Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Quan điểm hồ chí minh về vai trò, lực lượng, điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc và phương hướng vận dụng vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.02 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................2
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC.................................................................................................2
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc..........................................................................................................2
1.1.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng
của dân...............................................................................................2
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng......................................................................3
1.1.3. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các
phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới.....................................3
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị, lực lượng và điều kiện
thực hiện đại đồn kết dân tộc...........................................................4
1.2.1. Vai trị của việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc......................4
1.2.2. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc................................6
1.2.3. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc................................9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
.................................................................................................................12
2.1. Thực trạng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết
hợp với sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay.......................12
2.1.1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh.........................................................................12

i


2.1.2. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế, nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân


tộc....................................................................................................13
2.2. Một số thành tựu và hạn chế trong công tác đại đoàn kết dân
tộc tại nước ta hiện nay.....................................................................16
2.1.1. Điểm đạt được trong cơng tác đại đồn kết dân tộc..............16
2.1.2. Những tồn tại trong cơng tác đại đồn kết dân tộc................17
2.3. Phương hướng vận dụng vào xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở Việt Nam hiện nay....................................................................18
2.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao khối đại đoàn kết toàn dân
tộc....................................................................................................18
2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước...19
2.3.3. Giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội;...................................................................................................19
2.3.4. Tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà
nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.............20
KẾT LUẬN................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................22

ii


MỞ ĐẦU
Hồ Chí minh, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới,
người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng cộng sản Việt nam. Toàn bộ
cuộc đời của Người dành cho sự nghiệp cách mạng Việt nam. Trong số các
di sản Người để lại cho dân tộc ta có đại đồn kết - một tư tưởng nổi bật,
bao trùm, xuyên suốt, nhất quán cả trong tư duy lý luận và thực tiễn của
Người.
Tư tưởng Đại đoàn kết đã trở thành tình cảm, suy nghĩ của mọi người Việt
nam yêu nước, là sợi dây liên kết cả dân tộc và tạo nên sức mạnh to lớn,
đưa tới thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc

Việt Nam độc lập hoàn toàn, đất nước Việt Nam thống nhất trọn vẹn năm
1975.
Tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh, minh chứng rõ rằng : khi nào Đảng
ta, dân tộc ta đồn kết một lịng, thực hiện triệt để tư tưởng Đại đồn kết
của Người, thì cách mạng lúc đó thuận lợi, thu được nhiều thắng lợi.
Ngược lại lúc nào, nơi nào dân ta vi phạm đoàn kết, xa rời tư tưởng đại
đồn kết Hồ Chí Minh, thì lúc đó nơi đó cách mạng gặp nhiều khó khăn,
thậm chí tổn thất.
Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
Cách mạng nước ta đang trên đường đổi mới , với nhiều thách thức đặt ra.
Chỉ có thể huy động sức mạnh đại đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh
chúng ta mới đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng dân
giàu nước mạnh , xã hội cơng bằng văn minh, dân chủ. Vì vậy, việc hiểu rõ
và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới
hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa hết sức to lớn. Đó là lý do
tác giả chọn đề tài : “Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị, lực lượng, điều

1


kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc và phương hướng vận dụng vào xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay"

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC

1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc được hình thành từ
những cơ sở quan trọng sau đây:
1.1.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân
tộc Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần
yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết
dân tộc của dân tộc Việt Nam đã được hình thành và củng cố, tạo thành
một truyền thống bền vững. Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước- nhân
nghĩa- đồn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên, in đậm dấu ấn trong
cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình làng xã - quốc gia. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đã có rất nhiều
chuyện cổ tích, ca dao, ngạn ngữ ca ngợi truyền thống đồn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền
thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định:
"Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua
mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước"
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc
Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết dân tộc.

3


1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vơ sản muốn thực

hiện được vai trị lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh
công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa MácLênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I.
Lênin cho rằng, sự liên minh giai cấp, trước hết là liên minh công nông là
hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản, rằng nếu
khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ
tiên phong của nó, tức giai cấp vơ sản, thì cách mạng vô sản không thể thực
hiện được.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin khơng những đã chỉ ra vai trị của quần
chúng nhân dân trong lịch sử mà cịn chỉ ra vị trí của khối liên minh công
nông trong cách mạng vô sản. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần
thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố
tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư
tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các
nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng của Người về
đại đoàn kết dân tộc.
1.1.3. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong
trào cách mạng Việt Nam và thế giới
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí
Minh đã luônchú ý nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào
yêu nước Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới,
nhất là phong trào giải phóng dân tộcở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ
Chí Minh đã nghiên cứu những bài học của cuộcCách mạng Tháng Mười.
Những là bài học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúngcông nông
4


đơng đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng, để xây dựng chế độ xã
hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của việc đồn
kết, tập hợp lựclượng cách mạng, trước hết là cơng nông.

Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc,
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và ấn Độ là hai nước có thể
đem lại cho Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu
nước tiến bộ để tiến hành cách mạng.
Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong
trào dân tộc dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết dân tộc.
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị, lực lượng và điều kiện thực
hiện đại đồn kết dân tộc
1.2.1. Vai trò của việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành cơng của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời
đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần u nước
thì chưa đủ; cách mạng muốn thành cơng và thành công đến nơi, phải tập
hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đồn
kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn
kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài,
xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết tồn dân, cần
phải có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ
khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp có thể và cần thiết phải điều
chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, đoàn kết dân tộc phải

5


ln ln được nhận thức là vấn đề sống cịn, quyết định thành bại của

cách mạng.
Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để thực
hiện đoàn kết dân tộc. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt trận đúng
đắn. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cơng khối đại
đồn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam dành được nhiều thắng lợi to
lớn. Hồ Chí Minh viết: "Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã
làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa; Đồn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến
thắng lợi, lập lại hịa bình ở Đơng Dương, hồn tồn giải phóng miền Bắc;
Đồn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được
thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc".
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng
là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này
là nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn
thành cơng nếu chỉ có đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở của đường
lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương
pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp
quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại
đồn kết dân tộc, Hồ Chí Minh cịn chỉ ra rằng, đại đồn kết dân tộc khơng
phải chỉ là mục tiêu của Đảng, mà cịn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân
tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì
quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã
hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng
Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng,
chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng
thành những địi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn
6



kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
1.2.2. Lực lượng của khối đại đồn kết dân tộc
Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc là tồn
dân trong đó lấy liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân
và đội ngũ trí thức làm nền tảng.
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ông:
“Nước lấy dân làm gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý mác xít “Cách
mạng là ngày hội của quần chúng”, Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh và cái
cẩm nang thần kì của cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước ở lực lượng vô địch của nhân dân: “Trong bầu trời khơng có gì
q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn
kết của nhân dân”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân, nhân dân có một nội
hàm rất rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ tất cả mọi công dân của
nước Việt Nam, những người được gọi là “con Lạc cháu Hồng”. Tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc của Người là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các
giai cấp, các chính đảng, đồn thể, các dân tộc, tơn giáo, kể cả những người
trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa
của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở
rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ.
Ngun tắc đồn kết rộng rãi được dựa trên điểm tương đồng là: “Bất kỳ ai
mà thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những
người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đồn kết
với họ”. “Ai có tài, có sức, có đức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ
nhân dân thì ta đồn kết với họ”...
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy
lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm
nền tảng, kết hợp hài hồ lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và toàn
cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế. Nền tảng của khối đại đoàn
7



kết dân tộc tiếp tục được khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”, và sau này Người bổ sung
thêm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa cơng nhân,
nơng dân với trí thức: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trị quan trọng và vẻ
vang; và cơng, nơng, trí cần phải đồn kết chặt chẽ thành một khối”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln có sự kết hợp hài hịa,
quyện chặt và nhất quán giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Đoàn kết
dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công nông làm gốc, không một lúc nào
quên đi lợi ích giai cấp song Người cũng có một tư duy vượt trước khi
khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của cách mạng Việt
Nam.
Theo Người, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chỉ được phát
huy khi tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Cả dân tộc hay tồn dân chỉ có thể tạo nên một sức mạnh to lớn, trở
thành lực lượng vô địch khi được tổ chức thành một khối chặt chẽ, được
giác ngộ sâu sắc về mục tiêu lý tưởng, được định hướng bởi một đường lối
chính trị đúng đắn, nếu khơng thì dù quần chúng nhân dân có số đơng tới
hàng triệu người cũng chỉ là một số đơng khơng có sức mạnh, rời rạc.
Ngay từ khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đã rất lưu ý tới công tác tập hợp quần chúng, đưa họ vào những tổ
chức yêu nước phù hợp với đặc điểm của từng giới, lứa tuổi, giai cấp, tôn
giáo... Bao trùm tất cả là tư tưởng muốn thu nạp được đông đảo các tầng
lớp nhân dân vào Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận cần thu nạp được
đông đảo quần chúng nhân dân, những người ít nhiều có tinh thần yêu
nước, Mặt trận cần là một tổ chức rộng rãi. Rộng rãi nhằm thực hiện đoàn
kết được nhiều tổ chức, nhiều lực lượng không phân biệt giàu nghèo, đảng

phái, xu hướng chính trị... Người nói: “Mặt trận bao gồm tất cả những
8


người u nước, khơng phân biệt khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng, tơn
giáo, giai cấp xã hội, nam nữ và tuổi tác”. Do đó Mặt trận khơng chỉ thu
hút được mọi tầng lớp lao động nghèo khổ, bị áp bức, mà cịn thu hút được
cả tầng lớp trên khơng thuộc nhân dân lao động và một bộ phận phân hóa
trong hàng ngũ của kẻ thù. Trong Mặt trận, xương sống và sức mạnh chủ
yếu của khối đại đoàn kết là khối liên minh cơng nơng làm nền tảng, Người
nói: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên
liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”.
Mối quan hệ giữa Mặt trận với liên minh công nông phản ánh về mặt
tổ chức xã hội mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Trong đó,
tách biệt hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của Mặt trận hoặc liên minh
công nông đều không đúng với biện chứng của đời sống cách mạng, khơng
đúng với ngun tắc đồn kết của Người. Tuyệt đối hóa vai trị, vị trí của
liên minh cơng nơng, hạ thấp vai trị của Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan, “tả
khuynh” và bệnh cô lập, hẹp hòi. Ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một chiều
vai trò của Mặt trận, xem nhẹ liên minh công nông sẽ dẫn tới hữu khuynh,
vơ chính phủ. Người từng nói rằng: “Trong chính sách đồn kết cần phải
chống hai khuynh hướng sai lầm: cơ độc, hẹp hịi và đồn kết vơ nguyên
tắc”.
Trong lực lượng phong phú của Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam
được xác định là một thành viên, bởi Đảng là bộ phận ưu tú nhất của giai
cấp công nhân. Tuy nhiên, Đảng không phải là một thành viên bình thường,
mà là người lãnh đạo của khối đại đồn kết toàn dân. Một trong những
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là tuyên truyền, giáo dục để quần chúng giác
ngộ sự cần thiết phải đoàn kết lại; chọn lựa những hình thức, phương pháp
tổ chức thích hợp để có thể thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước, tiến bộ

trong dân chúng; hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao động
sáng tạo theo những mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích thiêng liêng
của dân tộc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Người cũng nhấn
9


mạnh quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà
phải được nhân dân thừa nhận: “Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa
nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác
hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng
lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đồn kết dân tộc là
tồn dân, trong đó lấy liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức làm nền
tảng được tập hợp trong một Mặt trận thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Thực tiễn đã trả lời chỉ trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc này, đại đồn
kết dân tộc mới có sức sống bền vững và trường tồn.
1.2.3. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Thứ nhất, phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của
quốc gia, dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp
khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả
các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền
lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay khơng cịn phụ thuộc
vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đồn kết hay khơng và việc nhận
thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào.
Ngun tắc đại đồn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân
trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất
những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những
yếu tố của đồn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy

tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền
và tồn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là
ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của
cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ
10


Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện ngun tắc đó
trong chiến lược đại đồn kết dân tộc của mình.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha
ta được Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin
tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân,
phải đánh giá đúng vai trị của lực lượng nhân dân. Người viết “Có lực
lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Khơng có
thì việc gì làm cũng khơng xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề
một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những
đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”.
Thứ ba, đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đồn kết
lâu dài, chặt chẽ
Theo Hồ Chí Minh, có đồn kết mới tạo nên sức mạnh của cách
mạng. Muốn đồn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì
vận động, tổ chức dân chúng, ngồi thì liên minh với các dân tộc bị áp bức
và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng,
điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ
tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ

mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về
chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai trị đó, thì phải giữ vững bản chất
của giai cấp công nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính,
khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nói “Để làm
trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp
công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết
các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng cố
được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
11


Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực
lượng xã hội có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt
mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết
dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt
Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới.
Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc
đấu tranh tự giải phóng mình là mục tiêu nhất qn của Hồ Chí Minh.
Thứ tư, đại đồn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết phải
gắn với tự phê bình và phê bình
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những
điểm tương đồng cịn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo
con đường đối thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố
tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề
này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”,
mặt khác, Người nêu rõ "Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để
tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đồn
kết xi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương
mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết. Đồn kết thật sự
nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đồn kết

thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của
nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái,
vì nước, vì dân”.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận
dân tộc thống nhất ln đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hịi, một chiều,
chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được,
đồng thời chống khuynh huớng đồn kết mà khơng có đấu tranh đúng mức
trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích
cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì
trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
12


Hồ Chí Minh cũng chỉ ra phương thức thực hiện đại đồn kết dân
tộc, đó là phải biết áp dụng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục,
thuyết phục, nghĩa là đồn kết phải trên cơ sở tự nguyện, khơng thể áp đặt,
ép buộc. Vì vậy phải tuyên truyền, vận động làm cho mọi người nhận thức
được sự cần thiết phải đoàn kết để họ tự nguyện, tự giác tham gia vào một
tổ chức đoàn thể trong khối đại đoàn kết. Trong tuyên truyền, vận động,
giáo dục phải phản ánh đúng nguyện vọng sâu xa và những quyền lợi cơ
bản, chung nhất của toàn thể dân tộc; phản ánh nguyện vọng, quyền lợi
riêng phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, từng cộng đồng xã hội cụ thể.
Phải nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, giản dị nhưng vẫn rất sâu sắc, sử dụng
biện pháp nêu gương, kết hợp giữa lời nói và việc làm.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC
2.1. Thực trạng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp
với sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay
2.1.1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư

tưởng Hồ Chí Minh
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, địi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao
độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đồn kết tồn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế- xã hội, giữ vững ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Tuy nhiên,
trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của
nhân dân thì việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ

13


chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực
doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, ở một số vùng có đơng đồng bào theo
đạo, đồng bào dân tộc thiểu số...
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
việc xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý
những vấn đề sau đây:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương

đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần,
giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương
lai.
Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp
hài hịa các lợi ích cá nhân - tập thể - toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn với
giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; khơng ngừng bồi
dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó là những yếu tố
quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
14


2.1.2. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc
Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, tiến hành đổi mới, toàn diện đất nước, Đảng ta đã vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Tuy
nhiên, trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ
giữ nước sang thời kỳ dựng nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang
đòi hỏi những nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực này. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế quốc
tế, một loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:
- Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất phát từ
lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát

triển đất nước. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự
cường dân tộc, trong chính sách đại đồn kết, phải chú ý phát huy tính năng
động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản
xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu
quả ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của
kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh khơng
lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đồn kết, tình nghĩa tương thân,
tương ái của dân tộc và của Đảng.
- Điều quan trọng để phát huy nội lực dân tộc, phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay là phải xây dựng được hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ
nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết
lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải
quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được yên. Phải tiếp tục
đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng việc xây
15


dựng Mặt trận, đổi mới, hồn thiện chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo,
chính sách đối với cơng nhân, với nơng dân, với trí thức, chính sách đối với
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi, chính sách đối với các thành
phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, tồn
cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực dân tộc còn đòi
hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời
phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm

thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta
là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế, vì hịa bình, hợp tác và phát triển.
Trong tình hình thế giới hiện nay, địi hỏi chúng ta phải có những
chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử
thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ
vững bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy bài
học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, phải nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không
thể tách rời của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong
trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục
tiêu hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc
lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân
tộc- sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức

16


mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và
tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngồi.
2.2. Một số thành tựu và hạn chế trong công tác đại đoàn kết dân tộc
tại nước ta hiện nay
2.1.1. Điểm đạt được trong cơng tác đại đồn kết dân tộc
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ và thách
thức mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà
toàn Đảng, toàn dân đạt được qua gần 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước chính là kết quả của sự đồn kết thống nhất của toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và
vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn
biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn
đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch ln
tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ
nội bộ, gây mất đồn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đồn kết và
thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết
trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là
một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm
quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có
như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn
kết xung quanh Đảng. Đồn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ
thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh và tình hình hiện nay, những nhân tố gây mất
đồn kết thống nhất trong Đảng vẫn tồn tại và không ngừng tạo ra thách
thức. Thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên cịn nói khơng đi
đơi với làm; bề ngồi thì tỏ ra đồn kết, nhưng bên trong thì kết bè kéo
cánh, cục bộ địa phương, lợi ích nhóm...

17


Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội
bộ”, Đảng chỉ rõ: “Tình hình mâu thuẫn, mất đồn kết nội bộ không chỉ ở
cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng cơng
ty”... Đó là chưa kể, các thế lực thù địch, phản động, phá hoại vẫn tìm đủ
mọi cách gây mất đoàn kết, làm chia rẽ trong Đảng. Đây là thực tế đòi hỏi

các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên phải quan tâm tiếp tục có những giải
pháp rèn luyện, giữ gìn, bồi đắp đồn kết thống nhất.
2.1.2. Những tồn tại trong cơng tác đại đồn kết dân tộc
Tuy nhiên, bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động
của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao
có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức đảng có biểu
hiện mất đồn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình
thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau.
Trong Đảng cũng đã xuất hiện những xu hướng, những biểu hiện mất
đoàn kết, đồn kết xi chiều (thực chất cũng là khơng đồn kết) ngấm
ngầm phát sinh, phát triển mà khó phát hiện và ngăn chặn. Đó là sự bất
đồng quan điểm, thiếu dân chủ trong thảo luận và quyết định các vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền của cấp ủy các cấp; bè cánh, “lợi ích nhóm”,
“tư duy nhiệm kỳ”, cục bộ địa phương ngay trong việc ban hành, tổ chức
thực hiện các quyết sách.
Đồn kết chỉ thực sự có kết quả khi phát huy được vai trị của cơng
tác tự phê bình và phê bình nhưng trong nhiều trường hợp, quy luật tự phê
bình và phê bình khơng mấy tác dụng. Tình trạng nể nang, né tránh, ngại va
chạm, “dĩ hòa, vi quý” khá phổ biến ở nhiều tổ chức đảng hiện nay. Tình
trạng tham nhũng chậm được ngăn chặn cũng làm cho phân liệt ngay trong
chính đội ngũ đảng viên của Đảng khi nhiều đảng viên có chức quyền giàu
18



×