Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Hành vi lợi tức của lần đầu phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.13 KB, 45 trang )

1




Tiểu luận

Hành vi lợi tức của lần đầu phát hành
cổ phiếu ra công chúng (IPO)







2


A. BÀI PAPER NGHIÊN CỨU:
Tóm tắt:
Bài paper này là một bài nghiên cứu sự kiện về hành vi lợi tức lần đầu phát
hành cổ phiếu ra công chúng IPO sau bong bóng dot com. Suất sinh lợi bất thường
lũy kế CAR được sử dụng để đo lường việc thực hiện này đối với chỉ số thị
trường. Kết quả gợi ý rằng thị trường định giá các đợt IPO một cách đúng đắn
trong dài hạn, vì vậy nó ủng hộ lý thuyết thị trường hiệu quả. Hơn nữa, CARs tỷ
trọng theo giá trị (bình quân gia quyền) chỉ ra rằng những IPO lớn thường tốt hơn
những đợt IPO nhỏ, tuy nhiên trong dài hạn thì không đoán trước được. Bài
nghiên cứu này đã tìm thấy lợi tức thị trường năm trước và hiện hành là 2 biến
quan trọng giải thích cho lợi tức trong ngắn hạn. Trong dài hạn, những biến quan
trọng là thị trường niêm yết và tỷ số khối lượng cổ phiếu giao dịch vào ngày đầu


tiên chào bán cổ phần.
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Hành vi lợi tức của lần đầu phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO)
Nhiều nhà nghiên cứu tài chính đã bị thu hút bởi hành vi lợi tức của IPO. Lý
thuyết họ đưa ra là chia thành 02 giai đoạn: Ngắn hạn và dài hạn. Trong hành vi
lợi tức dài hạn, tồn tại 2 lý thuyết đối lập nhau. Một bên là các nhà nghiên cứu như
Steven X.Zheng (2007) và Ritter (1994) dường như đồng ý rằng, nhìn chung các
đợt IPO kém hiệu quả hơn thị trường trong giai đoạn từ 3-5 năm sau khi phát
hành. Tuy nhiên, một nhóm học giả khác như Eugene E.Fama (1998) không thừa
nhận lý thuyết hiệu quả thấp và cho rằng thị trường hiệu quả trong việc định giá
chứng khoán. Vì vậy, IPO có thể kém hiệu quả hoặc hiệu quả hơn thị trường và
xác suất cho mỗi trường hợp là như nhau. Nếu mẫu được kiểm định tổng thể,
không một lợi tức bất thường cốt yếu nào được phân biệt.
3
Trong ngắn hạn IPO sinh ra 1 lợi tức dương là do việc định giá thấp hơn giá thị
trường của nhà bảo lãnh. Lợi tức dương là do sự chênh lệch giữa gía phát hành và
giá mở cửa. Nhà đầu tư xem điều này như một cơ hội để kiếm lợi nhuận hợp lý
trong thời gian ngắn. Tim Loughran and Jay R.Ritter (1994) ủng hộ tuyệt đối lý
thuyết định giá thấp hơn giá thị trường và đã cùng viết một bài báo khám phá và
đã nỗ lực giải thích hiện tượng này.
Chủ đề nghiên cứu:
Bài nghiên cứu của chúng tôi sẽ bao gồm một bài nghiên cứu sự kiện để quan
sát phản ứng của thị trường với các đợt IPO. Các quan sát được sử dụng để kiểm
định lý thuyết thị trường hiệu quả dựa trên thị trường Mỹ trong những khoảng thời
gian khác nhau. Ngắn hạn là event window - giai đoạn phát hành, là 5 ngày giao
dịch đầu tiên. Sau đó là post event window, là sau 5 ngày giao dịch đầu tiên, mà
việc thực hiện năm đầu tiên cũng chia làm 2 giai đoạn: 6 tháng đầu và 6 tháng sau.
Chúng tôi sẽ áp dụng phương pháp suất sinh lợi bất thường lũy kế CARs để đo
lường việc thực hiện vì chúng tôi cho rằng phương pháp này là phù hợp hơn cả.
Trong sử dụng dữ liệu, chúng tôi sẽ kiểm định và cố gắng chứng minh các lý

thuyết nghiên cứu trước về hành vi lợi tức ngắn hạn và dài hạn của IPO. Thêm vào
đó chúng tôi sẽ chạy một số hàm hồi quy để kiểm tra khả năng giải thích của các
biến tác động đến hành vi lợi tức.
Tranh luận lý thuyết:
Lý thuyết hiệu quả thấp làm suy yếu lý thuyết thị trường hiệu quả. Điều này
phát sinh từ phương pháp khác nhau được áp dụng để đo lường hiệu quả. Về lý
thuyết hiệu quả thấp, phương pháp lợi tức bất thường BHARs từ việc mua và giữ
được sử dụng để đo lường hiệu quả IPO trong dài hạn. Tóm lại, BHARs gộp lợi
tức ở các thời kỳ riêng rẽ hàng tháng lại với nhau. Tuy nhiên giả thuyết nghịch lại
sử dụng phương pháp CARs để đo lường hiệu quả. Theo Fama (1998), việc sử
dụng CAR để đo lường hiệu suất trong dài hạn đáng tin cậy hơn vì phương pháp
BHAR gộp hiệu suất thấp của năm trước vào và gây ra một lợi tức thấp giả mạo.
4
Trong khi CAR là tổng các khác biệt giữa logarit của lợi tức thực tế và lợi tức
mong đợi, điều này loại bỏ được tác động kép.
Giả thuyết:
Chúng tôi tin rằng thị trường định giá chứng khoán chính xác và vì vậy lý
thuyết thị trường hiệu quả được duy trì. Sự hiệu quả của thị trường sẽ được quan
sát trong thời gian post event window nơi mà không một lợi tức bất thường có ý
nghĩa thống kê nào khác 0. Đối với giai đoạn event window, chúng tôi kỳ vọng tìm
thấy lợi tức dương có ý nghĩa trong ngày giao dịch đầu tiên. Hơn nữa, quy mô của
doanh nghiệp IPO có mối quan hệ mật thiết với hiệu suất; doanh nghiệp có quy
mô lớn được kỳ vọng có hiệu suất tốt hơn những doanh nghiệp nhỏ.
Giới hạn nghiên cứu:
Liên quan đến dữ liệu thu thập và thời gian nghiên cứu, chúng tôi không thể
thực hiện kiểm định dài hạn 3 năm sau năm 2003. Vì vậy năm 2004 và 2005
chúng tôi giả định dài hạn là 1 năm sau ngày IPO. Hơn nữa, dữ liệu bị thiếu thông
tin về một vì đặc tính doanh nghiệp như tỷ lệ giá trị sổ sách trên giá thị trường,
quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ IPO, và những yếu tố khác có thể được sử dụng như
các biến giải thích trong hồi quy đa biến.

Sơ lược bài nghiên cứu:
Chương tiếp theo sẽ cung cấp những lý thuyết nền về IPO và thảo luận nhiều
vấn đề mà nhà quản lý phải xem xét khi phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Chương 3 sẽ gồm những nghiên cứu trước và giải thích sự khác nhau giữa phương
pháp BHAR và CAR. Sau đó Chương 4 sẽ là phương pháp mà chúng tôi áp dụng
để đo lường lợi tức và giải thích ý nghĩa của các biến được sử dụng trong hàm hồi
quy. Chương 5 mô tả dữ liệu và cơ sở các khoảng thời gian nghiên cứu. Chương 6
là kết quả và sự liên kết với giả thuyết. Cuối cùng Chương 7 là kết luận, các nhận
xét về nghiên cứu.
CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT NỀN VỀ IPO
5
IPO là gì?
IPO là lần đầu tiên mà một doanh nghiệp bán cổ phần phổ thông của mình cho
nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu để tăng
nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. Để bắt đầu một đợt IPO phải thuê một tổ
chức tài chính chuyên biệt gọi là nhà bảo lãnh. Nhà bảo lãnh hoạt động như một tổ
chức trung gian giữa doanh nghiệp phát hành và công chúng. Doanh nghiệp bán cổ
phần phổ thông thông qua nhà bảo lãnh tại mức giá được gọi là giá chào bán, và
sau đó giá khởi điển của ngày giao dịch đầu tiên được gọi là giá mở cửa. Giá chào
bán hầu như luôn thấp hơn giá mở cửa.
Kinh tế vĩ mô tác động đến IPO
Tần suất các đợt IPO phụ thuộc vào tình hình kinh tế vĩ mô, cụ thể là trong
suốt năm 1975 chỉ có 6 đợt IPO ở nước Mỹ đối với các doanh nghiệp phi tài
chính, bởi vì nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái. Mặt khác, có tới 660 đợt
IPO đối với các công ty phi tài chính Mỹ trong năm 1996 khi mà nền kinh tế đang
thịnh vượng (Ogden, Jen và O’Connor 2003). Các nhà quản trị của công ty phát
hành với sự tư vấn của nhà bảo lãnh cố gắng bắt đầu một IPO khi họ tin rằng thị
trường có khả năng tốt hơn trong việc định giá cao công ty họ, điều này gọi là
đúng thời điểm thị trường. Quan hệ thời điểm này được đánh giá chính xác ở đồ
thị 1, đồ thị đưa ra số IPO trong một tháng và chỉ số S&P 500 trong cùng kỳ. Đồ

thị giải thích một mối liên hệ rõ ràng giữa hai biến này trong giai đoạn từ 2001 đến
2007.
6


Động cơ đằng sau các đợt IPO
Ở một vài thời điểm trong chu kỳ của doanh nghiệp, nhà quản trị phải quyết định
liệu có nên phát hành cổ phiếu ra công chúng hay không, vậy thì phát hành IPO
hay duy trì sở hữu như nhân. Theo quan điểm của doanh nghiệp, nguyên nhân
chính để thúc đẩy một IPO là để tăng nguồn vốn bổ sung. Sau đây là những mục
đích chính của nguồn vốn bổ sung:
 Tăng đầu tư vào vốn
 Phát triển sản phẩm, điều này bao gồm nghiên cứu và phát triển
 Trả nợ
 Mua bán và sáp nhập
 Những lý do khác như tăng vốn lưu động
Mặt khác cách nhìn nhận của các nhà tài chính trước đó, thường là các nhà đầu tư
mạo hiểm, xem IPO như là chiến lược hiện hữu có thể mang lại lợi nhuận.
Có nhiều lợi ích từ việc phát hành cổ phiếu ra công chúng từ góc nhìn quản trị. Bắt
đầu với việc công ty giành được quyền tiếp cận phương thức tài chính mới, điều
đó mang lại lợi ích cho công ty nếu yêu cầu nguồn vốn bổ sung trong tương lai.
Hơn nữa có sự tách biệt về sở hữu và quản lý nghĩa là những dự án rủi ro hơn có
7
thể cam kết khả năng có một lợi nhuận cao hơn mà nhà quản trị kiềm chế lại khi
nguồn vốn của họ được đầu tư. Cuối cùng, một đợt IPO có thể giúp giảm nợ và
tăng tỷ lệ tín dụng.
Những chi phí liên quan đến IPO
Có một vài bất lợi liên quan đến lợi ích, việc mà nhà quản trị xem xét trước khi
bắt đầu IPO. Chi phí đáng chú ý nhất là việc định giá thấp hơn giá thị trường vì
điều này tiềm năng tạo ra một lợi nhuận bổ sung. Ritter (2006) xem chi phí này

như khoản tiền còn lại trên bảng. Thêm nữa, có những thông tin bất cân xứng và
chi phí đại diện của sự tùy tiện trong quản trị liên quan đến sự tách biệt về sở hữu
và quản lý. Chi phí khác đó là chênh lệch phải trả cho nhà bảo lãnh, thời gian nhà
quản trị chuẩn bị cho một đợt IPO cũng như các hoạt động quan hệ với nhà đầu tư,
và những chi phí chung khác như dịch vụ kiểm toán và pháp lý.
Vai trò của nhà đầu tư mạo hiểm
Các nhà đầu tư mạo hiểm nhìn (VCs) nhận một IPO như là một chiến lược hiện
hữu có khả năng tạo ra lợi nhuận cho khoản đầu tư của họ. VCs có thể đóng một
vai trò quan trọng trong việc đưa ra sự giám định cho các doanh nghiệp để đảm
bảo cho đợt IPO diễn ra suôn sẻ. Họ cũng tư vấn trong việc thương lượng để đưa
ra giá chào bán và làm giảm đi vấn đề bất cân xứng thông tin. Hơn nữa, VCs rất
giỏi trong việc định ra thời điểm đúng đắn để IPO để cho lợi nhuận cao nhất.
Quy trình của một IPO
Vai trò của nhà bảo lãnh
Vai trò chính của nhà bảo lãnh là đóng vai trò trung gian của công ty và công
chúng trong việc làm giảm thông tin bất cân xứng. Tiếp theo, nhà bảo lãnh thiết
lập giá chào bán, sau đó đóng vai trò như nhà đại lý chuyển nhượng; chúng tôi sẽ
thảo luận về hai phương pháp chào bán sau. Nhà bảo lãnh cũng có thể tư vấn và
cung cấp các hỗ trợ pháp lý như gửi hồ sơ cho Ủy ban chứng khoán SEC, hơn nữa
là giúp doanh nghiệp hoàn tất những yêu cầu cần thiết theo quy định. Một số nhà
8
bảo lãnh đưa ra những hỗ trợ sau thị trường như nhà tạo lập thị trường trong giai
đoạn đầu của IPO.
Việc xem xét những vai trò khác nhau mà một nhà bảo lãnh có thể thực hiện, việc
lựa chọn một nhà bảo lãnh tối ưu là nhiệm vụ quan trọng trong quy trình IPO. Một
doanh nghiệp phải chọn một nhà bảo lãnh phù hợp với quy mô và ngành nghề của
doanh nghiệp, vì một vài nhà bảo lãnh có thể chuyên sâu vào một vài lĩnh vực còn
số khác thì có thể bảo lãnh chung hơn. Một yếu tố khác đó là các loại phí mà nhà
bảo lãnh thu như phí chênh lệch bảo lãnh hoặc họ có thể yêu cầu chứng quyền.
Hơn nữa nhà quản trị cũng nên xem xét nhà bảo lãnh có cung cấp những hỗ trợ về

pháp lý và tài chính sau khi chào bán hay hỗ trợ hậu mãi hay không.
Phương thức chào bán
Như đã đề cập ở phần trước, có hai loại kỹ thuật chào bán, theo lý thuyết gọi là
phương thức cam kết chắc chắn và phương thức nỗ lực cao nhất. Phương thức đầu
tiên là khi nhà bảo lãnh mua tất cả cổ phần của công ty tại giá chào bán và sau đó
bán lại trên thị trường, ở đây nhà bảo lãnh chịu rủi ro của việc bán cổ phần. Trong
khi phương thức nổ lực cao nhất, nhà bảo lãnh đóng vai là nhà môi giới, họ tìm
người mua tốt nhất và thương lượng mức giá cao nhất có thể; thông thường việc
sử dụng phương thức này, doanh nghiệp phát hành không có một mức giá cố định
nhưng thay vào đó là dao động trong một khoảng và gánh chịu rủi ro giá cả.
(Ogden, Jen and O’Conner 2003)
Xem xét thị trường để niêm yết
Cuối cùng, các doanh nghiệp phát hành IPO phải chọn thị trường để niêm yết.
Trước khi NASDAQ được thành lập vào những năm 1970, hầu hết các doanh
nghiệp giao dịch trên thị trường không chính thức OTC. Chỉ có một vài công ty
lớn và tốt mới có thể niêm yết trực tiếp trên sàn giao dịch chứng khoán New York
bởi vì nhiều yêu cầu cao. Tuy nhiên, sau khi NASDAQ thành lập, hầu hết các
9
doanh nghiệp vừa và nhỏ niêm yết ở đây trước khi niêm yết trên NYSE vì
NASDAQ có chính sách quy định thoáng hơn.
CHƯƠNG 3: CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Hành vi thực hiện IPO nhận được sự quan tâm khá lớn từ các học giả tài chính.
Họ đã áp dụng các phương pháp khác nhau cũng như là các mẫu thời kỳ khác nhau
trong nghiên cứu. Các nghiên cứu trước đã đồng tình rằng các công ty phát hành
IPO được định giá thấp bằng giá chào bán của nhà bảo lãnh. Việc giảm giá này
khiến cho thị trường điều chỉnh ngay lập tức được chuyển dịch vào lợi tức hấp dẫn
trong ngày giao dịch đầu tiên. Tuy nhiên, hành vi lợi tức đầu tư IPO dài hạn tiếp
theo là dẫn đến sự phát triển của hai học thuyết đối lập. Học thuyết đầu tiên, cái
được chấp nhận và thảo luận trong thời gian dài rằng các doanh nghiệp IPO có
hiệu quả thấp dài hạn trong mối so sánh với một chỉ số thị trường ít nhất từ 3 đến 5

năm sau đó. Học thuyết thứ hai, các doanh nghiệp IPO không hoạt động kém hiệu
quả trong dài hạn. Họ tin vào lý thuyết thị trường hiệu quả. Hay nói cách khác, các
doanh nghiệp IPO có thể có hiệu quả thấp hoặc cao. Phần còn lại của chương này
sẽ đi sâu vào cách nhìn nhận mỗi học thuyết và bình luận về kết quả của những
nghiên cứu trước đây.
Việc định giá thấp hơn thị trường và giả thuyết hiệu quả cao trong ngắn hạn
Các nhà nghiên cứu thường tìm thấy rằng đa số các doanh nghiệp IPO bị định
giá thấp hơn gía thị trường bởi các nhà bảo lãnh của họ. Điều này tạo một lợi tức
lớn cho các nhà đầu tư, những người có thể mua được ở giá chào bán của nhà bảo
lãnh. Có một số giải thích khác nhau về sự định giá thấp này cũng như là hiệu quả
cao trong ngắn hạn của các doanh nghiệp IPO tiếp theo sau đây.
Nguyên nhân phổ biến nhất của hiệu quả cao trong ngắn hạn là do việc định giá
thấp hơn giá thị trường. Việc định giá thấp hơn giá thị trường có một số cách diễn
giải. Một trong số đó là bao gồm sự không chắc chắn về giá trị của cổ phần chào
bán. Sự không chắc chắn này gia tăng khi chúng tôi xem xét có thông tin bất cân
10
xứng giữa nhà đầu tư ít thông tin và nhà đầu tư nhiều thông tin. Nhà đầu tư thiếu
thông tin có khả năng chịu sự chê bai của người thắng cuộc khi họ giao dịch với
nhà đầu tư nhiều thông tin. Vì vậy để thu hút các nhà đầu tư ít thông tin, nhà bảo
lãnh phải định giá thấp hơn giá thị trường cổ phần chào bán. Các tác giả khác cũng
cho rằng một số doanh nghiệp có thể tự làm thấp giá cổ phiếu của họ như là một
cách báo hiệu và tạo sự khác biệt cổ phiếu của họ với những doanh nghiệp giá trị
thấp hơn. Điều này thu hút nhiều nhà đầu tư hơn, những người cộng tác với các
nhà phân tích, tạo ra thông tin mà sau đó sẽ phản ánh lên giá cả ở thị trường thứ
cấp. Một lý do khác của việc định giá thấp hơn giá thị trường là rủi ro tranh chấp
của nhà bảo lãnh. Như là một bên trung gian giữa nhà phát hành và nhà đầu tư,
nhà bảo lãnh có thể kiếm lợi nhuận bằng cách thiết lập một mức giá cao cho cổ
phiếu mới. Nếu nhà đầu tư thấy rằng giá này là quá cao, nhà bảo lãnh có thể bị
kiện, khả năng thắng kiện thuộc về nhà đầu tư.
Thêm một giải thích tranh luận rằng thị trường quá lạc quan tiềm ẩn một nguyên

nhân cho hiệu hiệu quả cao. Vì các doanh nghiệp IPO được định giá thấp và có sự
kỳ vọng lợi nhuận cao ở thị trường kéo theo, điều này làm cho giá tăng lên. Một
vài học giả cho rằng IPO theo đó có giá trị hơn các công ty so sánh. (Purnanadam
and Swaminathan 2004, Zheng 2007). Như chúng tôi đã đưa ra trong chương
trước (Biểu đồ 1), các doanh nghiệp bắt đầu IPO khi có những điều kiện thị trường
thuận lợi. Khi nhà đầu tư lạc quan và sẵn lòng trả giá cao hơn cho cổ phiếu chào
bán.
Một nguyên nhân khác cho hiệu quả cao trong ngắn hạn là kết quả của việc hạn
chế cung cổ phần trong suốt những ngày đầu giao dịch. Tồn tại một sự hạn chế
cung vì một số lượng nhỏ các cổ phiếu lưu hành thành công trong chào bán
(Zheng 2007). Một hạn chế khác là, sự giới hạn cung cổ phần trong một IPO là sự
thỏa thuận kín. Đó là trước khi IPO chủ sở hữu và người trong công ty đồng ý giữ
cổ phần trong một khoảng thời gian sau khi chào bán. Thời gian này thường là 180
ngày. Trung bình các cổ phiếu bị phong tỏa sau chào bán từ năm 1991 đến năm
11
200o là 65% (Odgen et al 2003). Thêm vào đó, trong suốt những ngày giao dịch
đầu tiên cũng có những hạn chế bán ngắn hạn. Xem xét đồng thời các yếu tố, cổ
phiếu sẽ trở nên khan hiếm. Vì vậy các nhà đầu tư sẽ không nhận lượng cổ phiếu
tối ưu trong IPO, họ sẽ thường mua thêm cổ phần để đạt đến sự phân bổ tối ưu.
Hoặc khi họ kỳ vọng bán một số lượng nhỏ các cổ phiếu đã nhận ở mức giá cao
hơn mức giá chào bán. Một IPO bị khan hiếm thường dẫn đến tăng giá trong ngắn
hạn ở thị trường thứ cấp (Ellis 2005 and Zheng 2007). Vì cung hạn chế, quan điểm
của nhà đầu tư bi quan sẽ không được phản ánh trong giá suốt giai đoạn đầu của
thị trường thứ cấp. Trong thời gian đó, quan điểm tiêu cực này không hợp lại trong
giá cổ phiếu, giá IPO thường được định giá cao.
Cầu và số lượng cổ phiếu giao dịch lớn cũng là nguồn gốc của việc tăng giá
dẫn đến hiệu quả cao trong ngắn hạn. Khối lượng giao dịch trong những ngày đầu
là rất lớn, tương đương 70% cổ phiếu chào bán (Aggarwal 2003). Như đã đề cập,
IPO thường khan hiếm. Thêm vào đó, các nhà môi giới, nhà đầu tư tìm kiếm lợi
nhuận bằng cách bắt kịp sự dịch chuyển giá của các cổ phiếu biến động, thiết lập

một khối lượng giao dịch lớn (Geczy et al 2002, Ellis 2005). Chúng tôi sẽ đề cập
trong chương 6, lợi tức IPO khá biến động trong những ngày giao dịch đầu tiên.
Các nhà đầu cơ, những nhà đầu tư nhận cổ phiếu trong đợt IPO và bán chúng
trong một vài ngày tiếp theo, cũng ảnh hường đến khối lượng giao dịch trong ngắn
hạn. Cuối cùng, thị trường vi mô, nơi mà các nhà môi giới sắp xếp các cổ phiếu
tồn kho để giữ vai trò người tạo thị trường cho những cổ phiếu mới cũng ảnh
hưởng đến khối lượng giao dịch lớn. Nhà môi giới giao dịch chiếm 23% tổng khối
lượng giao dịch trung bình (Ellis 2005).
Giả thuyết hiệu quả thấp trong dài hạn
Các bài nghiên cứu thực nghiệm của các học giả khác nhau cho rằng cổ phiếu
IPO hiệu quả cao trong dài hạn (Loughran, Ritter and Rydqvist 1994, Ogden etal
2003, Zheng 2007). Có một vài giải thích cho hiện tượng này được tìm thấy. Một
12
vài trong số đó có quan hệ mật thiết với các giải thích đã được đề cập trước đây
trong phần hiệu quả ngắn hạn.
Trước hết, quá lạc quan và hành động thái quá là một vài nguyên nhân. Một số
IPO diễn ra thành công khi định giá cao. Các nhà đầu tư cho rằng các đợt IPO
đứng trước khả năng sinh lời lớn ở thời điểm phát hành ra công chúng. Nhiều nhà
đầu tư sai lầm khi nhận định rằng tăng trưởng lợi nhuận thường là phương thức
hoàn trả, và vì vậy lợi tức của IPO trong dài hạn hoàn trả lại trong kế sách của họ,
nói cách khác chúng giảm. Điều này sẽ dẫn đến lợi tức giảm trong dài hạn đối với
những nhà đầu tư mà sẽ phản hồi lại bằng cách bán cổ phiếu ra. Hiện tượng này có
thể được giải thích như là thị trường từ từ điều chỉnh vì hành động thái quá trong
quá khứ.
Một cách giải thích khác cho hiệu quả cao trong dài hạn là vấn đề đại diện liên
quan đến tiền mặt nhận được trong đợt IPO. Các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra
rằng thị trường phản ứng yếu với vấn đề chi phí đại diện liên quan đến tiền mặt
mới gia tăng trong IPO. Điều này chuyển đổi vào việc định giá cao trong ngắn hạn
và hiệu quả thấp trong dài hạn. Hiện tượng này nhạy cảm hơn khi doanh nghiệp có
chi phí vốn thấp hơn hoặc chênh lệch giá mua bán ngày mở cửa cao hơn (Zheng,

2007).
Houge, Loughran, Suchanek and Yan (2001) đã tìm thấy mối quan hệ giữa sự
không chắc chắn ban đầu về giá trị của doanh nghiệp IPO và hiệu quả tiếp sau của
nó. Cụ thể là chúng tôi thấy rằng các doanh nghiệp với mức chênh lệch lớn giữa
giá mua và bán ban đầu, tỷ lệ đầu cơ cao và mở cửa trễ có lợi tức thấp trong dài
hạn. Đặc tính này phản ánh sự khác nhau về quan điểm và sự không chắc chắn về
giá trị tạo ra được lợi tức cao trong ngắn hạn và hiệu quả thấp trong dài hạn.
Một nguyên nhân khác cho giả thuyết hiệu quả thấp trong dài hạn là sự hạn chế
cung bị loại bỏ sung thời gian IPO. Điều này diễn ra là vì nhà tạo thị trường hoàn
thành cổ phiếu tồn và thỏa thuận phong tỏa đã hết hiệu lực. Điệu kế tiếp thường
xảy ra sau 180 ngày và nó cho phép những người bên trong công ty giao dịch cổ
13
phiếu. Xấp xỉ 65% cổ phiếu đang lưu hành bị phong tỏa, vì vậy chỉ những cổ
phiếu giữ lại mới có thể giao dịch trong suốt 6 tháng đầu (Zheng, 2007, Ogden et
al 2003). Do đó cung của cổ phiếu có thể giao dịch tăng trong khi áp lực cầu giảm.
Lý thuyết thị trường hiệu quả
Nhiều bài nghiên cứu gần đây đã phản đối hành vi hiệu quả thấp trong dài hạn
của IPO như đã đề cập ở trên. Sư khẳng định chính của các tác giả này là thị
trường hiệu quả phản ứng lại với IPO và vì vậy không thể dự đoán trước được
phản ứng thái quá hay phản ứng yếu. Có hai sự giải thích chính được tìm thấy, một
có mối quan hệ đến phương pháp, thứ hai là có mối quan hệ đến đặc tính của
doanh nghiệp.
Fama (1998) tranh luận rằng “thị trường hiệu quả tồn tại một sự thách thức về
lý thuyết lợi tức bất thường trong dài hạn”. Hiệu quả thấp của lợi tức dài hạn có
khuynh hướng mất đi khi kỹ thuật áp dụng được thay đổi hợp lý, do đó khả năng
bất thường có thể bị phụ thuộc vào phương pháp sử dụng. Nói chung biến cố trọng
yếu của phản ứng thái quá hoặc phản ứng yếu là không thể xác định được. Việc
phân chia không dự đoán được này được đưa ra, nó chứng tỏ rằng thị trường hiệu
quả vẫn duy trì. Nếu thị trường hiệu quả duy trì, giá trị mong đợi của lợi nhuận bất
thường là zero, tuy nhiên có những bất thường hiển nhiên mà ngẫu nhiên dẫn đến

phản ứng thái quá hoặc phản ứng yếu.
Gompers and Lerner (2003) cũng chỉ rõ rằng sự bất thường phụ thuộc vào
phương pháp đo lường. Họ chỉ ra rằng khi phương thức BHAR được sử dụng thì
xuất hiện hiệu quả thấp. Ngược lại khi sử dụng phương pháp CARs, thì hiệu quả
thấp biến mất. Chương 4 đã trang bị các phương thức này được sử dụng trong bài
nghiên cứu chúng tôi, đã mô tả một cách chi tiết.
Brav and Gompers (1997) tìm thấy một sự giải thích cho hiệu quả IPO thấp
trong dài hạn. Một vài đặc tính của doanh nghiệp IPO ảnh hưởng hiệu quả của
chúng trong tương lai. Khi những đặc tính này được xem xét bằng phương pháp
14
lợi tức bất thường, điều bất thường đã giảm xuống đáng kể. Họ đã lập ra danh mục
đầu tư các đợt IPO khác nhau theo quy mô và tỷ lệ giá sổ sách trên giá thị trường
của vốn cổ phần. Sau khi sử dụng điểm chuẩn để kiểm soát các biến, họ thấy rằng
sự bất thường đã biến mất. Họ đã kết luận rằng ở nhiều IPO ở các công ty nhỏ, lợi
tức bị tác động tiêu cực khi toàn bộ mẫu có tỷ trọng tất cả như nhau. Ngược lại,
khi mẫu là khác nhau thì sự tác động tiêu cực giảm đi đáng kể và không khác giá
trị 0 là mấy. Lợi tức IPO thấp là như nhau đối với các công ty có cùng quy mô và
tỷ lệ giá sổ sách trên giá thị trường của vốn cổ phần. Vì vậy hiệu quả IPO thấp
trong dài hạn bị hạn chế cơ bản đối với các công ty nhỏ.
CHƯƠNG 4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được chia làm 2 phần:
Phần 1: nghiên cứu sự kiện, trong đó, tác giả cố gắng đo lường lợi tức bất
thường từ IPOs trên mẫu được chọn. Tác giả đã sử dụng các phương pháp ước
lượng và danh mục khác nhau nhằm mục tiêu khám phá ra sự tồn tại của lợi tức
bất thường, có ý nghĩa khác 0.
Phần 2: áp dụng phương pháp hồi quy tuyến tính, sử dụng các biết giải thích
khác nhau. Mục tiêu là tìm ra tác động tích cực hoặc tiêu cực của các biến lên lợi
tức bất thường khi IPO.
Cơ sở lý luận
Để khám phá tác động của sự kiện phát hành IPO lên lợi tức bất thường, tác giả

sử dụng phương pháp “lợi tức bất thường tích lũy” (cumulative abnormal return –
CARs). Một phương pháp khác thay thế CARs là phương pháp “mua và giữ lợi tức
bất thường” (buy and hold abnormal returns – BHARs). Phương pháp mà tác giả
áp dụng đã được trình bày bởi nhiều nhà nghiên cứu trước là đầy đủ nhất để đạt
mục tiêu bài nghiên cứu.
Fama (1998), and Gompers and Lerner (2003) kết luận rằng sử dụng phướng
pháp CARs được ưu chuộn hơn BHARs. “Mua và nắm giữa” có thể làm tăng ảnh
15
hưởng của tính hiệu quả thấp bởi vì nó kết hợp lợi tức của kỳ trước. Lý do này làm
cho việc công ty hoạt động kém hiệu quả trong quá khứ có thể bị phóng đại.
Nguyên nhân này sẽ dẫn đến việc bác bỏ sai lý thuyết Thị trường hiệu quả. Fama
(1998) mô tả phương pháp BHARs như là vấn đề mô hình xấu và BHARs trở nên
nhạy cảm khi khoảng thời gian mà nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vốn tăng thêm. Mặc
khác, phương pháp CARs không bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp lợi tức của kỳ trước.
Tuy nhiên, vấn đề mô hình xấu trở nên ít quan trọng nếu quan sát theo ngày hoặc
trong thời gian ngắn, bởi vì lợi tức kỳ vọng sẽ tiến đến 0. Trong trường hợp này,
có ít ảnh hưởng lên lợi tức bất thường trong ngắn hạn. Mặc dù vậy, Fama (1998)
đề xuất rằng việc xem xét cả về lý thuyết lẫn thống kê, lợi tức dài hạn có được
bằng cách cộng các lợi tức bất thường ngắn hạn hoặc dựa trên các mức trung bình
tốt hơn BHARs. Vì những lý do đã đề cập ở trên, tác giả sẽ dựa trên phương pháp
CARs cho nghiên cứu này.
Nghiên cứu sự kiện: đo lường lợi tức bất thường
Để thực hiện “nghiên cứu sự kiện” biến động của giá cổ phần, ta phân tích,
đánh giá xung quanh ngày IPO. Khoảng thời gian diễn ra sự kiện và khoảng thời
gian sau sự kiện được sử dụng để đo lường biến động của giá IPO trong ngắn hạn
và dài hạn. Khoảng thời gian diễn ra sự kiện sẽ được sử dụng để đo lường lợi tức
bất thường của IPO trong ngắn hạn. Khoảng thời gian diễn ra sự kiện bao gồm
khoảng thời gian ngay theo sau ngày phát hành. Tác giả chia khoảng thời gian diễn
ra sự kiện thành các phân đoạn khác nhau. Đầu tiên, tác giá đo lường sự định giá
thấp, đó là chêch lệch giữa giá mở cửa của ngày giao dịch đầu tiên với giá chào

bán của nhà bảo lãnh. Sau đó, tác giả quan sát ngày giao dịch đầu tiên trong 2
trường hợp “có” và “không có” sự định giá thấp. Lợi tức từ giá chào bán đến giá
đóng cửa của ngày giao dịch đầu tiên được xem như là “khoản tiền còn lại trên
bảng” (the money left on the table). Sự thật là giá IPO trải qua biến động lớn
trong ngày giao dịch đầu tiên, tác giả cũng lấy 5 ngày giao dịch đầu tiên tiếp theo
sau ngày IPO. Trong trường hợp này, tương tự ngày giao dịch đầu tiên, chúng tôi
16
quan sát với điều kiện có và không có sự định giá thấp.
Tác giả cũng chia “khoảng thời gian sau sự kiện” thành các phân đoạn khác
nhau. Khoảng thời gian sau sự kiện sẽ được sử dụng để đo lường lợi tức bất thường
một khi tác động của ngày giao dịch đầu tiên lắng xuống. Vì lý do này, tất cả các
đo lường hiệu quả trong dài hạn cũng không xem xét 5 ngày giao dịch đầu tiên.
Khoảng thời gian sau sự kiện được tính là 1 năm đầu tiên – chia làm 2 kỳ. Lý do
chia làm 2 kỳ là bởi thông thường sau 6 tháng, nhà đầu tư sẽ đánh giá lại hiệu quả
của một thỏa thuận đầu tư dài hạn. Một vài tác giả tìm ra tác động tiêu cực lên lợi
tức IPO sau khi nhà đầu tư đánh giá lại, bởi có một số nhà đầu tư riêng lẻ sẽ bán cổ
phần của mình từ đó làm cung tăng. Trong trường hợp IPOs trước năm 2004, cho
phép tác giả tăng khoảng thời gian sau sự kiện lên hơn 2 năm. Phần này của mẫu
cũng được phân tích cho khoảng thời gian 2 năm và 3 năm, riêng lẻ và lũy kế.
Các mô hình khác có thể được sử dụng khi thực hiện nghiên cứu sự kiện.
Thông thường khoảng thời gian trước sự kiện là để tính các tham số, đo lường hiệu
quả kỳ vọng bình thường dựa trên số liệu lấy trong khoảng thời gian đó (chưa có
sự kiện). Sau đó, so sánh với giá trị thực trong suốt sự kiện. Mô hình thị trường có
thể áp dụng cho mục đích này. Mô hình này giả định mối quan hệ ổn định giữa lợi
tức thị trường và 1 chứng khoán cụ thể. Mô hình sử dụng beta thị trường của chứng
khoản để loại bỏ thành phần của lợi tức mà được giải thích bởi nhiều biến của lợi
tức thị trường. Mô hình dạng đơn giản là mô hình thị trường điều chỉnh, được giả
định là hệ số α bằng 0 và beta thị trường bằng 1. Dẫn đến lợi tức IPO không có tích
hợp hiệu quả từ quá khứ, tác giả sử dụng mô hình này trong bài nghiên cứu. Nói
cách khác, lợi tức kỳ vọng bằng lợi tức thị trường trong mọi khoảng thời gian mà

tác giả phân tích. Để đo lường lợi tức bất thường tác giả sử dụng chỉ số S&P500
làm chuẩn. Do đó, lợi tức bất thường khi IPOs có thể bị lệch so với lợi tức của chỉ
số S&P500 trong cùng khoảng thời gian.
Mô hình thị trường để đo lường hiệu quả bình thường

17
Trong đó, ε là lợi tức bất thường:


Mô hình thị trường được điều chỉnh đơn giản hơn khi α = 0 và β = 1

Như vậy, theo cách này có thể tính được lợi tức bất thường cho mỗi ngày, dùng
logarit trên lợi tức IPOs và S&P500. Sau đó, tác giả tổng hợp, lũy kế suốt khoảng
thời gian để hoàn thành tính CAR của cổ phiếu i. CARs cho IPO cổ phiếu i từ ngày
t1 đến ngày t2 được miêu tả như sau:

γ
' là một vector của một cổ phần i từ t1 sang t2, bao gồm cả giá trị
Bước tiếp theo, tác giả sẽ tổng hợp CARs của tất cả các cổ phiếu. Chúng ta sẽ tính
được lợi tức bất thường trung bình khi IPO của tất cả các mẫu


Tính phương sai Var[ ]:

18
Nếu trong khoảng thời gian (t1, t2) bằng 0, tức là không có lợi tức bất thường
trong khoảng thời gian (t1,t2).
1. Do đó, kiểm định giả thuyết nghịch Ho: = 0, nếu bác bỏ Ho thì đồng
nghĩa là có lợi tức bất thường; H1: ≠ 0.
Tiếp theo tính:


Nếu Z > Zα/2 : bác bỏ Ho, tức có lợi tức bất thường.
2. Kiểm định hiệu quả cao hơn thị trường
Ho: = 0 (hoặc Ho: ≤ 0)
H1: > 0
Tính Z:

Nếu Z > Zα bác bỏ Ho, tức Hiệu quả cao hơn thị trường.
3. Kiểm định hiệu quả thấp hơn thị trường
Ho: = 0 (hoặc Ho: ≥ 0)
19
H1: < 0
Tính Z:

Nếu Z > Zα bác bỏ Ho, tức Hiệu quả thấp hơn thị trường
Mẫu của công ty có thể được chia theo các danh mục để xác định xem quy mô
công ty có ảnh hưởng đến lợi tức bất thường hay không.
Hồi quy đa biến: các biến giải thích có thể
Trong phần trước tác giả đã giải thích về cách đo lường lợi tức bất thường. Tác giả
cũng sẽ sử dụng những đặc tính để cố gắng xác định những yếu tố nào ảnh hưởng
đến lợi tức bất thường này. Tác giả sẽ sử dụng mô hình hồi quy đa biến. Biến phụ
thuộc là lợi tức bất thường. Các biến độc lập là các đặc tính của công ty. Các biến
độc lập có thể là:
1. Logarit quy mô công ty: được biết như là các công ty lớn thì hoạt động gần với
thị trường hơn. Do đó, các công ty nhỏ bị kỳ vọng hoạt động kém hiệu quả hơn
(Gompers and Lerner 2003). Tác giả sử dụng lấy logarit quy mô công ty để
dễ dàng tách biệt những dữ liệu bất thường. Ban đầu tác giả nghĩ đưa vào cả
logarit khối lượng phát hành, nhưng qua phân tích thấy có hệ số tương quan khá
cao (0.83) nên chỉ lấy biến là logarit quy mô công ty.
2. Float: là phần trăm số cổ phần đang lưu hành được đưa ra giao dịch(chào bán).

Biến này tác động theo hai hướng. Số lượng lưu hành được đưa ra giao dịch
thấp có thể hạn chế cung do đó làm tăng giá. Tuy nhiên, số lượng này quá thấp
có thể làm hạn chế tính thanh khoản của cổ phần nên giá cổ phần có thể giảm
20
(Ogden et al 2003). Tác giả cũng tìm thấy hệ số tương quan giữa số cổ phần
đang lưu hành được chào bán và chỉ số thanh toán tiền mặt mới (New cash ratio
– NCR) là 0.86 (Zheng 2007). Chỉ số thanh toán tiền mặt mới là dòng tiền mới
sẵn có của công ty, liên quan đến quy mô công ty sau khi chào bán cổ phần.
Chỉ số này ảnh hưởng đến việc sử dụng các quỹ (Ogden et al 2003). Float là
một khái niệm dễ hiểu hơn NCR, nên tác giả quyết định lấy biến Float vào mô
hình và bỏ NCR khi biết 2 biến này có hệ số tương quan cao.
3. Volume 1
st
day/Shares – Tỷ lệ khối lượng giao dịch ngày đầu tiên/số cổ phần
chào bán: Có một mối liên hệ mật thiết giữa lợi tức ban đầu với khối lượng giao
dịch ngày đầu tiên. IPOs hấp dẫn có đặc điểm lợi tức ngày đầu tiên cao và khối
lượng giao dịch lớn. Ngược lại, một cuộc IPOs kém hấp dẫn thường có khối
lượng giao dịch và lợi tức của ngày đầu tiên thấp (Ellis 2005). Đặc điểm này
ngụ ý đợt IPOs được định giá cao.
4. Market performance of the previous month – kịch bản thị trường của tháng
trước: yếu tố này đã được thảo luận nhiều bởi Ogden et al (2003), Ritter
(2006) and Fama (1998): cho rằng các công ty và nhà bảo lãnh định thời gian
để thành công trong phát hành IPO. Tác giả sử dụng lợi tức tích lũy theo ngày
của chỉ số thị trường cho tháng trước ngày kiểm định.
5. Thị trường: công ty có thể niêm yết trên sàn NYSE, Nasdaq, Amex. Về cơ
bản, các công ty niêm yết trên sàn Nasdaq bởi vì không đáp ứng được các yêu
cầu của sàn NYSE. Do đó, thông thường các công ty nhỏ ban đầu niêm yết ở
Nasdaq, rồi sau đó niêm yết ở NYSE khi đáp ứng đủ các yêu cầu của sàn
NYSE. Tác giả kỳ vọng mối quan hệ mật thiết giữa biến thị trường và biến quy
mô. Biến này được xem như là 1 biến giả, nó sẽ nhận giá trị là 1 nếu công ty

niêm yết trên sàn NYSE, và là 0 nếu công ty niêm yết trên các sàn khác.
6. Ngành: tác giả sẽ kiểm định mối quan hệ giữa các ngành đặc biệt và lợi tức bất
thường. Chúng ta quan tâm đến biến này khi quan sát lợi tức bất thường ngắn
21
hạn, để xem xét các ngành đặc biệt có phải là đối tượng bị định giá thấp hay
không. Tác giả phân loại mẫu theo các ngành sau: Sản xuất công nghiệp, Công
nghệ thông tin, Phương tiện truyền thông, Vận tải, Dịch vụ cao cấp, Bán lẻ, Tài
chính bảo hiểm, Hóa chất, Hàng hóa, Tiện ích, Bất động sản, Dược phẩm và
sức khỏe, Thực phẩm và đồ uống. Tuy nhiên, chỉ có hơn 60 quan sát thuộc các
ngành: Dược phẩm và sức khỏe, Tài chính bảo hiểm, Công nghệ thông tin là
thuộc các ngành năng động nhất được đưa vào mô hình như là biến giả.
7. Nhà bảo lãnh: tác giả xem xét biến này là biến giả. Nhà bảo lãnh lớn, uy tín thì
nhận giá trị 1, ngược lại nhận giá trị 0. Tác giả quan tấm đến quan sát khi lựa
chọn nhà bảo lãnh có ảnh hưởng đến việc định giá thấp cũng như là hiệu quả
dài hạn hay không. Nhà bảo lãnh cung cấp hơn 30 dịch vụ được xem là lớn, có
uy tín.
CHƯƠNG 5. Thu thập dữ liệu
Nhứng nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng kết quả IPO có thể bị ảnh hưởng bởi việc
phát hành của các công ty trong giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ những
năm 90, xem đồ thị 2. Thái độ quá lạc quan dẫn đến định giá cao, đặc biệt là công
ty công nghệ. Vì lý do đó, các công ty vội vã thực hiện IPOs, và kết quả là có
nhiều công ty được định giá cao và thiếu kinh nghiệm đã phát hành cổ phần trên thị
trường. Do đó, bong bóng này bị vỡ vào những năm đầu của thế kỷ 20.
Mẫu bao gồm IPOs từ nửa sau thập niên 90, có thể đối mặt với sự cường điệu của
lợi tức ban đầu và hiệu quả thấp hơn. Để tránh điều thiên vị có thể có này, trong
bài nghiên cứu này, tác giả loại trừ những năm có bong bóng chứng khoán. Do đó,
tác giả tập trung nghiên cứu kết quả IPO sau khoảng thời gian trên. Mẫu được tác
giả dùng từ năm 2001 đến 2005.
22


Danh sách các công ty IPOs và giá chào bán được lấy từ cơ sở dữ liệu của Hoover
1
. Giá thị trường của mỗi công ty được lấy từ 3 nguồn dữ liệu khác nhau: Quote
Media, Market Watch and Yahoo Finance
2
. Mẫu nghiên cứu bao gồm những lần
IPO có trong cơ sở dữ liệu của Hoover và giá hàng ngày của cổ phiếu đó trên thị
trường sẽ được lấy trong vòng 1 năm sau ngày phát hành. Yêu cầu khác là giá chào
bán phải ít nhất là 5 USD và quy mô phát hành ít nhất là 5 triệu USD. Do đó, từ
các tiêu chí đó, tác giả đã chọn ra được 535 công ty.
Bảng 1: Số lượng IPOs và quy mô phát hành Đv: triệu $
Năm Lượng IPOs

Trung bình

Trung vị Lớn nhất Nhỏ nhất
2001
47 $528 $130 $8,680 $8
2002
47 $295 $100 $4,600 $9

1
Hoover là tổ chức chuyên cung cấp dịch vụ phân tích công ty, phân tích ngành, phân tích tài
chính, cung cấp số liệu về công ty. Có trang wed là (theo tìm hiểu của
nhóm)
2
các tổ chức cung cấp các dữ liệu kinh tế, tài chính. Quote Media: ,
Market Watch: , Yahoo Finance:
23
2003

59 $220 $119 $2,876 $10
2004
199 $188 $100 $2,827 $11
2005
183 $165 $110 $1,288 $5
Tổng
535 $223 $105
Bảng 1 cho thấy rằng có sự tăng đáng kể lượng phát hành trong năm 2004 và 2005.
Điều này có thể liên quan mật thiết với thực tế thị trường chứng khoán Mỹ đang
phục hồi sau khủng hoảng. Như tác giả đã đề cập trong các chương trước, mẫu này
gắn kết với thực tế rằng nhà bảo lãnh và công ty phát hành cố gắng định thời gian
phát hành IPOs khi thị trường đang phát triển mạnh và có nhiều khả năng công ty
được định giá cao. Đối với phân bố quy mô của công ty IPOs, cho thấy rằng giá trị
trung bình lớn hơn giá trị trung vị. Là do, mẫu bao gồm nhiều công ty nhỏ và rất ít
công ty lớn.
Đồ thị 3 cho thấy phân bổ quy mô công ty IPOs được quan sát.

Bảng 2: Số lượng IPOs theo sàn Đv: triệu $
Lượng IPOs Trung bình Trung vị Lớn nhất Nhỏ nhất
AMEX 17 $53 $18 $255 $5
24
NASDAQ 314 $93 $72 $1,700 $6
NYSE 204 $437 $212 $8,680 $64
Total 535 $223 $105
Bảng 2 phân loại công ty IPOs theo sàn mà công ty sẽ niêm yết. Nhìn chung,
những công ty lớn thì niêm yết ở NYSE, những công ty nhỏ nhất thì niêm yết ở sàn
Amex. Nhìn vào xếp hạng quy mô công ty cho thấy sự nghiêm ngặt trong yêu cầu
tiêu chuẩn của mỗi sàn. Giá trị phát hành nhỏ nhất ở sàn NYSE là 64 triệu USD,
trong khi tương ứng với sàn Amex là 5 triệu USD và 6 triệu USD. Điều này chỉ ra
rằng có những khó khăn mà công ty nhỏ phải đối mặt nếu cố gắng niêm yết ở sàn

NYSE. Sàn Nasdaq năng động nhất với 314 quan sát, sàn Amex ít nhất với 17 cuộc
IPOs trong cùng khoảng thời gian.
Bảng 3: IPOs theo ngành ĐVT (triệu USD)


Số lượng

Trung bình

Trung vị Lớn nhất Nhỏ nhất
Dược phẩm & sức khỏe 90

$224 $62

$2,333

$12

Tài chính & bảo hiểm 73

$392 $126

$4,600

$9

Công nghệ thông tin 65

$134 $83


$1,700

$11

Dịch vụ cấp cao 57

$224 $118

$1,667

$12

Bất động sản 43

$239 $208

$703

$60

Hàng hóa 35

$156 $108

$570

$8

Phương tiện truyền thông 32


$239 $138

$1,025

$12

Bán lẻ 30

$102 $83

$324

$8

Vận tải 29

$210 $162

$609

$65

25
Thực phẩm & đồ uống 20

$560 $114

$8,680

$5


Tiện ích 13

$321 $144

$1,560

$11

Hóa chất 10

$450 $319

$1,288

$36

Xây dựng
9

$137 $135

$198

$22

Ngành sản xuất khác
29

$148 $114


$672

$6

Tổng
535 $223 $105



Trong bảng 3 tác giả đã nhóm các mẫu quan sát theo 14 ngành. Ngành sản xuất
khác bao gồm một số ngành công nghiệp phụ trợ như dệt may, sản phẩm bảo mật,
Auto Part và các ngành sản xuất khác. Trong mẫu quan sát, ngành Dược phẩm &
sức khỏe bùng nổ với số lượng IPOs lớn nhất trong khoảng thời gian nghiên cứu.
Kế đến là ngành Tài chính & bảo hiểm và Công nghệ thông tin đứng vị trí thứ 2 và
3 tương ứng. Những công ty nằm trong 3 nhóm ngành kể trên chiếm đến 43% khối
lượng phát hành.
Bảng 4: IPOs theo nhà bảo lãnh

Số lượng
Trung bình
(triệu USD)
Trung vị
(triệu USD)
Lớn nhất
(triệu USD)
Nhỏ nhất
(triệu USD)
Goldman, Sachs &
Co.


60

$460

$197

$4,600

$40

Morgan Stanley &
Co.

47

$413

$216

$2,827

$42

Credit Suisse Securities
LLC

46

$442


$76

$8,680

$42

Lehman Brothers
Inc.

41

$147

$120

$420

$42

Citigroup Global Markets
Inc

39

$245

$165

$1,288


$36

Merrill Lynch, Pierce,
Fenner

37

$156

$90

$846

$54

×