Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Quan điểm hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc vận dụng vào thực hiện chính sách đại đoàn kết tôn giáo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.61 KB, 24 trang )

MỤC LỤ
PHẦN I: MỞ ĐẦU......................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu..........................................................................2
3. Phương pháp luận..............................................................................2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC.................................................................................................3
1.1.

Về mặt lí luận.............................................................................3

1.2. Về mặt thực tiễn.............................................................................5
1.3. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức
mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay..................................................7
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐẠI ĐỒN KẾT TƠN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY......................10
2.1. Thực trạng việc vận dụng và thực hiện chính sách đồn kết tơn
giáo ở nước ta hiện nay.......................................................................10
2.2. Những thành tựu và khó khăn trong quá trình thực hiện chính
sách đại đồn kết tơn giáo...................................................................14
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
đại đồn kết dân tộc và tơn giáo..........................................................17
PHẦN III: KẾT LUẬN.............................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................22

i


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Hồ Chí Minh, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà chính trị quân sự lỗi lạc, tài ba, một người con xuất sắc của dân tộc Việt Nam, đã để
lại cho dân tộc ta, cho toàn nhân loại một kho tàng lí luận vơ giá. Đó là hệ
tư tưởng Hồ Chí Minh - ngọn đuốc soi đường, kim chỉ nam cho mọi hành
động đưa con thuyền dân tộc tới bến bờ thắng lọi trong cơng cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Trong hệ tư tưởng ấy, tư tưởng về
đại đồn kết dân tộc có giá trị lí luận và giá trị thực tiễn hét sức quan trọng.
Nó là một trong những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của Cách
mạng Việt Nam.
Cùng với đó, đồn kết tơn giáo và tự do tín ngưỡng là quan điểm cơ
bản và cũng là nội dung chủ yếu của chính sách đối với tơn giáo của Ðảng
và Nhà nước ta. Chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Ðộc lập ở Quảng
trường Ba Ðình (ngày 2-9-1945), trong buổi chủ tọa phiên họp đầu tiên của
Chính phủ mới thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ
tun bố "tín ngưỡng tự do, lương giáo đồn kết". Từ đó đến nay, quan
điểm ấy của Người đã trở thành định hướng chung cho việc hoạch định và
thực thi chính sách đối với tơn giáo của Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong
mọi thời kỳ cách mạng.
Vì lẽ sinh tồn, ngay từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc, ông cha ta
đã thường xuyên phải đấu tranh chinh phục thiên nhiên và sau đó chiến đấu
chống ngoại xâm. Chính điều đó đã sớm cố kết mọi người lại với nhau
thành một truyền thống quý báu- truyền thống đoàn kết dân tộc. Giá trị
truyền thống đó đã thấm sâu và kết tinh trong mỗi người Việt Nam. Đó là
lý do tác giả chọn đề tài : “Quan điểm Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc. Vận dụng vào thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở nước ta
hiện nay"


2. Mục tiêu nghiên cứu
Đưa ra cơ sở lý luận về vấn đề đại đoàn kết dân tộc và thực tiễn vận
dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc và thực hiện

chính sách đại đồn kết tơn giáo. Từ đó đưa ra một số giải pháp hữu hiệu
nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng chính sách về đại đoàn kết dân tộc.
3. Phương pháp luận
Về phương pháp luận, tiểu luận sử dụng những phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu được sử
dụng trong đề tài này bao gồm phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích tổng hợp và đối chiếu.


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN
KẾT DÂN TỘC
1.1.

Về mặt lí luận

1.1.1. Kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố
kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam
Giá trị truyền thống bao gồm chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đấu
tranh anh dũng cho độc lập, tự do, tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương
thân tương ái, vị tha của dân tộc và ý thức tự lực, tự cường. Đất nước ta,
một dải đất hẹp nằm trọn trong vành đai nhiệt đới gió mùa, quay mặt ra
biển Đơng, lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ. Do điều kiện địa lý, tự nhiên
và vị trí quan trọng của mảnh đất này, những cư dân người Việt từ thuở xa
xưa vừa được hưởng sự ưu đãi của đất trời, vừa phải đối mặt với những thử
thách khắc nghiệt của thiên tai, địch họa. Lịch sử dựng nước và giữ nước
diễn ra trên mảnh đất này là sự nối tiếp hàng ngàn năm những cuộc đấu
tranh không mệt mỏi chống hạn hán, bão lụt, chống chiến tranh xâm lược
của các thế lực nước ngồi. Từ trong cuộc tranh đấu trường kỳ đó đã sớm
nảy sinh và định hình ý thức cộng đồng, ý thức tập thể, và cao hơn là ý

thức dân tộc. Ý thức này ngấm vào máu thịt con người Việt Nam và được
trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để tạo thành truyền thống đoàn
kết, nhân nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước. Truyền thống ấy đã được
phản ánh trong kho tàng văn học dân gian với những câu ca dao, tục ngữ
thấm sâu vào linh hồn người Việt:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
hay:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.


Truyền thống quý báu ấy cũng được những anh hùng dân tộc ở các
thời kỳ lịch sử khách nhau như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung... đúc kết, nâng lên thành kinh nghiệm, thành phép đánh giặc,
giữ nước: "khoan thư sức dân làm kế gốc sâu rễ bén", trên dưới đồng lòng,
cả nước chung sức", "Tướng sĩ một lịng phụ tử"...
Khơng chỉ vậy, truyền thống ấy cũng được tiếp nối trong tư tưởng
tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp xâm lược và bọn phản động tay sai như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh. Đối với Hồ Chí Minh, hai cụ Phan là những bậc tiền bối
đáng kính, và những tư tưởng cứu nước, đặt biệt là tư tưởng tập hợp lực
lượng dân tộc, lực lượng quốc tế của hai cụ đã có ảnh hưởng đáng kể đến
quá trình đi tìm đường cứu nước và xây dựng đường lối cứu nước của
Người.
1.1.2. Hấp thu tinh hoa của văn hóa Đơng - Tây và tư tưởng tập hợp lực
lượng của các nhà Cách mạng lớn ở khu vực và trên thế giới
Sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho u nước, Hồ Chí Minh
sớm có điều kiện tiếp xúc với những giá trị văn hóa phương Đơng, trong đó
có những giá trị nhân bản của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Trong quá

trình tiếp xúc, Người tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho
giáo (như tư tưởng đại đồng, tư tưởng nhân ái, luân lí yêu thương) và Phật
giáo (tinh thần "Lục hòa" - sáu phương pháp cư xử nhằm tạo ra sự hòa hợp
từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm của chúng sinh nhằm đạt
tới mục đích cao đẹp). Bên cạnh đó, Người cũng đồng thời phê phán, loại
bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết đó, chẳng hạn như tư
tưởng phong kiến của Khổng Tử.
Là một người phương Đông, song cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh một thời gian dài lại gắn với mơi trường phương Tây, do vậy, Người
đã tiếp thu nhiều giá trị nhân bản trong nền văn hóa phương Tây, đặc biệt là
những hạt nhân hợp lý của tư tưởng bình đẳng, bác ái, tự do được ghi trên


lá cờ của các trào lưu tư tưởng phương Tây. Những tư tưởng nhân văn đó
đã được Hồ Chí Minh tiếp nhận ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường ở
quê hương và được Người tìm hiểu, kiểm chứng, sàng lọc trong suốt 35
năm bơn ba hải ngoại.
Có thể nói, Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự kết hợp hài hịa cốt
cách phương Đơng sâu lắng thâm trầm với phong cách khoáng đạt cởi mở
phương Tây.
1.1.3. Tiếp thu nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
Cơ sở lí luận quan trọng nhất đối với q trình hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở
thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn
của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với đồn kết quốc tế,...
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ
ra sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng
trong phạm vi từng nước và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong

cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Hồ Chí Minh đã sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin,
nhờ đó Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác các yếu tố tích
cực cũng như hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp
lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng
lớn trên thế giới, những bài học rút ra từ các cuộc cách mạng trước, từ đó,
hình thành và hồn chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Về mặt thực tiễn
1.2.1. Thực tiễn Việt Nam
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên


Thế đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, các thế hệ người Việt Nam yêu
nước đã nối tiếp nhau vùng dậy chống ngoại xâm. Song, do nhiều khó khăn
khách quan và hạn chế chủ quan, các phong trào yêu nước chống Pháp của
nhân dân ta đều lần lượt bị thất bại. Thực tiễn đó đã chứng tỏ rằng, vào thời
đại mới, muốn chiến thắng kẻ thù mới phải có sức mạnh đoàn kết tự giác
của cả dân tộc. Vận mệnh của đất nước phải địi hỏi phải có một lực lượng
lãnh đạo cách mạng mới, đề ra được một đường lối cách mạng đúng đắn,
phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại
mới, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và
thực dân xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì mới giành
được thắng lợi.
1.2.2. Thưc tiễn thế giới
Trong quá trình bơn ba ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu
các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp
và nhận thấy các cuộc cách mạng đó vẫn chỉ là cách mạng "khơng đến
nơi". Người tổng kết các cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và thấy
rõ: Các dân tộc thuộc địa chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đồn kết

lại, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức.
Nghiên cức Cách mạng tháng Mười Nga đã giúp Người hiểu sâu sắc
thế nào là một cuộc "cách mạng đến nơi", những bài học về huy động, tập
hợp lực lượng quần chúng cơng nơng để giành và giữ chính quyền cách
mạng, để chuẩn bị cho việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào con đường
cách mạng mới những năm sau này.
Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc,
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ. Đây là hai nước
đem lại cho Việt Nam nhiều bài học về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến
bộ để tiến hành cách mạng.


1.3. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức
mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay
1.3.1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, địi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao
độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế- xã hội, giữ vững ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Tuy nhiên,
trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của
nhân dân thì việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đồn thể, các tổ
chức xã hội cịn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực
doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, ở một số vùng có đơng đồng bào theo
đạo, đồng bào dân tộc thiểu số...

Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
việc xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý
những vấn đề sau đây:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương
đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần,
giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương
lai.
Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp
hài hịa các lợi ích cá nhân - tập thể - toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn với
giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; khơng ngừng bồi
dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó là những yếu tố
quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
1.3.2. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong quá
trình hội nhập quốc tế

Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, tiến hành đổi mới, toàn diện đất nước, Đảng ta đã vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Tuy
nhiên, trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ
giữ nước sang thời kỳ dựng nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang
đòi hỏi những nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực này. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế quốc
tế, một loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:
- Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất phát từ
lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát


triển đất nước. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự
cường dân tộc, trong chính sách đại đồn kết, phải chú ý phát huy tính năng
động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản
xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu
quả ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của
kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không
lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đồn kết, tình nghĩa tương thân,
tương ái của dân tộc và của Đảng.
- Điều quan trọng để phát huy nội lực dân tộc, phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay là phải xây dựng được hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ
nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết
lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải
quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được yên. Phải tiếp tục
đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng việc xây
dựng Mặt trận, đổi mới, hồn thiện chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo,

chính sách đối với cơng nhân, với nơng dân, với trí thức, chính sách đối với
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi, chính sách đối với các thành
phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, tồn
cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực dân tộc cịn địi
hỏi phải củng cố sự đồn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời
phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm
thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta


là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế, vì hịa bình, hợp tác và phát triển.
Trong tình hình thế giới hiện nay, địi hỏi chúng ta phải có những
chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử
thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ
vững bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy bài
học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, phải nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không
thể tách rời của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong
trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục
tiêu hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc
lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân
tộc- sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và

tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ĐẠI ĐỒN KẾT TƠN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng việc vận dụng và thực hiện chính sách đồn kết tơn
giáo ở nước ta hiện nay
Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, đồng thời chống lợi
dụng tơn giáo có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hiến pháp năm 1980
khẳng định: "Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc
khơng theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước". Ðiều 70, Hiến pháp năm 1992 quy


định: "Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi
thờ tự của các tín ngưỡng, tơn giáo được pháp luật bảo hộ. Khơng ai được
xâm phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để
làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước".
Ngồi các quy định trong Hiến pháp, quyền tự do tín ngưỡng và tơn
giáo cịn được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác của Nhà nước
Việt Nam như Luật Tổ chức Chính phủ, Bộ luật Dân sự hoặc trong các văn
bản dưới luật để hướng dẫn thực hiện nghiêm chỉnh quyền tự do tín ngưỡng
và tơn giáo trong thực tế.
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo được Ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa XI thơng qua ngày 18-6-2004, ngay ở Ðiều I đã ghi nhận: "Cơng dân
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào.
Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của công dân.
Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tơn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật. Cơng dân có tín ngưỡng, tơn giáo hoặc khơng có tín

ngưỡng, tơn giáo cũng như cơng dân có tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau
phải tôn trọng lẫn nhau".
Tuy nhiên, hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng có liên quan đến các mối
quan hệ xã hội, nên quyền tự do ấy nằm trong khuôn khổ của pháp luật.
Các hoạt động tôn giáo phù hợp văn hóa dân tộc và trong phạm vi pháp
luật là nhằm bảo đảm cho quyền tự do của người khác và cho chính nhu
cầu chính đáng của đồng bào có đạo. Vì vậy, ở Ðiều 8, một mặt khẳng
định: "Khơng được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo; vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của công dân", mặt khác, cũng quy định
phạm vi, giới hạn của quyền ấy: "Không được lợi dụng quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo để phá hoại hịa bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích
động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật,


chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn
giáo; gây rối trật tự cơng cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi
phạm pháp luật khác". Ðiều 9 cũng quy định: "Trong hoạt động tín ngưỡng,
tơn giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tơn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tơn giáo và quyền tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo của người
khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ cơng dân; hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo theo đúng
quy định của pháp luật".
Nhìn chung, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam tuân thủ
những quy định của Cơng ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng và tơn
giáo. Do hồn cảnh lịch sử và văn hóa, nên có một số quy định mang tính
đặc thù. Tuy nhiên, Ðiều 38, trong Pháp lệnh có nêu: "Trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có
quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định

của điều ước quốc tế đó". Ðiều đó chứng tỏ, Nhà nước ta luôn tôn trọng và
ưu tiên cho những quy ước chung.
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới và nhất là từ sau năm 1990 đến nay,
khơng khí sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam sơi động và đang có
chiều hướng gia tăng. Lễ hội các tôn giáo và những buổi lễ trọng khác của
các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trở thành ngày hội chung của tồn dân,
lơi cuốn hàng vạn người tham gia. Sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo khơng chỉ
là nhu cầu tâm linh của các tín đồ, mà cịn là nhu cầu sinh hoạt văn hóa của
tồn dân. Nhu cầu chính đáng ấy được chính quyền các địa phương tạo
điều kiện thuận lợi làm cho tín đồ, chức sắc các tơn giáo yên tâm, phấn
khởi, ngày càng tin tưởng vào chính sách đối với tôn giáo của Ðảng và Nhà
nước ta.


Những cơ sở thờ tự của các tôn giáo luôn được Nhà nước quan tâm
cho phép tu bổ, sửa chữa và xây dựng mới. Nhiều cơ sở thờ tự của tín
ngưỡng, tơn giáo trở thành danh thắng nổi tiếng, đang thu hút khách du lịch
trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng. Phật giáo, trước năm 1975 chỉ có
một trường cao đẳng, nay có bốn Viện đại học Phật giáo. Số người đi tu
nghiệp ở nước ngồi tăng. Cơng giáo mở thêm các đại chủng viện để đào
tạo linh mục. Số linh mục, giám mục tấn phong ngày một tăng. Sinh hoạt
của đạo Công giáo sống động từ giáo họ, giáo xứ đến giáo phận... làm cho
bà con giáo dân phấn khởi. Ðồn đại biểu Tịa thánh Va-ti-can do Ðức ơng
Pietro Parolin, Thứ trưởng Ngoại giao Va-ti-can làm trưởng đoàn, đã thăm
và làm việc tại Việt Nam từ ngày 27-4 đến 2-5-2004 "đã chứng kiến tận
mắt sức sống của Giáo hội Việt Nam nhiều hơn những gì đã nghe"(1). Và
ơng cũng xác nhận: "Việt Nam đã đạt được tiến bộ về tự do tôn giáo trong
15 năm qua".
Các tôn giáo khác, tùy theo hình thức đào tạo truyền thống của mình,
cũng được Nhà nước chấp thuận mở các lớp đào tạo chức sắc. Ngồi ra,

Nhà nước cịn cho phép nhiều người đi tu nghiệp, học tập và thăm viếng ở
nước ngoài. Số người đi tu nghiệp ở nước ngoài ngày càng tăng, trong đó
có nhiều người đạt học vị tiến sĩ, thạc sĩ.
Sau khi Nhà xuất bản Tôn giáo được thành lập, đã có hàng trăm đầu
sách của tơn giáo được xuất bản. Quan hệ đối ngoại giữa các cá nhân và
các tổ chức tơn giáo cũng được mở rộng.
Khơng khí sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo cũng như những con số kể
trên tự nói về quyền tự do tơn giáo ở Việt Nam được thực thi như thế nào.
Thực tế ở Việt Nam khơng có hiện tượng chống tơn giáo, mà chỉ chống
những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, gây rối trật tự công cộng,
xâm phạm an ninh quốc gia. Quyền tự do tơn giáo khơng phải là quyền vơ
giới hạn, vì vượt qua phạm vi nào đó sẽ lại vi phạm vào quyền chính đáng


của những người khác. Tự do theo nghĩa chân chính là tự do của người này,
cộng đồng này không vi phạm đến tự do của người khác và cộng đồng
khác. Chẳng có quốc gia nào mà cá nhân và tổ chức tơn giáo được hoạt
động ngồi vịng pháp luật của quốc gia đó.
Ở Việt Nam, tín đồ và chức sắc các tôn giáo đã và đang yên tâm
hành đạo và tin tưởng ở chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo của Ðảng
và Nhà nước ta. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc theo đường hướng: "Ðạo
pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội", thực hiện "sống phúc âm giữa lòng dân
tộc", "nước vinh, đạo sáng", với tấm lòng "kính Chúa u nước", vừa hồn
thành trách nhiệm, nghĩa vụ của cơng dân đối với Tổ quốc, vừa làm trịn
bổn phận của một tín đồ đối với tơn giáo.
Hàng chục triệu tín đồ các tơn giáo khác nhau đã, đang và tiếp tục
cùng nhau và cùng tồn dân tìm thấy sự tương đồng, mẫu số chung ở mục
tiêu phấn đấu cho: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Những chủ trương, chính sách và thành cơng trong việc thực hiện

chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam trong những năm qua
là lớn lao. Thành công ấy là không thể phủ nhận .
2.2. Những thành tựu và khó khăn trong q trình thực hiện chính
sách đại đồn kết tơn giáo
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong q trình thực hiện chính sách đại
đồn kết tôn giáo
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và tôn giáo tiếp tục được khẳng định là đường lối
nhất quán trong 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử: Kinh tế đã thốt ra khỏi tình trạng khủng hoảng, kém phát
triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đưa đất nước
bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; chính trị - xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; dân chủ XHCN được
phát huy và ngày càng mở rộng; văn hóa xã hội có bước phát triển, bộ mặt


đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi; quan hệ đối ngoại ngày
càng được mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng cao...
Những thành tựu đó chẳng những tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để
nước ta tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ trong những năm tới, mà còn
khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với
lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
Đảng đã tập hợp và quy tụ sức mạnh và niềm tin của cả dân tộc, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân chung sức, chung lòng, đồng tâm, hiệp lực
hướng đến mục tiêu chung xóa bỏ đói nghèo, lạc hậu, phấn đấu xây dựng
một nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
Tinh thần đoàn kết ấy được thể hiện rõ nét trong tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - tổ chức đóng vai trị nịng cốt trong tập hợp,
vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, củng cố, tăng

cường khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là cầu
nối thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đánh giá
về những thành tựu trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời gian
qua, Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Khối đại đoàn kết tồn
dân tộc và tơn giáo tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối
cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân đã đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt
động, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà
nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào
thi đua yêu nước góp phần vào những thành tựu chung của đất nước”


2.2.2. Một số tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách đại đồn kết tơn
giáo
Bên cạnh những thành tựu đạt được, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc thời gian qua có lúc, có nơi chưa được phát huy đầy đủ; chưa đánh giá
và dự báo chính xác những diễn biến thay đổi cơ cấu xã hội cũng như tâm
tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương và giải pháp
phù hợp; quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân
chưa được kịp thời thể chế hóa hoặc thực hiện thiếu nghiêm túc; hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp ở một số địa
phương chưa sâu sát, chưa thiết thực, thiếu hiệu quả; quyền làm chủ của
nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực bị vi phạm; tình trạng lợi dụng
dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia và trật tự, an tồn xã hội cịn xảy ra ở nhiều nơi...
Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước có những diễn
biến nhanh, phức tạp, khó lường; đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận
lợi và khó khăn, đối với sự nghiệp đổi mới nói chung và đối với đường lối

xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết tồn dân nói riêng. Lợi dụng q trình
mở cửa, hội nhập, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hịa
bình”, kích động tư tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc, gây thù hằn tôn giáo, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta; khoét sâu các mâu thuẫn, gây
xung đột xã hội, kích động biểu tình, bạo loạn, làm mất ổn định chính trị xã hội. Đặc biệt, chúng đang tìm cách chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân
dân; đối lập nhân dân với lực lượng vũ trang; chia rẽ các dân tộc, tôn giáo,
phá hoại liên minh cơng - nơng - trí; kích động chống đối, làm suy yếu sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật
tự, an tồn xã hội. Những vấn đề đó đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối
với “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” cũng như sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay.


Trên bình diện quốc tế, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn
tại. Tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn, chiến tranh cục bộ, xung đột
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hoạt động ly khai, can thiệp lật đổ, khủng bố diễn
ra quyết liệt ở nhiều nơi trên thế giới. Trong khu vực, bên cạnh sự “trỗi dậy
hịa bình” của Trung Quốc là sự điều chỉnh, chuyển trọng tâm chiến lược
của các nước lớn sang châu Á - Thái Bình Dương và sự tăng cường sức
mạnh quân sự của nhiều nước trong khu vực. Những động thái trên khơng
những làm cho tình hình Biển Đơng vốn đã phức tạp sẽ tiềm ẩn nhiều diễn
biến khó lường, mà cịn phần nào tác động đến tư tưởng, tình cảm của các
tầng lớp dân cư, gây chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc.
Việt Nam đang trong q trình hội nhập ngày càng sâu, rộng vào khu
vực và quốc tế. Hội nhập, tồn cầu hóa là q trình vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, không chỉ tạo ra những thời cơ mà còn ẩn chứa cả những nguy cơ,
thách thức lớn đối với sự nghiệp an ninh, quốc phòng của mỗi nước, nhất là
những nước đang phát triển như Việt Nam. Việc nhận thức rõ quan điểm
của Đảng: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và
mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam

đều là đối tác; bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá đất
nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu
tranh, chính là tiêu chí, là ngun tắc để thực hiện đồn kết quốc tế phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Âm mưu “diễn biến hịa bình” và
các nguy cơ đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nhất
là giữ vững chủ quyền biển, đảo và an ninh quốc gia địi hỏi tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn phải đồng lịng, chung sức, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đồngthời, phải “tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc...”. Kinh nghiệm
của cha ông cũng như quy luật của lịch sử đã minh chứng, chỉ khi nào kết
hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước


với sức mạnh ngoài nước; biến được sức mạnh ngoại sinh thành sức mạnh
nội sinh, thành ý chí của tồn dân tộc chúng ta mới có thể giữ gìn vẹn toàn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc nền độc lập tự chủ và bảo vệ thành
công sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đại
đồn kết dân tộc và tơn giáo
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, hoàn thành trọng trách
lớn lao nhưng hết sức vẻ vang, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thời gian
tới, các cấp, các ngành cần tập trung thực hiện nghiêm túc những vấn đề
chính sau:
Một là, phải tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng về đại đồn kết tồn dân tộc. Theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật, các cơ chế, chính sách về dân tộc, tơn giáo, chính sách xã hội
nhằm khuyến khích, động viên, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân

tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, phải có những
chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với các tầng lớp, giai cấp trong xã
hội như cơng nhân, nơng dân, trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu
chiến binh, người cao tuổi, các chính sách xã hội, nhất là các chính sách đối
với các thương binh, gia đình liệt sĩ, những người có cơng với cách mạng,
tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, tích cực tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Có như vậy mới phát huy được tối đa
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Tuyệt đối tôn trọng quyền làm chủ
của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy vai trò, tạo điều
kiện, cơ hội để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý những vấn đề quan
trọng của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Phổ biến và thực hiện tốt hơn nữa “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, từng bước
giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra. Theo đó, các cấp ủy


đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp
thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của
nhân dân; tin dân và tơn trọng dân; đồng thời hồn thiện hệ thống pháp luật
để đảm bảo nhân dân thực sự làm chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình
thơng qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Hai là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội; kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và tồn xã hội. Tổ chức
và động viên, quy tụ nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; khơng ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các
dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng
căn cứ kháng chiến cũ, các vùng chiến lược, vùng tôn giáo. Bảo đảm việc
làm, nâng cao thu nhập, chăm lo xây dựng các cơng trình phúc lợi cho nhân
dân. Chú trọng xây dựng nông thôn mới; nâng cao năng suất lao động trong
nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản

về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin... Tôn vinh đội ngũ trí thức, có
cơ chế chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài. Tôn vinh những doanh nhân
có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Xây dựng ý thức tôn
trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ.
Tạo cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên
cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Thực hiện tốt
chính sách bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng;
hồn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo, phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo. Đối với đồng bào định cư
ở nước ngoài, cần hỗ trợ bà con giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, góp
phần bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng của họ.
Ba là, tăng cường mối quan hệ bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, trong đó “Mặt trận Tổ
quốc đóng vai trị nịng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân”. Tiếp tục đổi



×