Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng. Liên hệ thực tiễn tình hình đạo đức sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.38 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
B. NỘI DUNG.................................................................................................2
I. Tìm hiểu về đạo đức cách mạng..........................................................2
II.Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
của con người Việt Nam mới..................................................................2
2.1. Quan niệm về vai trò đạo đức Cách Mạng.....................................2
2.2.

Nguồn gốc tư tưởng đao đức Hồ Chí Minh................................3

2.3. Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh..................4
2.3.

Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong thời

đại mới theo quan điểm Hồ Chí Minh....................................................4
III.

Nguyên tắc xây dựng đạo đức của Hồ Chí Minh....................11

3.1.

Thứ nhất, nói đi đơi với làm nêu gương về đạo đức................11

3.2.

Thứ hai, xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần

chúng rộng rãi........................................................................................12
3.3.


IV.

Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.................................................13
Vận dụng tư tưởng vào xây dựng đạo đức, lối sống của sinh

viên hiện nay.............................................................................................14
4.1. Tầm quan trọng...............................................................................15
4.2. Biện pháp........................................................................................18
C. KẾT LUẬN..............................................................................................24


A. MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách
mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức Người không để lại những tác
phẩm đạo đức lớn. nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã
nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cơ đọng,
hàm súc theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với con người
Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện trước nhất những tư tưởng ấy,
nhiều hơn cả những điều Người đã nói, đã viết về đạo đức Người vừa là
một nhà đạo đức học lớn, lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất,
tiêu biểu nhất đã được thế giới thừa nhận.
Vì vậy tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh khơng phải chỉ thơng
qua những tác phẩm của Người về đạo đức, mà quan trọng hơn phải thông
qua chính hành vi được thể hiện trong tồn bộ hoạt động thực tiễn của
Người, thông qua mẫu mực đạo đức trong sáng mà Người đã để lại cho
Đảng, cho dân tộc, cho nhân loại. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi,
động cơ và hiệu quả, giữa lý luận và thực tiễn đã trở thành một đặc trưng
nổi bật của Hồ Chí Minh, đặc trưng này đã làm cho Hồ Chí Minh phân
biệt với rất nhiều nhà tư tưởng, nhiều lãnh tụ cách mạng khác từ trước đến
nay. Do đó sau một thời gian tìm hiểu, tơi đã lựa chọn đề tài “ Quan điểm

Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng. Liên hệ thực
tiễn tình hình đạo đức sinh viên hiện nay”


B. NỘI DUNG
I. Tìm hiểu về đạo đức cách mạng.
Đạo đức là gì?
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội,
nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi và cách ứng xử trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội nhằm bảo đảm quan hệ lợi ích của cá nhân
và cộng đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Đạo đức nảy
sinh do nhu cầu xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và hình thức biểu hiện là
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực này định hướng, đánh giá điều chỉnh hành vi của con người
cho phù hợp với yêu cầu của xã hội nhất định, góp phần bảo vệ kỷ cương
xã hội. Bất cứ một chế độ xã hội nào cũng đặt ra việc điều chỉnh hành vi
con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, đạo đức được xem là tiến
bộ khi nó phản ánh xu hướng tiến bộ của xã hội.
Đạo đức cách mạng là gì?
Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra thuật
ngữ và khái niệm “Đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa khái
niệm đạo đức cách mạng, phân tích nội dung bản chất của đạo đức cách
mạng. Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của đạo đức truyền thống
Việt Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo đức phục vụ cho
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN.
II.Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
của con người Việt Nam mới.
2.1. Quan niệm về vai trị đạo đức Cách Mạng.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách
mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. người không để lại những tác

phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã


nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng
hàm súc theeo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với on người
Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện trước nhất và nhiều nhất những
tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói, lại vừa là tấm gương
đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới biết đến và ghi
nhận.
2.2.

Nguồn gốc tư tưởng đao đức Hồ Chí Minh.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của
dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong thời kì lịch sử, đồng thời kế
thừa tư tưởng đạo đức Phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân
loại, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mác- Lenin, cũng
như những tấm gương đạo đức trong sáng mà ơng kể lại.
Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã
từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, đưa vào đó những nội
dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức
mới của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa
nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi
người dân Việt Nam đều cảm thấy gần gũi. Việc tiếp thu những tinh hoa
nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được
đơng đảo những người nước ngồi chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam
trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng
nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn

Việt Nam thực hiện một cơng việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những
giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù hợp
với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.


2.3. Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Những vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh xem xét một cách tồn
diện:
+ Đối với mọi đối tượng – từ cơng nhân nơng dân đến trí thức, văn
nghệ sĩ, từ các cụ phụ lão đến thanh thiếu niên nhi đồng, đồng bào các dân
tộc, tôn giáo… Cùng với việc đề cập đạo đức công dân, Người đặc biệt
quan tâm đến đạo đức của các cán bộ Đảng viên.
+ Trên mọi lĩnh vực hoạt động của Người- từ đời tư đến đời công, cũng
như sinh hoạt học tập lao động, chiến đấu lãnh đạo quản lý…
+ Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng- từ gia đình đến xã hội, từ giai cấp
đến dân tộc, từ các vùng miền địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến
quốc tế.
2.3.

Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong thời
đại mới theo quan điểm Hồ Chí Minh.

a, Trung với nước hiếu với dân.
Trung - Hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức truyền thống
Việt Nam và Phương Đông, khái niệm này ăn sâu bám rễ trong tâm hồn
ngưới Việt Nam.
+Trung là trung với Vua, Khổng Tử đưa ra một cặp mệnh đề “Vua
Minh, Tôi Trung” nói lên quan hệ hai chiều và tác động lẫn nhau, đến
Đổng Trọng Thư thời nhà Hán với chế độ phong kiến TW tập quyền thì
Trung với vua là một yêu cầu vô điều kiện, “Quân xử thần tử thần bất tử

bất trung” vua có tàn bạo thì vẫn phải nghe lệnh.Đạo đức phong kiến
trong thời này nhằm bảo vệ tôn ti trật tự của nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền.
Trong lịch sử Việt Nam,tư tưởng Trung quân cũng tồn tại như ở
những nước Phương Đông chiụ ảnh hưởng của Nho giáo , song tư tưởng


Trung Quân của Việt nam gắn bó rất chặt chẽ với tư tưởng Ái Quốc (vì
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị cao nhất trong bảng thang các giá
trị, nếu như vua hèn, vua Rước Voi Giày Mả Tổ ,Vua “cõng rắn cắn gà
nhà” thì lịng trung qn sẽ tan vỡ, đó cũng là một đặc điểm của tư tưởng
trung quân ở Việt Nam.“Dãy Trường Sơn thăm thẳmNước Đại Hải đại
ngàn .Vua An Nam theo giặc .Cho dân tình cơ hàn”.(Vè Nghệ Tĩnh),
Kế thừa khái niệm Trung của phương Đơng nói chung và Việt Nam
nói riêng. Hồ Chí Minh đã nâng lên tầm nội dung của khái niệm này
“Trung với nước” – Trung với nước được coi là phẩm chất cao nhất của
con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới.
+ Hiếu:
Hiếu là một phẩm chất đạo đức quan trọng được hình thành trong
gia đình ở mối quan hệ giữa cha mẹ – con cái, nêu lên nghĩa vụ của con
cái đối với cha mẹ. Hiếu là điều kiện để duy trì mối quan hệ gia đình.Cha
mẹ nào ở bất kỳ thời đại nào cũng cần những người con có hiếu, Khổng
Tử có cặp mệnh đề: “Phụ tử – Tử hiếu” (Cha hiền – con hiếu thảo) - cũng
nói lên mối quan hệ hai chiều giữa cha – con. Đến Đổng Trọng Thư – thời
nhà Hán – quan hệ cha – con trong đạo tam cương được hiểu một chiều
khắc khe ‘Phụ xử tử vong – tử bất vong bất hiếu”. Trong lịch sử Việt Nam
chưa có nghe thấy, chưa có trường hợp nào ghi nhận, cha bắt con chết vì ý
thích vơ lý của cha và cũng chưa thấy con nào bằng lịng chết vì mong
muốn vô lý của cha. Quan hệ của cha con Việt Nam gắn kết hài hòa giữa
nhân nghĩa với hiếu để.

Hồ Chí Minh kế thừa, khái niệm Hiếu và phát triển lên với nội dung
mới “ Hiếu với dân”.Hiếu với cha mẹ mình và hiếu với cha mẹ cùa tất cả
mọi người.
Thế nào là Trung với nước, Hiếu với dân?


Trung với nước là trung với sự nghiệp xây dựng nước và giũ nước,
nước ở đây là nước với dân, nhân dân là chủ của đất nước, Hiếu với dân là
phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ. Cán bộ đảng viên phải là
người đầy tớ trung thành với nhân dân. phẩm chất “trung với nước, hiếu
với dân” là phẩm chất bao trùm và quan trọng nhất chi phối các phẩm chất
khác. Hồ Chí Minh yêu cầu cao phẩm chất này ở tất cả các đối tượng.
Chữ Trung chữ Hiếu là những chữ ăn sâu bám rễ vào tâm hồn con
người Việt Nam. Hồ Chí Minh sử dụng từ này và nâng lên một nội dung
mới phù hợp với giai đoạn lịch sử mới vừa thể hiện tốt truyền thống, vừa
thể hiện tính cách mạng,dễ hiểu, dễ nghe, dễ tiếp nhận.
b, Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
(đối với người dân và đối với người cán bộ có những nội dung khác
nhau)
 Đối với người dân , Người giải thích:
Cần: “Là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai… Tục ngữ ta có
câu: “Nước chảy đá mịn, kiến tha lâu đầy tổ. Dao siêng mài thì sắc bén,
Ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt… Mọi người điều phải cần, cả nước đều
phải cần.” [T5-234]Song người cũng lưu ý.Cần khơng có nghĩa cần là “
làm cố sống, cố chết trong một ngày, một tuần, một tháng đến nổi sinh ốm
đau, phải bỏ việc như vậy không phải là cần” [T6-226]như vậy quan niệm
của Hồ Chí Minh về chữ cần là bao hàm cả cái trí,nghĩa là phải lao động
có kế hoạch,sáng tạo và có năng xuất cao.
Kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời giờ, tiết kiệm
tiền của của nhân dân,của nước và của bản thân mình.“tiết kiệm là khơng

xa xí, khơng hoang phí bừa bãi. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn… Việc
đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là kiệm”.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về chữ kiệm là bao hàm cả cái trí,tiết kiệm
một cách khơn ngoan hợp lý.


Quan hệ giữa cần và kiệm ,Người viết “Cần với kiệm phải đi đôi với
nhau như hai chân của một con người. Cần khơng kiệm thì làm chừng nào
xào chừng ấy cũng như cái thùng không đáy, nước đổ vô chừng nào, chảy
ra hết chừng ấy, khơng lại hịan khơng … Kiệm mà không cần … như cái
thùng chỉ đựng một ít nước khơng tiếp tục đổ thêm vào lâu ngày chắc
nước đó sẽ hao bớt dần cho đến khi khô kiệt” [T5-238]
“Liêm: Liêm trong liêm khiết là trong sạch, không tham lam …
Ngày xưa dưới chế độ phong kiến, những người làm quan khơng đục
kht dân thì gọi là Liêm. Chữ Liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp … Ngày nay,
nước ta là dân chủ cộng hịa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người
đều phải Liêm. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ Kiệm
phải đi đơi với chữ cần. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham
lam” [T5-243]
( HCM từng nhắc một câu nói của Khổng tử: Người khơng Liêm khơng
bằng súc vật”)
“Chính, nghĩa là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn … cần
kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ lại cần có
nhành lá, hoa, quả, mới là cây hòan tòan. Một người phải cần, kiệm, liêm
nhưng cịn phải chính mới là hồn tồn”.
 Đối với những người trong các cơng sở Hồ Chí Minh giải thích
nội dung của Cần - kiệm - liêm - chính như sau:
“Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho
chóng – cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày
mai. Phải nhớ rằng: dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta

trong những thì giờ đó, ai lười biếng tức là lường gạt dân.”


“Kiệm - giấy bút, vật liệu đều tốn tiền của chính phủ, tức là của dân,
ta cần phải tiết kiệm … Nhờ các công sở tiết kiệm mà lợi cho dân rất
nhiều.
“Liêm – những người ở các công sở, từ làng cho đến chính phủ
trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của chính phủ, hoặc
đục khoét nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt mất hết cả danh giá, mà của phi
nghĩa đó khơng được hưởng. Vì vậy, những người trong cơng sở phải lấy
chữ Liêm làm đầu.”
“Chính – mình là người làm việc cơng, phải có cơng tâm, cơng đức,
chớ đem của cơng dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm việc cơng.
Việc gì cũng phải cơng bình, chính trực, khơng nên vì tư ân, tư huệ, hoặc
tư thù tư ốn. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài
năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào chức nọ chức kia.
Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình, phải trung
thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mạng”{t4336}
. Những người trong các công sở tức trong bộ máy nhà nước “tức đều có
nhiều hoặc ít quyền hành nếu không gữi đúng cần, kiệm, liêm, chính dễ
trở nên hủ bại, biến thành sâu mọi của dân” [T4-326]
Cần kiệm liêm chính là thước đo văn minh tiến bộ của một dân
tộc. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vất
chất, mạnh mẽ tinh thần là một dân tộc văn minh tiến bộ, là đặc điểm của
một xã hội hưng thịnh, trái lại là đặc điểm của một xã hội suy tàn.
Chí cơng vơ tư
Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn “mọi người vì mình”
mà khơng biết “mình vì mọi người” nó là một thứ nội xâm, còn nguy hiểm
hơn cả giặc ngoại xâm. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ



ra hàng trăm thứ nguy hiểm khác: quan liêu, bè phái, tham ơ, lãng phí, coi
thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đốn chính quyền.
Tuy nhiên cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân đâu là lợi
ích cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng
sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân của mỗi gia đình. Nếu những
lợi ích cá nhân đó khơng khơng trái với lợi ích của tập thể thì không phải
là xấu. Mỗi người hãy phát huy sở trường và tính cách riêng của mình
Cần kiệm liêm chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư, ngược lại đã chí
cơng vơ tư một lịng vì nước vì dân, vì Đảng, khơng nghĩ đến bản thân
trước “thì nhất định sẽ thực hiện được cần kiêm liêm chính và có nhiều
tính tốt khác. “Mình đã chí cơng vơ tư thì khuyết điểm ngày càng ít, mà
những tính tot như sau ngày càng thêm … Nói tóm tắt, tính tốt ấy có 5
điều: Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm” [T5-251].
c, u thương con người, sống có tình nghĩa.
u thương con người là một phẩm chất cao đẹp mà Hồ Chí Minh
địi hỏi phải có trong đạo đức cách mạng. Nếu khơng có tình u thương
con người thì khơng thể nói đến cách mạng,càng khơng thể nói đến
CNXH hayCNCS.Con người ở đây là những người cùng khổ, bạn bè,
đồng chí, những người lầm đường lạc lối đã hối cãi, tù binh chiến tranh …
Năm 1946, trước khi đi Pháp, Hồ Chí Minh viết thư căn dặn các chiến sĩ
và nhân dân Nam bộ rằng “Đối với những người lính Pháp bị bắt, phải
chú ý hai điều: một là phải canh phòng cẩn mật, hai là phải đối xử nhân
đạo với họ, để cho nhân dân Pháp hiểu rằng dân tộc Việt Nam là một dân
tộc văn minh, văn minh gấp trăm lần bọn xâm lược nước ta”.
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất
phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân



văn của nhân loại chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu
thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong
quan hệ xã hội.
Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương với
đại đa số nhân dân, nhưng người lao động bình thường trong xã hội,
những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải
làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu
đạt cho được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”.
Thương yêu con người phải tin vào con người. Với chính
mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc với người thì khoan dung, đọ lượng,
rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường lạc
lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Cùng giúp đỡ nhau để ngày càng tiến
bộ, tốt đẹp hơn.
Lòng yêu thương quý trọng con người được thể hiện trong các quan
hệ hàng ngày với mọi người ,chẳng những đòi hỏi ứng xử với con người
theo tinh thần “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” mà còn địi hỏi mọi người
phải nghiêm khắc chặt chẽ với mình, rộng rãi , độ lượng với người khác ,
đòi hỏi phải nâng phẩm giá con người lên, phát huy cái tốt để đi đến hạn
chế cái xấu. Không được hạ thấp ,kìm hãm khả năng vươn lên chân thiện
mỹ của con người.Sự yêu thương con người trong đạo đức cách mạng có
một sức thu hút mạnh mẽ,chính tình u đó đã đánh thức những gì tốt đẹp
mà HCM tin rằng ở mỗi người đều có,dù nhiều ít khác nhau .
d, Có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Tư tương Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hịa quyện giữa chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.


Nội dung của củ nghĩa đế quốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng
lớn và sâu sắc. Đó là sự tự tôn và yêu thương tất cả các dân tộc, nhân dân

các nước, chống sự hằn thù bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng
tộc. Người khẳng định: Bốn phương vô sản, bốn bề đều là anh em, giúp
bạn là giúp mình. Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình
đồn kết quốc tế, tạo ra khẩu hiệu quanhệ quốc tế mới: đối thoại thay đối
đầu, kiến tạo một nền văn hóa hịa bình trên thế giới.
Quan niệm đạo đức Hố Chí Minh về đồn kết quốc tế trong sáng
của Hồ Chí Minh thể hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu
tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
- Đồn kết quốc tế giữa những người vơ sản tồn thế giới vì một mục
tiêu chung “bốn phương vơ sản đều là anh em”.
- Đồn kết với nhân loại tiến bộ vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã
hội.
- Đồn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu
nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại
mọi biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc…

III.

Nguyên tắc xây dựng đạo đức của Hồ Chí Minh.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ln có sự thống nhất giữa tư tưởng
đạo đức và mục tiêu chính trị; giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức;
giữa đạo đức và tài năng; giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường;
giữa ba mối quan hệ: với mình- với người- với cơng việc. Vì vậy con
người HCM, phong cách HCM, đạo đức HCM đã trở thành biểu tượng và
niềm tin của dân tộc. Niềm tin đó, biểu tượng đó đã xâm nhập vào quần
chúng nhân dân và đã chuyển hóa thành sức mạnh vật chất, góp phần tạo



nên những chiến công hiển hách của dân tộc; nâng vị thế dân tộc ta lên
một tầm cao mới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mỗi người dân Việt Nam mà
trước hết là người cán bộ Đảng viên, cần phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng nêu cao tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh..
III.1. Thứ nhất, nói đi đơi với làm nêu gương về đạo đức.
Nói đi đơi với làm là một truyền thống, một chuẩn mực hành vi đạo
đức của dân tộc Việt Nam. Nói đi đơi với làm xa lạ với lối sống nói
sng, nói nhiều làm ít “làm láo báo cáo thì hay” thậm chí “nói một
đường làm một nẻo”. Theo Hồ Chí Minh ở phương Đơng “một tấm gương
sáng cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tun truyền”. Nói khơng đi
đơi với làm là vì “cái tâm” mình khơng chính, nói nhiều làm ít, nói một
đường làm một nẻo là “những cán bộ dở”, cán bộ thiếu cái tâm là cán bộ
dở, cán bộ thiếu cái tâm là một điều nguy hại của Đảng cầm quyền. Vì
vậy, nói đi đơi với làm lý thuyết phải đi đôi với thực hành, lý luận phải
gắn với thực tiễn.
Cuộc sống chính là nguyên tắc nhất quán một giá trị đạo đức của
người cán bộ cách mạnh chân chính. Do đó, Hồ Chí Minh u cầu người
cán bộ phải thực hiện lời nói đi đơi với việc làm. Đây là một trong những
đặc trưng nổi bật về phong cách làm việc của người cán bộ cách mạng.
Mối quan hệ giữa nói đi đơi với làm thể hiện ở nhiều cấp độ khác
nhau, trước hết là “miệng nói tay làm mới được” cấp độ cao hơn nữa là
mình phải làm trước, làm nhiều, làm gương “muốn hướng dẫn nhân dân
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Nói đi đơi với làm của
người cán bộ là làm sao cho dân tin, dân yêu, dân phục một thái độ “tâm
phục, khẩu phục” thật sự qua lời nói và việc làm của người cán bộ. Nói đi


đôi với làm là đạo làm gương, một phẩm chất, một giá trị đạo đức thực
tiễn của người cán bộ.

Hồ Chí Minh cho rằng nói khơng đi đơi với làm chỉ nói sng là
đạo đức giả “đứng chỉ tay năm ngón là đồng bào khơng tin, cho là quan
liêu” nó đối lập với bản chất của đạo đức mới. Người yêu cầu cán bộ phải
thống nhất giữa nói và làm, tư tưởng phải chuyển hóa thành hành động cụ
thể, hồn thành nhiệm vụ, thực hiện nhiệm vụ lý tưởng cao cả của Đảng
và nhân dân giao phó. Vì vậy, có thể nói trong hoạt động “kết hợp lý luận
với thực tiễn”; “biết với làm”; “lời nói đi đơi với hành động”… là một đặc
trưng của phong cách, phương pháp, tác phong Hồ Chí Minh.
III.2. Thứ hai, xây đi đơi với chống, phải tạo thành phong trào
quần chúng rộng rãi.
Xây là xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chống là chống sự vi phạm đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,
chống tư tưởng vụ lợi ích kỉ “gầy người béo mình”. Hồ Chí Minh cho
rằng, người cán bộ cách mạng không ngừng “nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” vì “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm
thứ xấu…” Người nhấn mạnh “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian
giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc và thế mà càng
nguy hiểm”. Vì vậy, người cán bộ cách mạng phải gọt rủa chủ nghĩa cá
nhân, cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân một cách mạnh mẽ và thường
xuyên.
Hiện nay khi đất nước xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng một bộ phận không nhỏ cán
bộ, Đảng viên đang nặng chủ nghĩa cá nhân, xa rời lợi ích của Đảng của
nhân dân, lợi dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích cá nhân, gia đình, khu
biệt lợi ích bộ phận. Biểu hiện về sự suy thoái đạo đức nổi bật nhất của
một bộ phận cán bộ, Đảng viên hiện nay là nạn quan liêu, tham nhũng, hối


lộ, lãng phí của cơng, ăn chơi xa đọa, chạy theo lối sống thực dụng đang
diễn ra phổ biến. Như Đảng đã nhận định, tham nhũng, lãng phí là “’giặc

nội xâm” trái với bản chất của Đảng, làm giảm niềm tin của Đảng trong
nhân dân. Vì vậy, trách nhiệm của người cán bộ, Đảng viên phải nêu cao
đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” kiên quyết
đấu tranh lối sống chủ nghĩa cá nhân, quyets sạch tệ tham nhũng, làm cho
Đảng thật sự trong sạch.
III.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
“Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, khơng có đạo đức thì có tài mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”. Người nhấn mạnh: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán
bộ cs thấm nhuần đạo đức cách mạng hay khơng”.
Theo Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi
xuống mà do con người đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển củng cố một cách thường xuyên, cũng như “ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”. Vì vậy, việc rền luyện dạo đức phải
thực sự tự giác và rèn luyện suốt đời ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hồn cảnh cụ
thể khơng được nhụt chí, khơng chút lơi là cho dù có bất cứ hồn cảnh nào
chi phối. Hồ Chí Minh cho rằng “ tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân
ví như lúa với cỏ dại, lúa phải chăm bón rất khó nhọc mới tốt được cịn cỏ
dại khơng cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn
luyện gian khổ mới có được, cịn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại
sinh sơi nảy nở rất dễ”. Vì thế phải luôn luôn rèn luyện tư tưởng là rèn
luyenj đạo đức; phải ln tự phê bình và tiếp nhận những ý kiến phê bình
đúng đắn của quần chúng nhân dân, của người tiến bộ chung quanh để
“làm cho phần tốt trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu
mất đi”.


Có thể khẳng định, tư tưởng đạo đức và tấm gương rèn luyện đạo
đức cách mạng của Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng kim chỉ
nam cho mọi hành động đối với mọi người Việt Nam, nhất là đội ngũ cán

bộ, Đảng viên. Trong sự nghiệp

IV.

Vận dụng tư tưởng vào xây dựng đạo đức, lối sống của
sinh viên hiện nay.

4.1.
Ý thức đạo đức của sinh viên Việt nam hiện nay cũng có những biến
đổi nhất định. Biểu hiện những biến đổi trong ý thức đạo đức của họ cho thấy:
một mặt, có sự tiếp thu những đặc điểm mới của thời đại, mặt khác, có q
trình kế thừa và phát triển truyền thống đạo đức của dân tộc cũng như truyền
thống đạo đức cách mạng của học sinh, sinh viên Việt Nam trong điều kiện
mới.
Hầu hết sinh viên ngày nay kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
tốt đẹp của dân tộc, có lối sống lành mạnh, trung thực, đồn kết, nhân ái và có
tinh thần cộng đồng; có động cơ học tập nghiêm túc và tích cực, chủ động
trong học tập, nghiên cứu khoa học, tích lũy kiến thức, rèn luyện kỹ năng
nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.Sinh viên hiện
nay năng động, thực tế hơn, tự chủ, bộc lộ rõ cá tính, quan niệm đạo đức của
sinh viên hiện nay ít bị ràng buộc bởi dư luận hơn so với các thế hệ sinh viên
trước.Tuy nhiên, một bộ phận sinh viên thực dụng trong quan niệm đạo đức
và hành vi ứng xử, muốn thể hiện vai trò cá nhân và đề cao các giá trị vật chất
hơn những giá trị tinh thần một số sinh viên có thái độ thờ ơ, vô cảm, thiếu
trách nhiệm đạo đức đến bản thân, gia đình, xã hội; xa rời các giá trị đạo đức
tốt đẹp của dân tộc, sống buông thả, tự đặt mình ra khỏi những ngun tắc, có
lối hành xử bạo lực phi nhân tính, lười học tập, lười lao động.


4.1. Tầm quan trọng

Gần 50 năm đã qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản "Di
chúc" căn dặn toàn Đảng, toàn dân và thế hệ trẻ những điều hệ trọng,
những việc cần phải làm vì sự nghiệp cách mạng. Những lời dặn của
Người trong đó có tư tưởng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vẫn
giữ nguyên giá trị to lớn, có ý nghĩa sâu sắc.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng. Đó khơng chỉ là lực lượng
trực tiếp gánh vác và giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà cịn là đội
ngũ kế cận, nguồn bổ sung có đủ năng lực để kế thừa và tiếp tục phát triển
sự nghiệp của những thế hệ đi trước. Trong 'Di chúc', Người nhắc nhở
tồn Đảng, tồn dân phải ln ghi nhớ rằng, 'Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết'(1). Luận điểm đó
chứa đựng thế giới quan khoa học của một lãnh tụ cách mạng, phản ánh
tầm nhìn xa trơng rộng của một nhà hiền triết, một nhà văn hóa lớn; nó đã
trở thành một chân lý của cách mạng.
Sự nghiệp đấu tranh cách mạng nhằm biến xã hội cũ xấu xa, bất
cơng và phi nhân tính thành một xã hội mới, tốt đẹp và công bằng cho tất
cả mọi người là một quá trình đầy cam go, thử thách. Trong 'Nhà nước và
cách mạng', khi đề cập đến tính chất phức tạp của những nhiệm vụ cách
mạng, chẳng hạn như vấn đề chính quyền, V.I.Lênin từng nói rằng, đấu
tranh giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền cách mạng
cịn khó hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, có độc lập, tự do
mà nhân dân vẫn chết đói, chết rét thì độc lập, tự do cũng chẳng có ý
nghĩa gì; nhân dân chỉ hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do khi họ được ăn no,
mặc ấm... Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân tất thảy
những quyền con người hết sức tự nhiên và chân chính ấy. Nhưng, chủ


nghĩa xã hội khơng phải muốn là tức khắc có ngay, mà chỉ có thể là kết
quả của cuộc đấu tranh rất bền bỉ của con người.

Nhắc lại những điều đó để thấy, sự nghiệp cách mạng là một q
trình lâu dài, bao gồm nhiều nhiệm vụ, nhiều giai đoạn khác nhau và do
vậy, đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến quên mình của nhiều thế hệ cách mạng.
Thực vậy, trong tiến trình ấy, những lớp người hiện tại đã trực tiếp giải
quyết thành công nhiều nhiệm vụ, nhưng cũng có khơng ít cơng việc cịn
dang dở; hơn nữa, thực tiễn cuộc sống luôn đặt ra những vấn đề mới địi
hỏi phải tiếp tục giải quyết. Theo đó, nếu thiếu lực lượng kế cận xứng
đáng thì chẳng những sự nghiệp cách mạng sẽ gặp khó khăn, mà ngay cả
những gì đã có cũng khó được gìn giữ, bảo tồn.
Tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau thể hiện sự vĩ
đại, sâu sắc trong tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với tư tưởng này,
Người khơng chỉ thấy hiện tại mà còn thấy cả tương lai; không chỉ dành
tâm huyết trước mắt cho sự nghiệp cách mạng mà còn chăm lo vun trồng
cái gốc của sự nghiệp đó để nó trở nên vững bền. ở đây, quan điểm biện
chứng duy vật về sự phát triển mà Người tiếp thu từ chủ nghĩa Mác Lênin được vận dụng một cách sáng tạo: tương lai đang ở ngay trong hiện
tại.
Đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh viết: 'Một năm khởi
đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của
xã hội'(2). Đầy nhiệt huyết, có sức sống tràn trề và năng lực sáng tạo..., đó
là thế mạnh, là vốn quý của tuổi trẻ. Với tư cách là đội ngũ dự bị, lực
lượng kế cận hùng hậu của cách mạng và là những người chủ tương lai
của nước nhà, các thế hệ trẻ - trước hết là thanh niên, có trách nhiệm kế
tục sự nghiệp cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà lớp người
đi trước đã chuyển giao vào tay mình. Coi vận mệnh của nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên, Hồ Chí Minh


khẳng định, thanh niên phải trở thành một lực lượng to lớn, vững chắc
trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, phải 'là người tiếp sức cách
mạng cho thế hệ thanh niên già,... là người xung phong trong công cuộc

phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội'.
Sinh ra và lớn lên trong lịng dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh có lịng tin mãnh liệt vào sức mạnh vô địch cũng
như năng lực sáng tạo phi thường của quần chúng nhân dân, trong đó có
thế hệ trẻ. Thế hệ trẻ nói chung và trẻ em nói riêng ln ở trong trái tim và
tâm trí của Người. Lúc nào Người cũng dành mn vàn tình thương u
cho các thế hệ trẻ. Hơn thế nữa, Người còn gửi gắm niềm tin khi đặt trọn
tương lai của cách mạng, của dân tộc vào họ. Nhân ngày khai trường của
năm học đầu tiên dưới chế độ mới, Người đã gửi thư khích lệ và động
viên học sinh cả nước: 'ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà
tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước
khác trên hoàn cầu. Trong cơng cuộc kiến thiết đó, nước nhà trơng mong
chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công
học tập của các em'.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định, như một lơ-gíc tất yếu,
việc 'bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau' là nhiệm vụ rất quan trọng
và rất cần thiết.
4.2. Biện pháp
Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình, kết hợp với lý
luận cách mạng, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ rằng,
một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Do vậy, ngay từ những ngày đầu mới
thành lập chính quyền cách mạng, Người đã coi việc xóa mù chữ, tiêu diệt
giặc dốt và nâng cao dân trí là nhiệm vụ thứ hai trong số sáu nhiệm vụ cấp


bách của đất nước lúc bấy giờ. Đặc biệt, Người đã đưa ra một quan điểm
vừa mang tính chiến lược, vừa mang giá trị nhân văn sâu sắc mà đến nay,
đã trở thành phương châm hành động của toàn xã hội nói chung, của

ngành giáo dục Việt Nam nói riêng: 'Vì lợi ích mười năm thì phải trồng
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người'. Bởi vậy, dù bận trăm cơng
nghìn việc, Người vẫn thường xun quan tâm và chăm lo sự nghiệp giáo
dục của nước nhà, coi giáo dục xã hội chủ nghĩa là phương thức quan
trọng nhất của sự nghiệp 'trồng người', là một mắt xích không thể thiếu
trong chiến lược bồi dưỡng thế hệ trẻ. Nói cách khác, trọng trách to lớn
của ngành giáo dục là đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng.
Vì vậy, theo Người, dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy
tốt và học tốt; các ngành, các cấp Đảng và chính quyền địa phương phải
quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi
mặt, nhằm đẩy sự nghiệp giáo dục của nước ta lên những bước phát triển
mới. Có thể nói, 'trồng người' là một tư tưởng có ý nghĩa to lớn, bởi đó là
kế lâu bền để phát triển đất nước. Ngày nay, khi con người được coi là
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, chúng ta càng cảm nhận thấy chiều sâu trong tư tưởng đó
của Người.
Đối với sinh viên và học sinh, để xứng đáng là thế hệ cách mạng
của đời sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh địi hỏi họ phải ra sức học tập: học tập
trong nhà trường, trong gia đình và ngồi xã hội; học tập qua sách vở và
từ chính thực tiễn cuộc sống. Học không phải để 'làm quan' như trong xã
hội cũ, mà là 'Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân
giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà'.
Một trong những triết lý sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học
phải đi đơi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn. Vì vậy, bên cạnh quan
điểm xác định giáo dục, học tập như một phương thức chủ yếu để bồi



×