Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

2 vận dụng tư tưởng hcm về vai trò đại đoàn kết dân tộc trong công tác phòng chống dịch covid 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.11 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.................................................................................3
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC.............................................................................................3
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 3
1.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân. .5
1.3. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức
mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay................................................12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ TÌNH HÌNH VẬN DỤNG ĐẠI
ĐỒN KẾT DÂN TỘC TRONG CƠNG TÁC PHỊNG CHỐNG
DỊCH COVID 19...................................................................................15
2.1. Thực trạng tình hình Covid 19.....................................................15
2.1. Đại đồn kết dân tộc trong cơng tác phịng chống dịch Covid-19
.............................................................................................................17
PHẦN III: KẾT LUẬN.............................................................................20

i


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 - Hồ Chí Minh tồn tập, 10 tập, nhà xuất bản sự thật Hà Nội 1984 – 1989
2 - Phùng Hữu Phú , Lê Mậu Hãn. CHiến lược đại đồn kết theo tư tưởng
Hồ CHí MINH ; nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 1994
3 - Tư tưởng Hồ CHí MINH soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân ta
tiến vào thế kỷ XXI của đồng chí Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu; Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội 2000
4- Tập bài giảng : Tư tưởng Hồ CHí MINH
5 - Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí minh nhà xuất bản sự
thật, Hà Nội 1992
6. Lí luận chính trị Số 11( 2001) Tạp chí nghiên cứu của học viện chính trị


quốc gia HCM
Web: />
ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà chính trị qn sự lỗi lạc, tài ba, một người con xuất sắc của dân tộc Việt Nam, đã để
lại cho dân tộc ta, cho tồn nhân loại một kho tàng lí luận vơ giá. Đó là hệ
tư tưởng Hồ Chí Minh - ngọn đuốc soi đường, kim chỉ nam cho mọi hành
động đưa con thuyền dân tộc tới bến bờ thắng lọi trong cơng cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Trong hệ tư tưởng ấy, tư tưởng về
đại đoàn kết dân tộc có giá trị lí luận và giá trị thực tiễn hét sức quan trọng.
Nó là một trong những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của Cách
mạng Việt Nam. Mặc dù Đảng lãnh đạo, nhân dân làm cách mạng, nhưng
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đơng đảo, nó khơng phải
của riêng Đảng Cộng sản. Đảng lãnh đạo để nhân dân đứng lên tự giải
phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể
thực hiện bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Trong
suốt cuộc dời hoạt động cách mạng của mình, trên những cơ sơ lí luận và
thực tiẽn, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc dần được kết tinh
và hình thành.
Đại đồn kết dân tộc đã trở thành nội dung xuyên suốt trong tư tưởng
cũng như trong họat động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Chính tư tưởng đó đã
giúp Hồ Chí Minh tập hợp, quy tụ được các dân tộc, các giai cấp, tàng lớp,
đảng phái, tôn giáo, nhân sĩ yêu nước, đồng bào trong và ngoài nước xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng, từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thằng lợi
trong sự nghiệp Cách mạng của Hồ Chí Minh mong muốn của tồn Đảng,
tồn dân ta. Để đạt được thắng lợi đó, chúng ta phải hình thành tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc, mà trước hết phải nắm vững được cơ sở hình thành tư

tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc. Đó là lý do tôi chọn đề tài :

1


“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của đại đồn kết dân tộc
trong cơng tác phịng chống dịch Covid-19"

2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN
TỘC
1.1.

Về mặt lí luận

1.1.1. Kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố
kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam
Giá trị truyền thống bao gồm chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đấu
tranh anh dũng cho độc lập, tự do, tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương
thân tương ái, vị tha của dân tộc và ý thức tự lực, tự cường. Đất nước ta,
một dải đất hẹp nằm trọn trong vành đai nhiệt đới gió mùa, quay mặt ra
biển Đơng, lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ. Do điều kiện địa lý, tự nhiên
và vị trí quan trọng của mảnh đất này, những cư dân người Việt từ thuở xa
xưa vừa được hưởng sự ưu đãi của đất trời, vừa phải đối mặt với những thử
thách khắc nghiệt của thiên tai, địch họa. Lịch sử dựng nước và giữ nước
diễn ra trên mảnh đất này là sự nối tiếp hàng ngàn năm những cuộc đấu
tranh không mệt mỏi chống hạn hán, bão lụt, chống chiến tranh xâm lược

của các thế lực nước ngồi. Từ trong cuộc tranh đấu trường kỳ đó đã sớm
nảy sinh và định hình ý thức cộng đồng, ý thức tập thể, và cao hơn là ý
thức dân tộc. Ý thức này ngấm vào máu thịt con người Việt Nam và được
trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để tạo thành truyền thống đoàn
kết, nhân nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước. Truyền thống ấy đã được
phản ánh trong kho tàng văn học dân gian với những câu ca dao, tục ngữ
thấm sâu vào linh hồn người Việt:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
hay:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
3


Truyền thống quý báu ấy cũng được những anh hùng dân tộc ở các
thời kỳ lịch sử khách nhau như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung... đúc kết, nâng lên thành kinh nghiệm, thành phép đánh giặc,
giữ nước: "khoan thư sức dân làm kế gốc sâu rễ bén", trên dưới đồng lòng,
cả nước chung sức", "Tướng sĩ một lịng phụ tử"...
Khơng chỉ vậy, truyền thống ấy cũng được tiếp nối trong tư tưởng
tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp xâm lược và bọn phản động tay sai như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh. Đối với Hồ Chí Minh, hai cụ Phan là những bậc tiền bối
đáng kính, và những tư tưởng cứu nước, đặt biệt là tư tưởng tập hợp lực
lượng dân tộc, lực lượng quốc tế của hai cụ đã có ảnh hưởng đáng kể đến
quá trình đi tìm đường cứu nước và xây dựng đường lối cứu nước của
Người.
1.1.2. Hấp thu tinh hoa của văn hóa Đơng - Tây và tư tưởng tập hợp lực
lượng của các nhà Cách mạng lớn ở khu vực và trên thế giới

Sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho u nước, Hồ Chí Minh
sớm có điều kiện tiếp xúc với những giá trị văn hóa phương Đơng, trong đó
có những giá trị nhân bản của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Trong quá
trình tiếp xúc, Người tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho
giáo (như tư tưởng đại đồng, tư tưởng nhân ái, luân lí yêu thương) và Phật
giáo (tinh thần "Lục hòa" - sáu phương pháp cư xử nhằm tạo ra sự hòa hợp
từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm của chúng sinh nhằm đạt
tới mục đích cao đẹp). Bên cạnh đó, Người cũng đồng thời phê phán, loại
bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết đó, chẳng hạn như tư
tưởng phong kiến của Khổng Tử.
Là một người phương Đông, song cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh một thời gian dài lại gắn với mơi trường phương Tây, do vậy, Người
đã tiếp thu nhiều giá trị nhân bản trong nền văn hóa phương Tây, đặc biệt là
những hạt nhân hợp lý của tư tưởng bình đẳng, bác ái, tự do được ghi trên
4


lá cờ của các trào lưu tư tưởng phương Tây. Những tư tưởng nhân văn đó
đã được Hồ Chí Minh tiếp nhận ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường ở
quê hương và được Người tìm hiểu, kiểm chứng, sàng lọc trong suốt 30
năm bơn ba hải ngoại.
Có thể nói, Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự kết hợp hài hịa cốt
cách phương Đơng sâu lắng thâm trầm với phong cách khoáng đạt cởi mở
phương Tây.
1.1.3. Tiếp thu nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
Cơ sở lí luận quan trọng nhất đối với q trình hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở
thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn

của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với đồn kết quốc tế,...
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ
ra sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng
trong phạm vi từng nước và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Hồ Chí Minh đã sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin,
nhờ đó Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác các yếu tố tích
cực cũng như hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp
lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng
lớn trên thế giới, những bài học rút ra từ các cuộc cách mạng trước, từ đó,
hình thành và hồn chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Về mặt thực tiễn
1.2.1. Thực tiễn Việt Nam
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên
5


Thế đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, các thế hệ người Việt Nam yêu
nước đã nối tiếp nhau vùng dậy chống ngoại xâm. Song, do nhiều khó khăn
khách quan và hạn chế chủ quan, các phong trào yêu nước chống Pháp của
nhân dân ta đều lần lượt bị thất bại. Thực tiễn đó đã chứng tỏ rằng, vào thời
đại mới, muốn chiến thắng kẻ thù mới phải có sức mạnh đoàn kết tự giác
của cả dân tộc. Vận mệnh của đất nước phải địi hỏi phải có một lực lượng
lãnh đạo cách mạng mới, đề ra được một đường lối cách mạng đúng đắn,
phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại
mới, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và
thực dân xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì mới giành
được thắng lợi.
1.2.2. Thưc tiễn thế giới

Trong quá trình bơn ba ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu
các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp
và nhận thấy các cuộc cách mạng đó vẫn chỉ là cách mạng "khơng đến
nơi". Người tổng kết các cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và thấy
rõ: Các dân tộc thuộc địa chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đồn kết
lại, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức.
Nghiên cức Cách mạng tháng Mười Nga đã giúp Người hiểu sâu sắc
thế nào là một cuộc "cách mạng đến nơi", những bài học về huy động, tập
hợp lực lượng quần chúng cơng nơng để giành và giữ chính quyền cách
mạng, để chuẩn bị cho việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào con đường
cách mạng mới những năm sau này.
Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc,
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ. Đây là hai nước
đem lại cho Việt Nam nhiều bài học về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến
bộ để tiến hành cách mạng.

6


1.3. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức
mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay
a. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, địi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao
độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh

tế- xã hội, giữ vững ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Tuy nhiên,
trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của
nhân dân thì việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đồn thể, các tổ
chức xã hội cịn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực
doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, ở một số vùng có đơng đồng bào theo
đạo, đồng bào dân tộc thiểu số...
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
việc xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý
những vấn đề sau đây:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

7


Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương
đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần,
giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương
lai.
Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp
hài hịa các lợi ích cá nhân - tập thể - toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn với
giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; khơng ngừng bồi
dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ

quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó là những yếu tố
quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
b Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong quá
trình hội nhập quốc tế
Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, tiến hành đổi mới, toàn diện đất nước, Đảng ta đã vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Tuy
nhiên, trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ
giữ nước sang thời kỳ dựng nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang
đòi hỏi những nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực này. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế quốc
tế, một loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:
- Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất phát từ
lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát
8


triển đất nước. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự
cường dân tộc, trong chính sách đại đồn kết, phải chú ý phát huy tính năng
động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản
xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu
quả ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của
kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không

lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đồn kết, tình nghĩa tương thân,
tương ái của dân tộc và của Đảng.
- Điều quan trọng để phát huy nội lực dân tộc, phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay là phải xây dựng được hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ
nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết
lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải
quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được yên. Phải tiếp tục
đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng việc xây
dựng Mặt trận, đổi mới, hồn thiện chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo,
chính sách đối với cơng nhân, với nơng dân, với trí thức, chính sách đối với
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi, chính sách đối với các thành
phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, tồn
cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực dân tộc cịn địi
hỏi phải củng cố sự đồn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời
phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm
thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta

9


là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế, vì hịa bình, hợp tác và phát triển.
Trong tình hình thế giới hiện nay, địi hỏi chúng ta phải có những
chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử
thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ

vững bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy bài
học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, phải nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không
thể tách rời của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong
trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục
tiêu hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc
lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân
tộc- sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và
tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngồi.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
TRONG CƠNG TÁC PHỊNG CHỐNG DỊCH COVID 19
2.1. Tình hình Covid 19
Cho đến cuối năm 2020, châu Âu, châu Mỹ và nhiều khu vực khác
vẫn “lao đao” vì dịch COVID-19 khi số người mắc và tử vong không
ngừng tăng cao. Trong bối cảnh toàn cầu đang vất vả ứng phó với dịch,
Việt Nam trở thành điểm sáng do kiểm sốt thành cơng dịch bệnh trên
nhiều phương diện, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân, duy trì ổn
định phát triển kinh tế - xã hội.

10


Với 6 ca mắc mới trong ngày 25/12/2020, tính từ đầu mùa dịch Việt Nam
đã ghi nhận 1.439 bệnh nhân COVID-19, trong đó có 1.303 người đã khỏi
bệnh và được ra viện. Với số mắc này, Việt Nam đứng ở vị trí 170 trong số
các quốc gia, vùng lãnh thổ có dịch COVID-19. Trong đó, tỉ lệ tử vong liên

quan đến COVID-19 là 0,4/1 triệu dân, là mức thấp trên thế giới (ở Mỹ tỉ lệ
này là 1.015, Ấn Độ là 106, Nga là 368, Pháp là 953...). Trong khi đó trên
thế giới trên thế giới có hơn 77.7 triệu người đã nhiễm Covid - 19 được xác
nhận với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, hơn 1.7 triệu người tử vong.
Hiện tại, đại dịch Covid-19, vẫn tiếp tục gia tăng số người bị nhiếm bệnh
và tử vong trên toàn cầu.
Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, các lực lượng qn đội,
cơng an, y tế liên minh hình thành các khu cách ly tập trung, kiểm soát chặt
các đường mòn, lối mở khu vực biên giới, "đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà
từng hộ", đảm bảo phát hiện kịp thời các ca bệnh, khoanh vùng, cách ly dập
dịch ngay. Chính phủ đã chấp nhận thiệt hại một phần về kinh tế để đổi lấy
an toàn về sức khỏe, tính mạng của nhân dân, hạn chế thấp nhất tử vong do
dịch bệnh.
Điều đáng nói là cơng tác phịng, chống dịch COVID-19 nhận được
sự đồng thuận, ủng hộ tích cực của người dân cả nước. Có rất nhiều thơn
làng, khu phố, khu nhà ở, khi phát hiện ca dương tính với SARS-CoV-2 thì
người dân đều tự giác tuân thủ, thực hiện nghiêm cách ly trong 14 ngày
nhằm “cô lập” nguồn bệnh, hạn chế lây lan ra cộng đồng. Trong thời gian
cách ly xã hội diện rộng để phong tỏa dịch, đa phần người dân nghiêm túc
chấp hành việc hạn chế đi ra khỏi nhà. Đặc biệt, để thích ứng với trạng thái
“bình thường mới”, người dân Việt Nam cũng dần quen với việc thực hành
thông điệp 5K: đeo khẩu trang, sát khuẩn tay, giữ khoảng cách an toàn khi
đến nơi đông người, trên các phương tiện giao thông công cộng, trường
học…; cài đặt các ứng dụng phát hiện, cảnh báo nếu có tiếp xúc với các
nguồn lây.
11


Do đã tạo được “phản xạ” ứng phó cần thiết sau cho người dân nên
khi xuất hiện các ca lây nhiễm trong cộng đồng ở Đà Nẵng, Quảng Nam,

Hải Dương… vào tháng 7/2020 hay Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng
11/2020, cộng đồng đã rất chủ động ứng phó, khơng cịn xuất hiện tình
trạng hoảng loạn, sợ hãi đi “vét” lương thực, thực phẩm, khẩu trang, thuốc
men như khi xuất hiện ca bệnh số 17. Chính quyền, lực lượng chức năng,
nhất là y tế các địa phương đã triển khai bài bản hoạt động ngăn chặn,
khoanh vùng, kiểm soát dịch, đảm bảo duy trì các hoạt động kinh tế, các
hoạt động trong xã hội vẫn được đảm bảo ổn định…
Cho đến nay, Việt Nam có 35 trường hợp tử vong do COVID-19,
đều là các ca bệnh có bệnh lý nền nghiêm trọng. Nếu tính số ca mắc trên
tổng số dân và số ca tử vong trên tổng số người nhiễm, Việt Nam được
đánh giá là quốc gia kiểm soát dịch thành cơng. Các ổ dịch trong nước đã
được kiểm sốt, không ghi nhận ca mắc lây nhiễm trong cộng đồng mà chỉ
có các ca nhập cảnh, được cách ly ngay. Cả nước đang tiếp tục khẩn trương
thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế.
Kết quả cuộc điều tra xã hội học, tìm hiểu dư luận xã hội do Ban
Tuyên giáo Trung ương thực hiện, cho thấy, có đến 97% người dân được
hỏi đều thể hiện sự tin tưởng đối với các biện pháp của Đảng, Nhà nước
trong phịng chống COVID-19.
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã nhấn mạnh, thắng lợi này
là nhờ sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống và toàn thể
người dân Việt Nam với truyền thống u nước, đồn kết một lịng khi đất
nước gặp khó khăn…
2.1. Vai trị đại đồn kết dân tộc trong cơng tác phịng chống dịch
Covid-19
Những ngày qua, trước tình hình dịch bệnh COVID-19 đang hoành
hành ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới và diễn biến phức tạp ở Việt
12


Nam, chúng ta lại thấy ở các địa bàn trong tồn quốc, từ thành thị đến nơng

thơn, từ biên giới ra hải đảo ln sáng lên tinh thần đồn kết chống dịch
trong bức tranh tối màu và u ám của đại dịch đã rất lâu mới xuất hiện trên
quy mô toàn cầu.
Tinh thần đoàn kết thể hiện qua sự hưởng ứng của các cơ quan, đoàn
thể và nhân dân trong thực hiện chủ trương, đường lối “chống dịch như
chống giặc”, ngay từ đầu Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức sâu sắc mức
độ nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 và sẵn sàng chấp nhận tốc độ tăng
trưởng kinh tế có thể chậm lại khi thực hiện các biện pháp mạnh mẽ nhằm
ngăn chặn dịch lây lan trong cộng đồng. Sự lựa chọn này xuất phát từ tính
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã và đang xây dựng ở nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Hiện nay, cả hệ thống chính trị và tồn dân đang đồn
kết một lịng thực hiện nghiêm túc chủ trương cách ly xã hội theo tinh thần
Chỉ thị số 16-CT/TTg, ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về các
biện pháp cấp bách phịng, chống dịch COVID-19.
Tinh thần đồn kết thể hiện qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan, đơn vị chức năng trên tuyến đầu và cả ở hậu phương trong chiến dịch
phịng, chống COVID-19. Đó là sự đồn kết của đội ngũ chiến binh áo
trắng không quản ngại hiểm nguy, có thể lây nhiễm bất cứ lúc nào để chăm
sóc, cứu chữa cho các bệnh nhân, tổ chức xét nghiệm và cách ly những
người nghi nhiễm. Phối hợp hiệp đồng với đội ngũ y bác sĩ là lực lượng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các cơ quan thơng tin truyền thơng,
các ban, ngành, đồn thể quần chúng và các lực lượng khác có liên quan
đang ngày đêm thực hiện nhiệm vụ tại các chốt gác, khu vực cách ly ở khắp
các tuyến, địa bàn trong cả nước.
Tinh thần đoàn kết thể hiện qua những nghĩa cử cao đẹp của đội ngũ
cán bộ trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức doanh nghiệp và các cá
nhân đã chung tay đóng góp; người nhiều, người ít tổng cộng hàng trăm tỷ
đồng và nhiều loại thiết bị y tế cần thiết như khẩu trang, máy thở, quần áo
13



bảo hộ y tế... Ngày ngày, lại có những tấm gương nhân ái, người tốt, việc
tốt ở khắp các địa bàn, được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại
chúng, thể hiện sự đồn kết trong phịng, chống dịch bệnh, nào như: Gói hỗ
trợ của Chính phủ trong phịng, chống dịch bệnh trị giá hàng trăm nghìn tỷ
đồng; các ngân hàng giảm lãi suất để hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ kinh
doanh; hình thành các điểm tặng thực phẩm hàng ngày với khẩu hiệu “Ai
cần cứ đến lấy, nếu khó khăn hãy cứ đến lấy, hãy lấy một gói mì tơm mỗi
ngày”; thành lập các điểm phát khẩu trang miễn phí; nhắn tin ủng hộ quỹ
phịng, chống dịch COVID-19... Phải thấy rằng đây là những việc làm hết
sức có ý nghĩa, thể hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tương thân tương ái.
Càng trân trọng hơn khi các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đó cũng đang
phải đối mặt với những khó khăn nhất định trong bối cảnh đại dịch lây lan
toàn cầu.
Tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam đã lan tỏa và vượt ra ngoài
biên giới để cùng chung sức với cộng đồng quốc tế trong nỗ lực phòng,
chống dịch bệnh COVID-19. Mặc dù còn khó khăn nhưng Việt Nam đã có
những hành động hết sức thiết thực, điển hình như tham gia ủng hộ tiền, vật
tư y tế, khẩu trang cho các nước láng giềng là Trung Quốc, Lào,
Campuchia để phòng, chống dịch. Đồng thời, tích cực phối hợp với cơ
quan chức năng các nước trong vấn đề bảo hộ cơng dân nước ngồi ở Việt
Nam và cơng dân Việt Nam ở nước ngồi liên quan đến phòng, chống dịch
bệnh. Những ngày qua, liên tục các trường hợp người nước ngoài ở Việt
Nam dương tính với vi rút SARS-CoV-2 được điều trị và chữa khỏi. Những
người này đã cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ, chữa trị của Chính phủ và nhân
dân Việt Nam, đồng thời cảm thấy may mắn khi trong những ngày dịch
bùng phát họ được có mặt ở Việt Nam, điều đó cũng đồng nghĩa với việc
tính mạng và sức khỏe của họ được bảo đảm hơn. Bên cạnh đó, với kết quả
đạt được rất đáng khích lệ đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã và đang chia


14


sẻ những kinh nghiệm quý rút ra nhằm giúp các nước tham khảo nhằm
nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống dịch bệnh.
Như vậy, có thể thấy tinh thần đồn kết dân tộc đã và đang được
khơi dậy và phát huy cao độ những ngày qua trong nỗ lực phòng, chống
dịch bệnh COVID-19 và sẽ tiếp tục được phát huy trong thời gian tới, nhất
định dịch bệnh sẽ được ngăn chặn và đẩy lùi
Hiện nay, mặc dù nước ta đã đã khống chế được mức độ lây lan và
đạt được những thắng lợi bước đầu. Nhưng tình hình dịch bệnh vẫn cịn rất
phức tạp và phía trước vẫn cịn tiềm ẩn khơng ít những rủi ro và nguy cơ.
"Thời gian tới đây,chúng ta có thể sẽ cịn phải đối mặt với khó khăn lớn
hơn gấp nhiều lần, địi hỏi sự nỗ lực nhiều hơn nữa, kiên quyết hơn nữa".
Để vượt qua và chiến thắng đại dịch Covid-19, chỉ có thể đồn kết đồng
lịng, đồng thuận mới có thể biến nguy thành cơ theo lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: "Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn
dân tộc và bảo vệ nước nhà".

15


PHẦN III: KẾT LUẬN
Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản do chính Người sáng lập trong hơn 75 năm qua đã cho
phép chúng ta có thể khẳng định rằng: trong một quốc gia, dân tộc, bao giờ
cũng có lợi ích chung và cao cả. Dân tộc Việt Nam dù có nhiều giai cấp xã
hội, tộc người và tôn giáo khác nhau, song người Việt Nam đều là con
Hồng cháu Lạc có lịch sử hình thành dân tộc lâu đời, có một nguồn văn hóa
chung, có chủ nghĩa dân tộc truyền thống vững bền, có lợi ích cao cả là độc

lập tự do. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc với các hình thức tổ chức
thích hợp lấy khối cơng nơng và lao động trí óc làm nịng cố dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản dựa trên nền tảng một chế độ mới ưu việt của dân,
do dân và vì dân, quyết chiến đấu với ý chí "thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" là một nhân tố cơ
bản thường xuyên quyết định thắng lợi và là bài học kinh nghiệm sáng tạo
của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày nay, thực hiện đường lối đổi mới, trên cơ sở tuân thủ triệt để các
nguyên tắc đại đồn kết Hồ Chí Minh, trong đó, đặc biệt quán triệt khối
đoàn kết phải do Đảng lãnh đạo và đồn kết phải đặt lợi ích dân tộc, lợi ích
tổ quốc, lợi ích tồn dân lên trên hết, trước hết, Đảng và toàn dân ta thực
hiện đại đoàn kết, phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc cao độ để thực hiện
thật tốt phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và lâu dài thực hiện cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, từng bước xây dựng một nước việt nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

16



×