Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Quan điểm hồ chí minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh và phương hướng vận dụng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.92 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
TRONG SẠCH VỮNG MẠNH.................................................................2
1.1. Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước pháp quyền...........2
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân. 2
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước...3
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước được tổ chức và hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:....................................4
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững
mạnh.........................................................................................................6
1.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài....................6
1.2.2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước.......................................................................................................8
1.2.3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật............................10
1.2.4. Xây dựng Nhà nước trong sạch, hiệu quả.................................11
II. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC..........................13
2.1. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng nhà nước trong
sạch, vững mạnh hiện nay....................................................................13
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước Việt Nam hiện
nay...........................................................................................................15
2.2.1. Về ưu điểm................................................................................15
2.2.2 Về hạn chế, yếu kém..................................................................17
i


III. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................20


3.2. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Việt Nam hiện nay.................................................................................20
3.2.1. Cần nhận thức về cán bộ, công chức cả về khái niệm, vị trí, vai
trị và những u cầu xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ....................20
3.2.2. Chấn chỉnh công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện công tác cán bộ
.............................................................................................................21
3.2.3. Phát triển cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong cơng tác
cán bộ, ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy quyền..........................22
3.2.4. Đề cao vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ
.............................................................................................................23
3.2.5. Coi trọng công tác tham mưu, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận về công tác tổ chức, cán bộ.........................................................23
3.2. Giải pháp tiếp tục xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. 23
3.3. Vai trị của thanh niên, sinh viên trong cơng cuộc xây dựng nhà
nước trong sạch, vững mạnh hiện nay................................................26
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................29

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về xây
dựng nhà nước Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, để Đảng xứng
đáng “là đạo đức, là văn minh” chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Việc vận
dụng tư tưởng của Người vào công tác xây dựng nhà nước hiện nay sẽ góp
phần to lớn vào cơng cuộc xây dựng Đảng Việt Nam giàu mạnh. Xây dựng
Đảng chính là yêu cầu để Đảng tồn tại và phát triển.
Trong Bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương (ngày 11-51952), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng “vì điều kiện khó khăn, mà số đơng
cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình

độ chính trị cịn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm
như: khơng nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh;
không phân biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh quan liêu, cơng thần và nạn tham ơ
hủ hóa khá nặng. Từ đó có thể thấy, xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ,
đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng, ngày một tiến bộ hơn, trở thành
người cách mạng chân chính.
Xây dựng và hồn thiện Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
này, cần nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo những giá trị tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước trong bối cảnh hiện nay. Do đó qua q
trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “Quan điểm Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh và phương hướng vận dụng
để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước Việt Nam hiện nay.” Để
có cái nhìn sâu và rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
TRONG SẠCH VỮNG MẠNH
1.1. Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước pháp quyền
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng,
củng cố một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Các tư tưởng Hồ Chủ
Tịch về Nhà nước thật sự to lớn, sâu sắc không chỉ được thể hiện trong các
bài viết, các bài phát biểu, trong các văn kiện quan trọng do Người trực tiếp
chỉ đạo xây dựng và ban hành mà cả trong hành động thực tiễn của Người

trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân, không chỉ do dân
lập ra thông qua bầu cử dân chủ mà còn là nhà nước chịu sự kiểm tra, giám
sát, định đoạt của nhân dân. Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ,
Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đơn đốc phê bình
Chính phủ. Chính phủ thì việc to nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân”.
“Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của
mình” . Người nhắc nhở: “Nước ta là nước dân chủ; địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ
tịch nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân” . Người cịn viết: “Chính phủ
cộng hồ dân chủ là gì? là đầy tớ của dân từ Chủ tịch toàn quốc đến Đảng –
Dân là chủ thì Chính phủ là đầy tớ… Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ”.

2


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là nguồn sức mạnh của Nhà
nước, là nguồn trí tuệ của Nhà nước, là nguồn sáng kiến vơ tận, nhà nước có
chức năng khơi nguồn, phát hiện, tiếp thu và hoàn thiện các sáng kiến của
nhân dân để xây dựng chính sách và luật pháp.
Một nhà nước của dân, do dân, vì dân theo Hồ Chí Minh là một nhà
nước nếu biết lắng nghe và học hỏi nhân dân, biết tôn trọng bồi dưỡng và
nâng cao sức dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân thì sẽ
thấy nhân dân khơng chỉ nói lên những mong muốn của mình mà còn chỉ ra
được nhà nước cần phải hành động như thế nào để giải quyết các vấn đề quốc
kế dân sinh. Chính vì lẽ đó Nhà nước được thành lập khơng vì mục đích làm
thay cho dân, mà thực hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức để nhân dân

bằng trí tuệ, sức mạnh của mình giải quyết các vấn đề của chính mình. Người
viết: “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng
có Chính phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân
dân phải đồn kết thành một khối” . Nhà nước của dân, do dân không có mục
đích tự thân, ý nghĩa, mục tiêu và sứ mệnh của Nhà nước là phụng sự hạnh
phúc của nhân dân, vì nhân dân. Vì lẽ đó Hồ Chủ Tịch cho rằng “…
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hồ ra đời, mở đầu một chính thể nhà nước mới ở Việt Nam: chính
thể dân chủ cộng hồ. Sự ra đời của chính thể dân chủ cộng hồ thể hiện một
tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn mơ hình tổ
chức nhà nước, vừa tiếp thu được các giá trị phổ biến của nền dân chủ nhân
loại, vừa phù hợp với các đặc điểm của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình bộ máy nhà nước của dân, do dân,
vì dân được thể hiện sâu sắc trong các văn kiện pháp lý quan trọng của đất
nước do chính Người chỉ đạo xây dựng và ban hành. Có thể thấy rằng hai bản
Hiến pháp 1946, 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo
3


và 613 sắc lệnh kể từ 1945 đến 1969, trong đó có 243 sắc lệnh liên quan đến
bộ máy nhà nước và luật pháp do Người ký ban hành đã hình thành một thể
chế bộ máy nhà nước vừa hiện đại vừa dân tộc kết tinh sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Tuy không tiếp nhận tư tưởng phân quyền vốn là nền tảng lý luận của
mơ hình nhà nước dân chủ phương Tây, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa vào mơ
hình tổ chức bộ máy nhà nước những yếu tố hợp lý và khoa học của nguyên
tắc phân quyền. Theo đó, bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 được thiết
kế trên cơ sở phân chia quyền lực uyển chuyển giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.

Trong mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước này, khơng có một cơ quan nào là
độc quyền quyền lực, có quyền đứng trên cơ quan khác.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:
Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, hoạt
động của nhà nước trong quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, Hồ Chí
Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính
chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh
đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919,
tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm
liên quan đến vấn đề pháp quyền, cịn lại liên quan đến cơng lý và quyền con
người.
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước là các
cơ quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật nhưng trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến ở

4


phương Đơng, Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt pháp trị và đức trị trong tổ
chức hoạt động của Nhà nước và quản lý nhà nước.
Cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và nghiêm
minh. Hồ Chí Minh u cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ “gương mẫu chấp
hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần
chúng mà mình tham gia”. Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực
của pháp luật, cán bộ làm công tác tư pháp có vai trị quan trọng. Họ chính là
người trực tiếp thực thi luật pháp, đại diện cụ thể cho “cán cân cơng lý”. Vì
thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong
công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì

khơng thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung tồ án mà còn phải
gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm
cơng bằng, trong sạch.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật khơng phải là để trừng trị con người mà là
công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công
chức của Người thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho
ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào
theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp
giữa đức trị và pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm
triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.
Q trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong mỗi giai đoạn
sau này đã có khơng ít những thay đổi về mơ hình bộ máy dưới tác động của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy
vẫn là tư tưởng của Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân. Ngày nay, trong bối cảnh phát triển mới của đất nước, dưới tác
động mạnh mẽ của thời đại và thế giới, trong xu thế tồn cầu hố, nhiều điểm
đã thay đổi, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân,
5


do dân, vì dân vẫn cịn ngun giá trị, tiếp tục định hướng cho các nỗ lực
nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp đổi mới mơ hình bộ máy nhà nước trong các
điều kiện phát triển mới.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh
1.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln đề cao vị trí, vai trị của đội ngũ cán
bộ, cơng chức. Người coi cán bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”,
“muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Để xây dựng
một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng

chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát nhất về
yêu cầu đối với đội ngũ này, theo Hồ Chí Minh, đó là những người vừa có
đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có
hiệu quả.
Đi vào những mặt cụ thể, Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Một là, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên
cần có đối với đội ngũ cán bộ, công chức.
Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lịng trung thành đó
khơng phải là những điều trừu tượng, chung chung, mà phải được thể hiện
hằng ngày, hằng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác, thể hiện trong kết quả thực
tế cơng tác. Lịng trung thành đó thể hiện đặc biệt rõ trong những lúc đất nước
gặp khó khăn, thử thách, chuyển giai đoạn.
Hai là, hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
Chỉ với lịng nhiệt tình thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu,
cái cũ mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ cán
bộ, công chức phải hiểu biết công việc của mình, biết quản lý nhà nước, do
6


vậy, phải được đào tao và tự mình phải ln ln học hỏi. Đó là tính chun
nghiệp của đội ngũ công chức. Công chức phải chuyên sâu nghiệp vụ, phải
luôn luôn học tập không ngừng nghỉ, học mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời.
Hồ Chí Minh chính là con người điển hình của tự học. Người tự học những
kiến thức về nhà nước trong cả cuộc đời mình.
Ba là, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Hồ Chí Minh ln ln chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt
giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là
những người hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước do dân đóng góp.

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi cán bộ, cơng chức khơng được lãng
phí của cơng; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức
cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ quốc, lấy phục
vụ quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình.
Đặc biệt, phải chống bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu, phải ln ln
gần dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch,
cửa quyền… đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước,
thậm chí làm biến chất Nhà nước vì đã phạm một điều có tính chất cốt tử của
cấu tạo quyền lực nhà nước là tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Bốn là, cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám
quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn,
“thắng khơng kiêu, bại khơng nản”. Đó là những người có ý thức sẵn sàng
làm “cơng bộc”, làm “đày tớ”, phục vụ tận tuỵ nhân dân, những người cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí
Minh địi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng, ln ln “có chí tiến thủ”, ln ln học tập đế nâng cao trình độ
về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy,
học ở bạn.
7


Năm là, phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, ln ln có ý
thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước. Với chức trách
là những người phục vụ nhân dân, thì cán bộ, cơng chức phải tận tuy, tận
trung với nước, tận hiếu với dân. Muốn vậy, theo Hồ Chí Minh cán bộ, cơng
chức phải thường xuyên tự phê bình và phê bình để giữ vững phẩm chất đạo
đức cách mạng và năng lực công tác. Đồng thời, cán bộ, công chức phải chăm
lo xây dựng bộ máy nhà nước để nhà nước đúng là nhà nước của dân, do dân,
vì dân.
1.2.2. Đề phịng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước

Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân khơng bao giờ tách rời
với việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn ln
thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành
được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng
chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm
sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc
đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt và những tiêu cực rất
dễ trở thành nguy cơ làm biến chất Nhà nước.
Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng,nêu rõ
phải chống đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước khơng phải là bộ máy áp
bức, bóc lột nhân dân, cán bộ, công chức không phải là những “ơng quan cách
mạng”.
Hồ Chí Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phịng: trái phép, cậy thế, hủ
hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta khơng sợ sai lầm,
nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm
những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi và gắng sức cho thêm tiến bộ.
Ai đã phạm những lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu khơng tự sửa
chữa thì Chính phủ sẽ khơng khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích
8


của nước nhà mà tơi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “cơng bình,
chính trực vào lịng”.
Hồ Chí Minh đã dùng những cụm từ “công bộc”, “đày tớ” để chỉ ra một
mặt trách nhiệm của người cán bộ, công chức trong xây dựng một Nhà nước
mới – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Trong q trình lãnh đạo xây
dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Hồ Chí Minh thường chỉ rõ
những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục.
Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những

thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch
với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm
lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh coi tham ơ, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở
trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những
người “lấy của cơng dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan
điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu, dù có hay
khơng, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng
nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.
Ngày 27/11/1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội
đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt
gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26/01/1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội
tham ơ, trộm cắp của cơng dân là tội tử hình. Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ
Chí Minh lên án gay gắt. Chính bản thân Người ln làm gương, tích cực
thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và cơng việc hằng ngày. Người biết
quý từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà
nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức lao động,
lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm,
một vấn đề quốc sách của mọi quốc gia. Liên đến bệnh tham ơ, bệnh lãng phí
9


là bệnh quan quan liêu, một căn bệnh không những có ở cấp trung ương, ở
cấp tính, ở cấp huyện mà cịn ngay ở cả cấp cơ sở.
Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp
trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán
bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với cơng việc thì trọng hình thức mà
không xem xét khắp mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu
làm cho chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ
không kiểm tra đến nơi đến chốn… thành thử có mắt mà khơng thấy suốt, có

tai mà khơng nghe thấu, có chế độ mà khơng giữ đúng, có kỷ luật mà không
nắm vững. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ơ,
lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ơ, lãng phí; muốn trừ
sạch bệnh tham ơ, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu. “Tư
túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo” những hành động trên gây mất đồn kết, gây rối
cho cơng tác.
Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệnạn bà con bạn hữu
mình khơng tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Trong chính quyền,
cịn hiện tượng gây mất đồn kết, khơng biết cách làm cho mọi người hịa
thuận với nhau, cịn có người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”. Ngồi
bệnh cậy thế, có người cịn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan Chính
phủ là thần thánh rồi… Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm
mất uy tín của Chính phủ.
1.2.3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật
Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đơi với đẩy mạnh giáo
dục đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa
quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong
đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm
lịch sử (kết hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”).
10


Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là
Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt,
thống nhất hài hịa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái
nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai.
Kỷ cương, phép nước thời nào cũng luôn được đề cao và phải được áp
dụng cho tất cả mọi người. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng
tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của mình để cảm hóa những

người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết
điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí
Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã dần hiểu ra và không
“sẩy chân” phạm pháp hoặc không đi theo địch.
1.2.4. Xây dựng Nhà nước trong sạch, hiệu quả
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân
có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng
Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học tập và quán triệt tư tưởng này để xây
dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ giai đoạn cách mạng mới là hết sức cần
thiết.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước đó được xây dựng trên nền
tảng lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những điều kiện thực tế
hiện nay của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011).
a) Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân.
11


Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản
trong yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đòi hỏi
phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân
chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng.
Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến
pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống. Cần chú ý đến

việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm
minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc
cá nhân nào gây ra. Có như vậy, dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất
nhân dân của Nhà nước ta.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực
thi nghiêm chỉnh pháp luật, còn cần chú ý thực hiện những quy tắc dân chủ
trong các cộng đồng dân cư, tùy theo điều kiện của từng vùng, miễn là các
quy tắc đó khơng trái với những quy định của pháp luật.
b) Kiện tồn bộ máy hành chính nhà nước
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đòi hỏi chú trọng cải
cách và xây dựng, kiện tồn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền
hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải
cách nền hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc
lực và có hiệu quả đối với nhân dân.
Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền
hà, sách nhiễu, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, sự sa sút phẩm
chất đạo đức cách mạng, năng lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay cịn cần chú ý cải
cách các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm cá nhân trong việc giải quyết
các khiếu kiện của công dân theo đúng những quy định của pháp luật; tiêu
12


chuẩn hóa cũng như sắp xếp lại đội ngũ cơng chức, xây dựng một đội ngũ cán
bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, tinh thơng chun mơn, nghiệp vụ.
Đội ngũ cơng chức yếu thì khơng thể nói đến một Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân thực sự vững mạnh. Do vậy, công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được đặt lên hàng đầu và phải được tiến
hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng.
c) Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

Công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng
của Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước thể hiện ở những nội dung như: Lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò
quản lý của Nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước: lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ
quan nhà nước, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên
hoạt động trong bộ máy nhà nước, bằng công tác kiểm tra, Đảng không
làmthay công việc quản lý của Nhà nước.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên
cơ sở bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước theo luật định.
Bản chất, tính chất của Nhà nước ta gắn liền với vai trò, trách nhiệm của
Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự
trong sạch, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là yếu tố quyết
định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

13


II. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC
2.1. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh hiện nay
Sự ổn định và phát triển bền vững của một chế độ chính trị phụ thuộc
vào nhiều nhân tố: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại. Chế độ chính trị ở nước ta hiện nay là chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, là chế độ nhất nguyên chính trị, do nhân dân làm chủ.

Đảng vừa là hạt nhân của hệ thống chính trị, vừa là người lãnh đạo hệ thống
chính trị, là tổ chức nịng cốt của chế độ chính trị, vừa là lực lượng lãnh đạo
chế độ chính trị. Đảng là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Hiến pháp
năm 2013). Chính vì vậy, sự tồn tại và phát triển của Đảng, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển bền vững chế độ
chính trị ở nước ta hiện nay và lâu dài.
Trong những năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được,
đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức khơng nhỏ. Bốn
nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp. Công tác xây
dựng Đảng cịn khơng ít hạn chế, khuyết điểm. “Tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận cịn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn;
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn cịn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng
viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”. Những khuyết điểm này mang tính
chất tương đối phổ biến (“một bộ phận khơng nhỏ”) ở nhiều ngành, nhiều cấp,
trong đó có cả một số cán bộ cao cấp, khuyết điểm này kéo dài qua nhiều
nhiệm kỳ chậm được khắc phục. Những khuyết điểm đó rõ ràng là rất nghiêm
trọng đối với một đảng có truyền thống cách mạng trên 86 năm như Đảng ta,
gây tác hại lớn và lâu dài với Đảng và chế độ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
14


chuyển hóa” nội bộ, làm cho Đảng dần xa rời bản chất cách mạng và khoa
học của một đảng cộng sản chân chính nếu khơng có giải pháp ngăn chặn hữu
hiệu. Những khuyết điểm nêu trên, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XII đã chỉ ra, “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương
và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe
dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Do vậy, nếu không ngăn chặn, đẩy lùi
suy thối trong Đảng, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ

để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh thì khơng những khơng duy trì
được sự tồn tại của Đảng mà cả chế độ xã hội chủ nghĩa cũng khơng cịn.
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước Việt Nam hiện nay
2.2.1. Về ưu điểm
Thứ nhất, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước
được nâng lên, cơ cấu hợp lý hơn.
Hội nghị Trung ương 7, khóa XII đánh giá về cán bộ: Sau hơn 20 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khoá VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ
cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng
ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc,
ngành nghề, lĩnh vực cơng tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy
hoạch khá dồi dào, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ
luật, ln tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu,
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng
với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế... Cán bộ
cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,

15


có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Trên thực tế, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại các bộ, ngành, cơ
quan chuyên môn của ủy ban nhân dân từng bước được nâng lên về trình độ
chun mơn, chất lượng và hiệu quả cơng tác. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực

hiện tốt theo kế hoạch hằng năm. Việc tổ chức các kỳ thi nâng ngạch cho đội
ngũ công chức, viên chức được thực hiện thường xuyên hơn; qua đó số lượng
chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính làm việc tại các bộ, ngành và cơ quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã được tăng lên. Công tác tổ
chức cán bộ, tuyển dụng, bổ nhiệm, quy hoạch, đề bạt, luân chuyển đội ngũ
cán bộ, công chức phù hợp với trình độ chun mơn, nghiệp vụ đào tạo và
năng lực sở trường công tác được quan tâm, chú trọng gắn với đổi mới cơ cấu
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bộ máy hành
chính nhà nước ngày càng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn
Đại hội XII khẳng định: Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện
toàn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác
của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp
hơn. Chỉ đạo việc thực hiện thí điểm một số mơ hình đổi mới về tổ chức bộ
máy chính quyền địa phương. Chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên
chức trong hệ thống chính trị từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Năm 2018, cơ quan Trung ương giảm 7 đơn vị tổng cục, 202 đơn vị cấp
vụ, cục, hơn 14.800 đơn vị cấp phòng, 11 lãnh đạo tổng cục, 178 lãnh đạo cấp
vụ cục, 881 lãnh đạo cấp phòng, giảm 933 biên chế do sắp xếp lại tổ chức[2].
Thứ ba, cơng tác quản lý cán bộ, cơng chức có nhiều đổi mới, tiến bộ
16


Trong giai đoạn 2011 - 2016, việc quản lý biên chế công chức, viên
chức được thực hiện thống nhất trên cả nước theo quy định của Luật Cán bộ,
công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật Tổ chức Chính phủ
năm 2001, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương

năm 2015, bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa quản lý biên chế công chức với
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; kết hợp giữa quản lý biên chế
cơng chức với tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm của công chức là cơ bản
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Tổng biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước từ
Trung ương đến cấp huyện trong giai đoạn 2011 - 2016 có xu hướng giảm,
đặc biệt là trong giai đoạn 2014 - 2016 với số lượng giảm trung bình mỗi năm
khoảng hơn 4.000 biên chế và tiếp tục giảm trong năm 2017. Đa số các bộ,
ngành, địa phương chấp hành tốt các quy định của pháp luật, thực hiện quản
lý và sử dụng đúng, thậm chí ít hơn số biên chế được giao. Cụ thể: có 12/15
bộ, cơ quan ngang bộ sử dụng đúng hoặc không sử dụng hết biên chế được
giao tại các tổng cục trực thuộc; 13/15 bộ, cơ quan ngang bộ dư biên chế tại
các vụ, cục trực thuộc, trong đó có một số bộ, cơ quan ngang bộ cịn dư biên
chế với số lượng khá lớn[3].
2.2.2 Về hạn chế, yếu kém
Một là, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh, cơ cấu cán bộ công chức,
viên chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII)
khẳng định: nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đơng nhưng chưa mạnh; tình trạng
vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thơng giữa các cấp, các
ngành cịn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số
chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa
học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán
bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả
17


cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc khơng đúng chun mơn,
sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong
môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế.

Mặc dù việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ, cơng chức, viên chức
đã được thực hiện trên cơ sở yêu cầu vị trí việc làm, nhưng cơ cấu cán bộ,
công chức, viên chức làm việc tại nhiều bộ, ngành, cơ quan chuyên môn của
ủy ban nhân dân tỉnh chưa hợp lý, vẫn còn tình trạng bị động, hụt hẫng giữa
các thế hệ cán bộ. Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế; số lượng chuyên
viên chính, chuyên viên cao cấp và tương đương trong một số ngành, lĩnh vực
còn chiếm tỷ lệ thấp; đội ngũ chun gia đầu ngành cịn ít, chưa có nhiều
chuyên gia đủ khả năng tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định chính
sách pháp luật và giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong giai đoạn hội
nhập quốc tế hiện nay. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, số lượng chuyên viên
cao cấp và tương đương, chuyên viên chính và tương đương hiện nay chiếm
tỷ lệ tương ứng là 0,8 % và 9,2 % so với tổng số công chức, viên chức của Bộ
và hệ thống thi hành án dân sự, chưa tương xứng với yêu cầu và tính chất, vị
trí cơng việc[6]. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, cơng chức vẫn cịn tư
tưởng làm việc theo kiểu bao cấp trước đây, khơng có tính cạnh tranh, thiếu
động lực để làm việc, suy giảm đạo đức, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu,
tham nhũng, lãng phí.
Hai là, cải cách hành chính cịn chậm, thiếu đồng bộ; tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Đại hội XII xác định: cải cách hành chính cịn chậm, thiếu đồng bộ,
chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính cịn phức tạp, phiền hà, đang là rào
cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành
mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả ở nhiều nơi chưa cao.
Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng.
18




×