. Ông cho rằng nhà văn cần phải tập
trung miêu tả đặc trưng tính cách nhân vật với một lượng câu chữ vơ cùng tiết kiệm:
“Nếu có vẻ cả bộ tóc, thì dù tinh tế như thật, cũng chẳng có ý nghĩa gì” [15, 542]. Lỗ
Tấn rất giỏi về thủ pháp vẽ rồng điểm mắt, chỉ sơ sài vài câu là đã lột tả được tư tưởng
tình cảm của nhân vật, và cũng vẽ ra được diện mạo và hình dáng của họ, để lại những
ấn tượng mạnh mẽ trong bạn đọc. Với ý nghĩa đó, Lỗ Tấn cịn địi hỏi bản thân phải
“mô tả được linh hồn người Trung Quốc thời hiện đại”.
Khi đề cập đến thủ pháp nghệ thuật của mình, Lỗ Tấn giải thích rằng: “Tơi hết
sức tránh hành văn lôi thôi. Nếu thấy đủ truyền đạt ý tứ của mình cho kẻ khác rồi thì
thơi, khơng cần thêm thắt, kéo dài nữa. Tuồng cũ Trung Quốc không có bối cảnh, trên
tờ giấy hoa năm mới mua cho trẻ con xem, chỉ có vài người chủ yếu, tơi tin sâu sắc
rằng, với mục đích của tơi, phương pháp đó rất thích hợp, cho nên tơi khơng tả gió
trăng, đối thoại cũng quyết không kéo dài” [15, 541]. Ở đây, Lỗ Tấn phản đối sự dài
dịng và lơi thơi, chứ tuyệt đối không bài trừ những chi tiết làm nền. Cách mô tả ấy
không tách rời các thủ pháp truyền thống của nghệ thuật cổ điển Trung Quốc. Đó là
đặc điểm trong cấu tứ nghệ thuật của truyện ngắn. Ông phản ánh chân thực những tư
tưởng và cuộc đời của một người Trung Quốc nào đó trong một thời kỳ lịch sử nhất
định. Điều này đã thể hiện được phong độ và khí chất của một nhà văn hiện thực
nghiêm túc.

11


Ngoài ra, bằng sự khái quát cao độ, bằng việc chắt lọc những tình huống từ

cuộc sống thường nhật, Lỗ Tấn đã nhằm đạt được mục đích “lơi hết bệnh tật của họ
ra, làm cho mọi người chú ý tìm cách chạy chữa” [15, 541]. Lỗ Tấn hiểu biết hiện thực
vơ cùng sâu sắc. Ơng địi hỏi sáng tác nghệ thuật phải mang lại những ấn tượng mới
cho mọi người, đồng thời nói rõ ý nghĩa của những điều mới mẻ. Không phải chỗ nào
cũng phơi bày sự kỳ dị, tìm cái mới lạ mà nhiều khi Lỗ Tấn cũng đi sâu vào bản chất
cuộc sống. Trước khi bắt đầu sáng tác, bản thân ơng đã phân tích một cách chi tiết xã
hội và lịch sử Trung Quốc. Trong nhiều vấn đề, ông đã hiểu biết khá sâu sắc và rõ
ràng. Tư tưởng cách mạng dân chủ triệt để đã rèn luyện và củng cố thêm khả năng
quan sát của ơng. Vì thế, ơng có thể từ đỉnh cao của sự phát triển lịch sử, khái quát
được hiện thực cuộc sống, từ những hiện tượng thường thấy, khai thác được những ý
nghĩa tiềm ẩn, nói ra những điều người khác chưa nói, khiến tác phẩm có nội dung sâu
đậm, thể hiện một sức mạnh tư tưởng có thể rung động lòng người.
1.2.3. Giới thuyết về truyện ngắn và truyện ngắn của Lỗ Tấn
Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập
hầu hết đến các phương diện của đời sống con người và xã hội: đời tư, thế sự hay sử thi.
Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng: “tác phẩm truyện ngắn thích
hợp với việc người tiếp nhận đọc nó liền một mạch khơng nghỉ” [1, 345]. Truyện ngắn có
thể kể về cả một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc
sống nhân vật, nhưng cái chính của truyện ngắn khơng phải ở hệ thống sự kiện, mà ở cái
nhìn tự sự đối với cuộc đời.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn
chế. Chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình
người. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà thường được
xây dựng theo nguyên tắc tương phản và hiện tượng. Bút pháp trần thuật của truyện ngắn
thường là chấm phá.
Truyện ngắn là một thể loại gần gũi với đời sống hằng ngày, súc tích, dễ đọc, lại
thường gắn với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng ảnh hưởng kịp thời cho đời sống.
Nhiều nhà văn lớn đã đạt đến đỉnh cao của lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng
những truyện ngắn xuất sắc của mình. Lỗ Tấn cũng là một nhà văn đã đạt đến đỉnh cao
đó. Đọc truyện ngắn của Lỗ Tấn ta bắt gặp một tài năng nghệ thuật độc đáo. Ông đã biến

12


ngịi bút của mình thành một loại vũ khí sắc bén, góp phần tham gia vào cuộc đấu tranh
của dân tộc, giúp ơng thực hiện hồi bão lớn của cuộc đời. Ơng đã dùng ngịi bút ấy vạch
trần bản chất xấu xa của chế độ phong kiến, đưa tội ác của bọn chúng ra ánh sáng, đồng
thời mổ xẻ thói hư tật xấu của xã hội mê muội. Cũng chính nhờ tinh thần chiến đấu mạnh
mẽ, nội dung tư tưởng sâu sắc và nghệ thuật độc đáo được thể hiện qua truyện ngắn của
mình, Lỗ Tấn xứng đáng ở vị trí bậc thầy về truyện ngắn.
Là một bậc thầy của truyện ngắn thế giới, Lỗ Tấn thấy rõ đặc điểm của truyện
ngắn và đánh giá cao tác dụng của nó. Ông cho rằng những tác phẩm trở thành tấm bia kỉ
niệm của một thời đại thường có ít trên văn đàn, mà dẫu có thì chín phần mười là những
trước tác lớn. Một thiên truyện ngắn có thể trở thành một tòa lâu đài chứa đựng cả tinh
thần thời đại thì thật là ít. Khi nghiên cứu tác phẩm Lỗ Tấn, nhà văn Liên Xơ Fadée có
nói: “Lỗ Tấn là một danh thủ truyện ngắn. Ông giỏi biểu hiện ngắn gọn, rõ ràng một tư
tưởng trong một số hình tượng, một sự biến to lớn trong một giai đoạn ngắn, một điển
hình trong một nhân vật cá biệt” [8, 669].
Trong sự đối nghịch gay gắt giữa bạch thoại và văn ngôn vào thời Ngũ Tứ, Lỗ Tấn
là người đầu tiên viết tiểu thuyết bằng bạch thoại. Sau này, khi nhớ về q trình đó, ơng
từng nói: “Ở Trung Quốc, tiểu thuyết không được coi là văn học. Người viết tiểu thuyết
không được gọi là nhà văn, cho nên không ai muốn góp mặt với đời bằng con đường này.
Tơi cũng khơng có ý đưa tiểu thuyết vào “văn uyển”, chẳng qua là lợi dụng sức mạnh của
nó để cải tạo xã hội mà thơi” [15, 540]. Mục đích sáng tác ban đầu của Lỗ Tấn và nguyện
vọng tham gia văn nghệ của ơng là thống nhất với nhau. Ơng viết gần ba mươi thiên tiểu
thuyết, thể hiện đầy đủ những đặc điểm lịch sử của thời kỳ từ đêm trước cuộc Cách mạng
Tân Hợi đến trước cuộc nội chiến lần thứ nhất. Trong thời kỳ đó, sự yếu đuối bất lực của
giai cấp tư sản bộc lộ rõ ràng. Từ Ngũ Tứ bắt đầu nổi lên phong trào cách mạng dân chủ
mới do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhưng giai cấp công nhân tạm thời chưa liên hiệp với
giai cấp nông dân. Đông đảo nhân dân vẫn phải sống cuộc đời nơ lệ. Đó là thời đại đau
thương, là thời đại đan xen giữa hi vọng và thất vọng. Tác phẩm của Lỗ Tấn đã tập trung

vạch trần tội ác của phong kiến, phản ánh được bộ mặt đời sống nhân dân dưới hai tầng áp
bức bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, miêu tả được số phận của trí thức đang
quằn quại trong những mâu thuẫn xã hội gay gắt. Tất cả các tác phẩm ấy sau này được tập
hợp thành hai tập truyện ngắn Gào thét và Bàng hồng. Khơng giống với cái gọi là tiểu
thuyết chính trị, tiểu thuyết xã hội mà các trí thức lớp trên thời kỳ dân chủ cũ đề xướng,
13


bằng ngôn ngữ nghệ thuật tuyệt vời, Lỗ Tấn đã chứng minh hùng hồn rằng bạch thoại
phải là ngôn ngữ mới của văn học dân tộc. Và với những thành tựu kinh tế mở rộng trận
địa cho bạch thoại, ngay từ buổi đầu đã gắn chặt văn học nghệ thuật với số phận của nhân
dân. Qua đó thể hiện được tư tưởng và đời sống của nhân dân bị áp bức, trong sáng tạo
hình tượng cụ thể bộc lộ những vấn đề xã hội sâu sắc, nêu một tấm gương xuất sắc cho
sáng tác văn học hiện đại.
Lỗ Tấn có ba tập truyện: Gào thét (xuất bản 1923), Bàng hoàng (xuất bản 1926) và
Chuyện cũ viết lại (xuất bản 1936).
Gào thét và Bàng hồng thơng qua các nhân vật và sự kiện cụ thể đã khắc họa trọn
vẹn một thời đại. Trong thời đại đó, thế lực phong kiến tuy ngày càng tan rã nhưng tạm
thời hãy còn mạnh, quần chúng nhân dân bị tai họa nặng nề nhưng vẫn chưa giác ngộ
rộng rãi, tầng lớp trí thức đầy những hồi nghi và hi vọng trên con đường tìm kiếm. Tuy
lực lượng giai cấp công nhân Trung Quốc thời cận đại chưa được phản ánh trong các tác
phẩm của Lỗ Tấn nhưng xuất phát từ cuộc sống quen thuộc của mình, ơng đã tìm tịi,
khảo sát sâu sắc lực lượng cách mạng Trung Quốc. Ơng tun án tử hình các thế lực
phong kiến, chỉ rõ sự yếu hèn bất lực của giai cấp tư sản, địi hỏi trí thức phải thoát ra khỏi
sự “trống rỗng” và “dao động”, cải tạo tư tưởng và cuộc sống của mình, đồng thời lại gửi
gắm một niềm tin hi vọng tha thiết với nông dân. Những người nông dân xuất hiện trong
tác phẩm của ơng dù cịn lạc hậu, song vẫn giữ được tính cách kiên nhẫn trong đau khổ. Ở
họ vẫn ẩn chứa sức mạnh cách mạng tiềm tàng, sẽ có ngày bùng nổ. Chủ nghĩa hiện thực
của Lỗ Tấn đã bắt rễ sâu vào tư tưởng cách mạng dân chủ triệt để, do đó mà ln ln tự
giác đi cùng nhịp bước với các nhà cách mạng tiền bối. Bởi vậy trong sự mổ xẻ hiện thực

một cách nghiêm khắc, vẫn luôn lấp lánh một ánh sáng của lý tưởng. Thời đại cách mạng
dân chủ mới đang đến, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong sáng tác của Lỗ Tấn.
Gào thét gồm 14 câu chuyện viết từ năm 1918 đến 1922. Đặt tên cho tập truyện
là Gào thét, tác giả muốn góp một tiếng hơ to để cổ vũ, trợ chiến cho những chiến sĩ
cách mạng, làm cho họ hăng hái xơng lên. Đây là “tiếng thét trợ uy cho lịng đồng cảm
với những người nhiệt tình”. Tác phẩm tràn đầy nhiệt tình chống phong kiến. Từ
khuynh hướng chung đến mơ tả cụ thể đều thống nhất với tinh thần Ngũ Tứ, thể hiện
sắc thái của cách mạng văn hóa và cách mạng tư tưởng.

14



×