Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Thị trường cho vay Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.14 KB, 39 trang )

1









Tiểu luận

Thị Trường Cho Vay Việt Nam

2

MỤC LỤC


Trang
A – LỜI NÓI ĐẦU 2
B – THỊ TRƯỜNG CHO VAY VIỆT NAM 3
I. Giới thiệu về thị trường cho vay Việt Nam 3
1. Khái niệm về thị trường cho vay 3
2. Giới thiệu thị trường cho vay Việt Nam 3
II. Thị trường cho vay Việt Nam những năm gần đây 5
1. Khái quát thị trường cho vay năm 2006 – 2007 5
2. Thị trường cho vay từ năm 2008 đến nay 8
III. Đánh giá chung và giải pháp cho thị trường
cho vay Việt Nam 26
1. Thành tựu của thị trường cho vay Việt Nam năm 2008 26


2. Hạn chế của thị trường cho vay 28
3. Giải pháp phát triển thị trường cho vay Việt Nam 29
C – KẾT LUẬN 32
D – DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33



3





Thứ tự các bảng biểu
Bảng số liệu:
Bảng 1: Mặt bằng lãi suất cho vay bình quân trên thị trường từ đầu năm 2008 đến nay.
Bảng 2: Tốc độ tăng dư nợ tín dụng từ đầu năm 2008 đến tháng 2/2009
Bảng 3: Thị trường chứng khoán
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Bảng 5: CPI năm 2008 và đầu năm 2009

Biểu đồ, đồ thị:
Biểu đồ 1: Biểu đồ diễn biến lãi suất cho vay và lãi suất huy động từ đầu năm 2008 đến nay.
Biểu đồ 2: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng tín dụng từ đầu năm 2008 đến tháng 2/2009
Đồ thị 3: Diễn biến lãi suất thị trường liên ngân hàng năm 2007-2008
Biểu đồ 4: Sàn HOSE
Biểu đồ 5: Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội
Biểu đồ 6: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Biểu đồ 7: CPI năm 2008 và đầu năm 2009





4




A - LỜI NÓI ĐẦU


Năm 2008 là một năm đầy khó khăn và thử thách đối với thị trường tín dụng các nước nói chung và thị
trường tín dụng Việt Nam nói riêng, trong đó có thị trường cho vay. Những thách thức từ cuộc khủng khoảng kinh
tế toàn cầu cùng với những diễn biến bất thường của nền kinh tế trong nước đã có những tác động không nhỏ tới
thị trường cho vay Việt Nam. Vậy thực tế, thị trường cho vay Việt Nam đã gặp những khó khăn gì? Thị trường
cho vay đã có những thay đổi gì trước những diến biến đó? Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu
để tài “Thị Trường Cho Vay Việt Nam”. Nội dung đề tài bào gồm 3 phần:
 Phần I: Giới thiệu về thị trường cho vay Việt Nam
 Phần II: Thị trường Cho vay Việt Nam
Phần này sẽ đề cập và tập trung phân tích đến các diễn biến của thị trường cho vay, nguyên nhân và
các tác động của nó tới nền kinh tế.
 Phần III: Đánh giá chung và giải pháp cho thị trường cho vay Việt Nam
Đây là những đánh giá mang tính tổng quát về thị trường cho vay Việt Nam. Từ đó chúng tôi đưa ra
một số giải pháp cho thị trường cho vay trong giai đoạn hiện nay.
Chúng tôi rất mong muốn nhận được ý kiến góp ý của Cô và các bạn để hoàn thiện đề tài này được tốt
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 15, tháng 04, năm 2009.
5


Nhóm SV thực hiện
SAO CHỔI
Lớp NHB - K9 - HVNH

B – THỊ TRƯỜNG CHO VAY VIỆT NAM


I. Tổng quan về thị trường cho vay Việt Nam
1. Khái niệm về thị trường cho vay:
Thị trường cho vay là nơi các NHTM sử dụng các khoản tài chính huy động được để cung cấp tài chính cho
đối tượng khác trong một thời gian theo thỏa thuận và nhận được khoản chênh lệch so với số tiền cho vay. Đối
tượng khác ở đây có thể là các ngân hàng khác (cho vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng) hoặc các chủ thể
trong nền kinh tế như: Doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình…Như vậy, cho vay chính là khoản mục sinh lời chủ
yếu của các ngân hàng thương mại, và việc xác định lãi suất cho vay là vấn đề quan trọng nhất mà ngân hàng phải
thực hiện. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định lãi suất cho vay trong đó có bốn yếu tố quan trọng nhất:
chi phí huy động vốn, chi phí quản lí và thực hiện khoản cho vay, chi phí bù đắp các rủi ro và phần lợi nhuận hợp
lí. Để xác định lãi suất cho vay, các NHTM thường dựa vào các loại lãi suất cơ sở làm nền tảng để xác định lãi
suất cho vay

2. Giới thiệu thị trường cho vay Việt nam:
Ở Việt Nam, lãi suất cơ sở để các ngân hàng xác định lãi suất cho vay chính là lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ
bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân
hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn khả dụng.
6

Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao quá 150% lãi suất cơ bản. Tuy
được nhắc đến trong Luật Ngân hàng Nhà nước và luật này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998, song lãi suất
cơ bản chỉ được công bố lần đầu vào ngày 30 tháng 5 năm 2000. Trong lần đầu được công bố, lãi suất cơ bản ở
mức 7,2%/năm.
Trong từng giai đoạn phát triển khác nhau, tùy theo diễn biến thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ mà

NHNN sẽ công bố các mức lãi suất khác nhau. Khi lãi suất cơ bản thay đổi thì lãi suất cho vay của các NHTM
cũng sẽ thay đổi theo, từ đó tác động đến khối lượng cho vay hay mức dư nợ tín dụng. Thường thì đối tượng cho
vay của các NHTM là các chủ thể phi ngân hàng, còn cho vay trên thị trường liên ngân hàng chỉ để đảm bảo khả
năng thanh toán. Tuy nhiên nhiều ngân hàng vẫn coi vốn vay từ liên ngân hàng là một nguồn sử dụng cho hoạt
động tín dụng.
Có hai loại cho vay trên thị trường liên ngân hàng: một là cho vay bù đắp do thiếu hụt thanh toán trong thanh
toán bù trừ, thời hạn từ 1 đến 5 ngày; hai là cho vay để mở rộng tín dụng ngắn hạn do hai bên thống nhất. Lãi suất
trên liên ngân hàng thường là lãi suất thỏa thuận, thay đổi linh hoạt tùy diễn biến cung cầu vốn khả dụng hàng
ngày trên thị trường tiền tệ.
Hoạt động liên ngân hàng Việt Nam trước đây rất hạn chế do tính cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng chưa
gay gắt, nguồn vốn tín dụng chủ yếu chỉ dùng để hoạt động tín dụng nên phần lớn các ngân hàng có dự trữ vượt
mức. Tuy nhiên, sau năm 2000 đến nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, ngân hàng đã mở ra nhiều
hoạt động kinh doanh, đầu tư, thậm chí là đầu cơ, nên nhu cầu vốn luôn rất lớn, nhất là một số HNTM cổ phần
năng lực huy động vốn có hạn nhưng lại muốn tăng quy mô hoạt động, kiếm lợi nhuận thật nhanh nên đã dựa quá
nhiều vào vốn vay liên ngân hàng. Năm 2007, có 10 ngân hàng từ 20% đến 80% dư nợ cho vay là sử dụng vốn
liên ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng diễn biến phức tạp trên thị trường tiền tệ
đầu năm 2008. Có thể nói thị trường liên ngân hàng là một trong những tấm gương phản chiếu thực trạng hoạt
động ngân hàng rõ nhất. Nhìn vào đối tượng tham gia giao dịch, khối lượng, kì hạn các khoản vay và đặc biệt lãi
suất của liên ngân hàng có thể đưa ra nhận định khá chính xác về tình hình cung cầu vốn, khả năng thanh toán, tỷ
7

lệ đảm bảo an toàn của các ngân hàng, và có thể dự báo được diễn biến vốn của hệ thống trong ngắn hạn (từ 1 đến
6 tháng).
Mặc dù quan trọng như vậy, nhưng hiện nay việc quản lí và theo dõi thị trường liên ngân hàng vẫn chưa được
quan tâm đúng mức. Các ngân hàng tự vay mượn lẫn nhau không qua một đầu mối nào, lãi suất thì diễn biến bất
thường và thường theo từng ngày. Vì vậy để đánh giá được biến động của thị trường liên ngân hàng và sự tác động
của nó đến nền kinh tế rất khó khăn. Dưới đây bài thảo luận của chúng tôi chủ yếu nói về hoạt động cho vay của
NHTM đối với các chủ thể phi ngân hàng, và chỉ đề cập đến thị trường liên ngân hàng dưới góc độ là trung gian
dẫn truyền tác động của chính sách tiền tệ lên hệ thống ngân hàng thương mại. Đồng thời qua đó phân tích sự ảnh
hưởng của thị trường cho vay đến nền kinh tế, mà cụ thể là thị trường chứng khoán, tốc độ tăng trưởng và lạm

phát.

II. Thị trường cho vay Việt Nam
1. Khái quát thị trường cho vay 2006 – 2007
1.1 Thị trường cho vay 2006
Trước hết là cái nhìn khái quát về tình hình kinh tế năm 2006: tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 8% so với
năm trước, tốc độ tăng đầu tư cũng rất cao, thị trường chứng khoán mới được hình thành với quy mô nhỏ nhưng
cũng có tốc độ tăng truởng đáng chú ý. Đặc biệt, việc nước ta chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) từ tháng 11-2006 và ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới vừa là thuận lợi và vừa là
thách thức, đòi hỏi nền kinh tế nước ta phải có sự chuyển đổi thích hợp và mạnh mẽ. Bám sát sự chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ và trên cơ sở dự báo, đánh giá sát tình hình kinh tế, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ
một cách chủ động,linh hoạt nhằm giảm áp lực tăng tổng phương tiện thanh toán, ổn định lãi suất thị trường, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo
thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.
8

Trong năm 2006, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm ,lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm
,lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm. Việc giữ ổn định lãi suất chính thức của NHNN nhằm tránh phát tín hiệu làm
tăng lãi suất thị trường trước sức ép tăng lãi suất thị trường quốc tế và lạm phát trong nước vẫn ở mức cao. Vì vậy
lãi suất thị trường trong năm 2006 không có biến động lớn, đảm bảo mối quan hệ hợp lí giữa lãi suất VND, lãi suất
ngoại tệ và mức biến động tỷ giá
Nhìn chung, năm 2006 tín dụng đối với nền kinh tế có xu hướng tăng trưởng chậm trở lại. Dư nợ cho vay của
hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế tăng 25,44% so với năm 2005, thấp hơn nhiều so với mức tăng 31,10% của
năm 2005 và mức 41,65% của năm 2004. Dư nợ tín dụng có tốc độ tăng trưởng chậm là do:
 Các ngân hàng đã tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
mình, tập trung nâng cao chất lượng tín dụng hơn là mở rộng khối lượng cho vay.
 Các kênh huy động vốn khác ngày càng được mở rộng như thị trường chứng khoán, Quỹ hỗ trợ phát
triển… Vốn từ nước ngoài vào Việt Nam gia tăng phần nào tác động đến khả năng mở rộng tín dụng của
các ngân hàng.
Tỷ trọng cho vay theo ngành kinh tế không biến động nhiều so với các năm trước. Dư nợ cho vay ngành

nông-lâm-thủy sản tuy có xu hướng giảm so với năm 2005 nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu cho
vay của hệ thống ngân hàng, khoảng 20,29%. Tiếp theo là các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng
25,5% và 14,5%. Tỷ trọng cho vay ngành thương nghiệp tiếp tục được duy trì ở mức như năm 2005 , khoảng
17,7% trong tổng dư nợ.
1.2. Khái quát tình hình thị trường cho vay 2007
Năm 2007, sau một năm trở thành thành viên của WTO, nền kinh tế nước ta đã khởi sắc, tốc độ tăng trưởng
kinh tế đạt 8,48% - cao nhất trong vòng 10 năm trở lại, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn ODA
huy động đã đạt mức kỷ lục mới…Nhưng đây cũng là năm có tình hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế diễn
9

biến rất phức tạp. Cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp nhà ở Mỹ đã gây nhiều tác động xấu đến thị trường tài
chính, tiền tệ toàn cầu. Ở trong nước, nền kinh tế cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới: nhập
siêu tăng mạnh làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai; dòng vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục từ trước đến nay,
bên cạnh mặt tích cực là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cũng gây sức ép lớn đối với điều hành tỷ giá và
việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán. Đặc biệt, do tác động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, chỉ
số giá tiêu dùng có xu hướng tăng cao so với các năm trước đây đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân
Trong bối cảnh đó, NHNN đã triển khai đồng bộ các giải pháp điều hành tiền tệ nhằm kiểm soát mức tăng
tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Trong đó, để tránh tác động không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất cơ
bản như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu lần lượt là 6,5% và 4,6%/năm, lãi suất
qua đêm và lãi suất tiền gửi tại NHNN cũng ổn định. NHNN cũng thực hiện đồng bộ các biện pháp kiểm soát tín
dụng. Đặc biệt, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg về một số biện pháp cấp
bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường, NHNN đã chỉ đạo mạnh hơn, quyết liệt hơn việc triển khai các giải pháp
nhằm kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ.
Vì vậy, lãi suất trên thị trường năm 2007 tương đối ổn định, lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
biến động trong khoảng dưới 15%/năm. Về tăng trưởng tín dụng, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng
53,89% so với năm 2006 góp phần đáp ứng có hiệu quả nhu cầu vốn của các DN, các thành phần kinh tế. Tăng
trưởng tín dụng tập trung cao nhất ở khối ngân hàng thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các
tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đạt mức tăng 105,27%, khối NHTM nhà nước có tốc độ tăng 31,09%.

Tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông thôn (gồm ngành nông-lâm-thủy sản) chiếm tỷ trọng cao nhất
trong cơ cấu cho vay theo ngành của hệ thống ngân hàng, khoảng 28,92%. Tỷ trọng cho vay ngành công nghiệp và
thương nghiệp đã cải thiện hơn so với năm 2006 , chiếm 26,02% và 18,24%, tỷ trọng cho vay ngành xây dựng
được duy trì ở mức như năm 2006, chiếm 14,15% trong tổng dư nợ.
10


2. Thị trường cho vay Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay
Năm 2008 là một năm đầy khó khăn và thử thách đối với thị trường tín dụng các nước nói chung và thị
trường tín dụng Việt Nam nói riêng. Những thách thức từ cuộc khủng khoảng kinh tế toàn cầu cùng với những
diễn biến bất thường của nền kinh tế trong nước đã có những tác động không nhỏ tới thị trường tín dụng cũng như
thị trường cho vay Việt Nam . Trong nửa đầu năm 2008 Việt Nam gánh chịu ảnh hưởng của tình trạng tăng trưởng
quá nóng. Kết quả là lạm phát gia tăng, thâm hụt thương mại, bong bóng bất động sản và giảm sút chất lượng đầu
tư. Mặc dù giá lương thực và năng lượng thế giới tăng cao nhưng chính sách thắt chặt tiền tệ đã góp phần hạ nhiệt
tình trạng bong bóng của thị trường bất động sản, từng bước kiềm chế lạm phát và cắt giảm thâm hụt thương mại
xuống mức kiểm soát được. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế đã hứng chịu ảnh hưởng của chính các chính sách
này_GDP sáu tháng đầu năm đã tăng ở mức thấp nhất từ nhiều năm nay. Thực trạng kinh tế quả là khá mong
mong hồi tháng 5, khi thị trường đồn đoán về một khả năng khủng hoảng cán cân thanh toán. Tuy nhiên những thử
thách cam co này dường như dần đang được khắc phục thông qua nhóm giải pháp quyết liệt của chính phủ nhằm
bình ổn kinh tế.
Cuộc khủng hoảng thứ 2 diến ra vào nửa cuối năm 2008. Rủi ro liên quan đến mảng cho vay bất động sản
dưới chuẩn tại Mỹ đã thổi bùng cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu với những diến biến khó lường. Tâm lý lo sợ
đã làm trì trệ các hoạt động kinh tế, co thắt các nguồn tín dụng. Triển vọng kinh tế của các nước công nghiệp phát
triển liện tục được dự báo theo hướng đi xuống. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của tình trạng suy thoái này đến nền
kinh tế Việt Nam như thế nào thì còn chưa rõ. Khu vực tài chính ngân hàng của Việt Nam có thể sẽ ko bị ảnh
hưởng trưc tiếp vì chúng chưa trực tiếp tham gia vào giao dịch các sản phẩm rủi ro phức tạp trên, các định chế tài
chính nước ngoài tại Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nhưng tỷ lệ sở hữu của chúng còn khá khiêm tốn trong khu
vực tài chính ngân hàng của Việt Nam. Tình trạng trì trệ của thị trường bất động sản có thể gây khó khăn cho
nhiều doanh nghiệp, có thể sẽ làm tăng các khoản nợ xấu gây tổn hại cho hệ thống ngân hàng.
11


Trước những bối cảnh trên, thị trường cho vay Việt Nam đã trải qua một khoảng thời gian nhiều biến
động từ đầu năm 2008 đến nay. Những số liệu và đồ thị dưới đây sẽ cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tổng quan
về thị trường cho vay Việt Nam trong thời gian qua:

2.1 Cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại đến nền kinh tế.
- Về mặt lãi suất:



Bảng 1: Mặt bằng lãi suất cho vay bình quân trên thị trường từ đầu năm 2008 đến nay


Lãi suất cho vay bằng VND(% )
2008

tháng 1 12,6
tháng 2 16,5
tháng 3 16,7
tháng 4 17,5
tháng 5 21
tháng 6 20,5
tháng 7 20,5
tháng 8 20,5
tháng 9 19
tháng 10 19,5
tháng 11 16,5
tháng 12 12,75
2009


tháng1

11,5

tháng2

9,5

12


diễn biến lãi suất
0
5
10
15
20
25
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
T11
T12

T1
T2
T3
T4
năm 2008 năm 2009
ls cho vay

Biểu đồ 1: Biểu đồ diến biến lãi suất cho vay và lãi suất huy động từ đầu năm 2008 đến nay
Từ biểu đồ trên chúng ta có thể đưa ra một vài nhận xét như sau:
+ Vào nửa đầu năm 2008, thời điểm NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, các mức lãi suất trên
thị trường biến động mạnh và liên tục tăng cao
+ Từ cuối năm 2008 trở lại đây, khi NHNN đã có những động thái nới lỏng tiền tệ, các mức lãi suất
trên thị trường cho vay đã có dấu hiệu giảm dần. Tuy nhiên lãi suất cho vay có những thời điểm biến động lên
xuống thất thường ( T8: 20,5%; T9: 19%; T10:19,5%)





13

- Về mặt khối lượng:

Năm 2008 Năm 2009
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T1 T2
TĐTTTD
(%) 6.3 2.15 2.35 1.66 2.25 2.95 0.7 0.79 0.74 0.99 1 1.09 0.52 0.23

Bảng 2: tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng từ đầu năm 2008 đến T2/2009


0
1
2
3
4
5
6
7
tốc độ tăng trưởng TD
tốc độ tăng trưởng TD
6.3
2.15
2.35
1.66
2.25
2.95
0.7
0.79
0.74
0.99
1
1.09
0.52
0.23
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T1 T2
năm 2008 năm 2009

Đồ thị 2: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng tín dụng từ đầu năm 2008 đến T2/2009

14


Nhìn vào biểu đồ trên chúng ta có thể thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng có sự biến động mạnh mẽ
trong thời gian qua. Tuy nhiên xu hướng chung là tăng trưởng tín dụng ở giai đoạn đầu năm 2008 khá cao, trong
khi đó trong thời gian gần đây tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đang có xu hướng giảm dần.
Tổng dư nợ tín dụng năm 2008 chỉ tăng khoảng 21 – 22% so với cuối năm 2007. Một con số thấp hơn nhiều
so với tốc độ tăng dư nợ tín dụng năm 2007 là 37%. Tính đến cuối năm 2008, tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh
tế đạt 1 242 900 tỷ đồng, trong đó nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam khoảng 43.500 tỷ đồng, chiếm 3,5%
tổng dư nợ tín dụng.

2.2. Cho vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
















15








16


01
-
06
-
0
7

18-06-07

29-06-07

12-07-07

27-07-07

09-08-07

23-08-07

06-09-07

19-09-07


03-10-07

16-10-07

29-10-07

09-11-07

22-11-07

06-12-07

19-12-07

03-01-08

16-01-08

30-01-08

18-02-08

29-02-08

13-03-08

26-03-08

08-04-08


22-04-08

07-05-08

20-05-08

02-06-08

13-06-08

26-06-08

09-07-08

22-07-08

04-08-08

15-08-08

29-08-08

12-09-08

25-09-08

08-10-08

21-10-08


03-11-08

14-11-08

27-11-08

10-12-08

23
-
12
-
0
8


Đồ thị 3: Diễn biến lãi suất thị trường liên ngân hàng năm 2007 - 2008


25.00





20.00






15.00





10.00



5.00



0.00
























O/N

3M

6M
Thị trường cho vay Việt Nam

NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 17

Biểu đồ trên cho ta thấy mức lãi suất tiền tệ liên ngân hàng biến động rất mạnh
theo thời gian. Điều đó phản ánh một thực tế là tình trạng không ổn định về vốn khả
dụng của các ngân hàng.
Từ những đánh giá mang tính khái quát trên đây về thị trường cho vay trong
khoảng thời gian qua, dưới đây chúng ta sẽ đi phân tích một vài mốc chính và xu
hướng nổi bất trên thị trường:
- Bước vào đầu năm 2008, thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử
nền kinh tế Việt Nam, vốn VND khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như
chỉ có người vay mà không có người cho vay. Nguyên nhân của tình trạng này có thể
kể đến là ngay từ đầu năm 2008 NHNN việt Nam đã ban hành nhiều biện pháp điều
hành chính sách tiền tệ thắt chặt như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lãi suất, phát hành

tín phiếu bắt buộc. Các biện pháp này đã tạo ra một cú sốc mạnh đối với các tổ chức tín
dụng. Biểu hiện đầu tiên là lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường kiên ngân hàng
tăng mạnh. Có thể lấy ví dụ sáng ngày 30/1 nhiều ngân hàng cổ phần nhỏ đã nhao lên
đi tìm nguồn vay “nóng”. Trước đó ít ngày lãi suất cho vay qua đêm chỉ ở mức 7-8%
năm thì sáng ngày 30/1 đã tăng lên lên16%, đầu giờ chiều là 17,1% và cuối giờ làm
việc nó vọt lên 25- 26 % mặc dù trong ngày NHNN đã cung ứng cho thị trường liên
ngân hàng 12000 tỉ đồng để đảm bảo tính thanh khoản cho các NHTM. Sáng ngày 31/1
thị trường liên ngân hàng lại tiếp tục nóng lên đã có ngân hàng phải vay với mức lãi
suất 27% để đáp ứng khả năng thanh toán và để thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy
định
Theo nhận định chung nguyên nhân của việc lãi suất trên thị trường LNH tăng
mạnh là do các ngân hàng không quan tâm đầy đủ đến việc cân đối giữa nguồn vốn và
sử dụng vốn. Thêm vào đó việc NHTW tăng dự trữ bắt buộc cùng thời điểm với tăng
lãi suất chủ đạo càng làm cho thị trường LNH thêm căng thẳng. Khi lãi suất chủ đạo
thay đổi các ngân hàng cũng bắt đầu tăng lãi suất huy động, đối với các ngân hàng nhỏ
không tìm được nguồn vay trên thị trường LNH, cũng không có một lượng giấy tờ có
giá đủ giá trị để tham gia đấu thầu trên thị trường mở nên họ phải tự cứu mình bằng
Thị trường cho vay Việt Nam

NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 18

cách tăng lãi suất huy động lên mức rất cao. Cuộc đua lãi suất huy động giữa các ngân
hàng bắt đầu:
Ngày 20/2/2008, NHTM CP Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất mới
được coi như “một quả bom” dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị
trường với mức kỷ lục là 12%/năm.
Ngày 21/2/2008 NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đưa ra chương trình
siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho kỳ hạn 1 tháng.
Ngày 22/2/2008, NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) đưa ra mức lãi suất cao hơn, huy

động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất tới 13,5%/năm.
Một số NHTM còn đưa ra mức lãi suất thoả thuận tới 1,2% đến 1,3%/tháng đối
với khách hàng gửi tiền với khối lượng lớn, hay giữ chân khách hàng rút tiền tới hàng
tỷ đồng.Đây được coi là mức lãi suất “cực kỳ nguy hiểm” vì nó làm cho nhiều người
nhớ đến mức lãi suất tiền gửi lên quá cao cách đây 20 năm khi xảy ra cơn đổ vỡ gần
6.000 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng, trong thời điểm lạm phát lên tới 200% -
300% trong các năm 1987 - 1988 ở nước ta. .
Mặc dù lãi suất huy động tăng cao nhưng do lượng tín dụng huy động được
không đủ giảm nhiệt cho tình hình căng thẳng của các ngân hàng nên theo đó một phản
ứng dữ dội hiếm thấy, được coi rất nguy hiểm là lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng
mặt. Đặc biệt lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày
18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa
lên tới 43%/năm…
Vậy nhưng,lãi suất cao nhưng vẫn không vay được,cùng với việc huy động từ bên
ngoài, việc "vay nóng" với nhau giữa các ngân hàng cũng nóng bỏng khi lãi suất vay
qua đêm liên tục tăng ở mức không tưởng 43%/năm. Tình trạng căng thẳng về tiền
đồng trên thị trường ở mức rất cao, khi nhiều ngân hàng cần tiền để đảm bảo thanh
khoản, thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước (chẳng hạn như việc mua 20.300
tỉ tín phiếu bắt buộc vào ngày 17/3), với khách hàng
Tuy nhiên, ngay cả ở mức lãi suất kỷ lục này, nhiều ngân hàng nhỏ phải chấp
nhận nhưng cũng không vay được vốn để cải thiện khả năng thanh khoản, bởi nguồn
Thị trường cho vay Việt Nam

NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 19

cho vay hạn chế, cũng chính từ nguồn cho vay hạn chế đã nảy sinh tình trạng đầu cơ,
tích trữ và khiến cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không ngừng tăng cao.
Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại NHNN lên tới
10% thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay chỉ có 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi suất bình

thường. Thị trường “căng“ đến mức ngày 22/2/2008 NHNN phải bơm thêm 6.000 tỷ
đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số NHTM trúng thầu, với lãi suất tới
13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008.
Tính tổng cộng chỉ trong 1 tuần, NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ
thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trước đến nay, bằng
trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn của cả năm 2007.
Tuy nhiên hầu như chỉ có các NHTM Nhà nước, một số ít NHTM cổ phần quy mô lớn,
một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có điều kiện đang sở hữu tín phiếu NHNN và
Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với
khối lượng lớn vốn đó, còn phần đông các NHTM cổ phần thì không.
Tình trạng này kéo dài và diễn biến đỉnh điểm vào tháng 5, trong thời gian này lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng liên tục tăng vọt, những thành viên có vốn khả dụng
dồi dào trở thành những “con thoi” đi hỗ trợ thị trường và thu lợi lớn. Lãnh đạo một
ngân hàng lớn cho biết, đỉnh điểm có lúc họ cho vay ra tới 30.000 – 40.000 tỷ đồng
trên thị trường này. Trong khi đó các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi
vay lại trên thị trường liên ngân hàng khoản vay của các NHTM đó với lãi suất từ 30%
đến 43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của NHNN. Không phải làm gì, các
NHTM Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy
lãi suất lên cao trong nền kinh tế. Việc lãi suất đầu vào của các ngân hàng tăng lên
buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp thu nhập. Lãi suất cho vay
thương mại đã thiết lập một mức cao kỉ lục 21% (tháng 5), 20,5%(tháng 6) và liên tục
giữ mốc này trong những tháng tiếp theo. Mức lãi suất cho vay cao như vậy dẫn đến
một thực tế khó khăn đối với các đối tác vay vốn trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp
đứng trước hai lựa chọn: Hoặc hủy bỏ các hợp đồng đã kí kết hoặc chấp nhận vay với
lãi suất cao để thực hiện hợp đồng giữ uy tín. Dù lựa chọn cách thức nào các doanh
Thị trường cho vay Việt Nam

NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 20


nghiệp cũng không đạt được lợi nhuận mong muốn, thậm chí lỗ. Chính mức lãi suất
cao và tình hình căng thẳng vốn của các ngân hàng đã hạn chế rất lớn đến khối lượng
cho vay ra của hệ thống ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Nhìn vào đồ thị
tăng trưởng tín dụng chúng ta có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng trong thời
gian này là rất thấp, xu hướng chung là nhỏ hơn 1% và đạt mức thấp nhất 0,7% vào
tháng 7.
Những giải pháp thắt chặt tín dụng của chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát và
những hiệu ứng dây chuyền như đã phân tích ở trên đã làm cho lãi suất cho vay của hệ
thống ngân hàng đối với nền kinh tế tăng lên nhanh chóng, tác động tiêu cực chung đến
tăng trưởng GDP và đến hiệu quả nền kinh tế.
- Từ đầu tháng 9.2008, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có xu hướng
giảm dần, đặc biệt sau khi NHNN quyết định tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ
3,6%/năm lên 5%/năm và cho phép sử dụng tín phiếu NHNN bắt buộc như công cụ
trên thị trường mở. Ngày 30.9, lần đầu tiên trong năm 2008, lãi suất cho vay VND kỳ
hạn 1 ngày trên thị trường liên ngân hàng thấp nhất, chỉ còn 8%/năm (giảm hơn 30%
so mức lãi suất thời điểm cao nhất trong những tháng đầu năm 2008). Tuy nhiên, điều
đáng chú ý là lãi suất cho vay kỳ hạn 30 ngày và 61 ngày vẫn ở mức khá cao - từ
16,4%-17%/năm. Điều này cho thấy hiện nay các ngân hàng không còn thiếu các
khoản tiền hỗ trợ thanh khoản, nhưng vẫn thận trọng với diễn biến tiền gửi trong
những tháng cuối năm.
Đến tháng 12 năm 08 khi vốn khả dụng của ngân hàng không còn khan hiếm thì
các mức lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, nơi các ngân hàng vay nợ lẫn nhau vẫn
thấp hơn so với lãi suất ngân hàng cho vay khách hàng. Thực tế này chứng tỏ các ngân
hàng dồi dào vốn, không có nhu cầu vay mượn lẫn nhau, tốc độ luân chuyển vốn đang
giảm dần.
Theo số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng về Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
đến ngày 16/12, LS giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng ở hầu hết các kỳ hạn đều có xu hướng giảm, ngoại trừ LS giao dịch kỳ hạn 3
tháng tăng nhẹ so với LS giao dịch của tuần trước.Cụ thể, LS bình quân kỳ hạn qua
Thị trường cho vay Việt Nam


NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 21

đêm là 7,1%/năm; 1 tuần: 8,28%/năm; 2 tuần: 8,98%/năm; 1 tháng: 9,86%/năm; 3
tháng: 11,72%/năm; 6 tháng: 13%/năm; 1 năm: 9,68%/năm.Mặc dù lãi suất giao dịch
bằng VND trên thị trường liên ngân hàng có xu hướng giảm mạnh so với 2 quý đầu
năm, nhưng theo tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần, liên ngân hàng hiện nay được
xem là thị trường không thanh khoản.Bởi cung trên thị trường đang dư thừa, trong khi
cầu ngày một thu hẹp do vốn khả dụng của ngân hàng không còn khan hiếm như 2 quý
đầu năm.Mặc dù LS tiền gửi đã giảm sâu và dấu hiệu dòng tiền vào ngân hàng có
chững lại khi LS cơ bản giảm xuống 8,5%/năm, song các ngân hàng cho biết, lượng
vốn huy động về cách đây 3 - 4 tháng chưa sử dụng hết, nên không có nhu cầu vay vốn
bằng tiền đồng qua thị trường liên ngân hàng.
Khác với 2 quý đầu năm, khi cung tiền đồng hạn chế do ảnh hưởng bởi chính
sách thắt chặt tiền tệ, nhiều ngân hàng phải trả giá đắt cho những khoản vốn vay qua
liên ngân hàng (có thời điểm LS lên đến 30 - 35%/năm), nhưng hiện tại vốn huy động
trực tiếp từ người dân và doanh nghiệp khá rẻ.Thêm vào đó, diễn biến thị trường còn
khó khăn, doanh nghiệp chưa mặn mà với việc tiếp cận vốn ngân hàng, nên tiến độ giải
ngân khá chậm. Tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng giảm dần là lý do khiến giao
dịch trên thị trường liên ngân hàng đóng băng. Để giải quyết bài toán vốn khả dụng tồn
đọng trước áp lực phải trả lãi cao cho các khoản tiền gửi cách đây 3 tháng (mức bình
quân 17%/năm), nhiều ngân hàng tìm đủ cách để cho vay. Trong đó, có cả có doanh
nghiệp vay tiền trả lương công nhân, trả cổ tức cho cổ đông…Cầu vốn yếu, trong khi
cung ngày một gia tăng (LS tín phiếu giảm mạnh còn 4,5%/năm buộc các ngân hàng
phải lấy về để cho vay, dự trữ bắt buộc giảm, LS tiền gửi dự trữ bắt buộc gia tăng… )
khiến liên ngân hàng trở nên đóng băng kể từ tháng 8/2008.
Đầu năm sốt nóng với LS cao ngất ngưởng, cuối năm gần như đóng băng với LS
tụt giảm, thị trường cho vay đã phản ánh rõ nét bộ mặt nhiều thay đổi của thị trường
tiền tệ năm 2008.

- Bước sang năm 2009 mặc dù các mức lãi suất cho vay trong các tháng đã liên
tiếp giảm, đặc biệt chính phủ đã ra quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm
Thị trường cho vay Việt Nam

NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 22

2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho vay 4%/năm, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng tín dụng
trong giai đoạn này lại khá khiêm tốn. Có thể giải thích điều này với các nguyên nhân:
+ Ngân hàng có thể cho vay với mức lãi suất thấp, nhưng đó không phải là lãi suất
tại thời điểm này, mà thường cho 1 - 2 tháng tới, bởi còn có độ trễ nhất định của quá
trình thẩm định và chính thức cấp vốn.
+ Các doanh nghiệp vay vốn đang có tâm lý chờ đợi lãi suất cho vay tiếp tục giảm
thêm trong thời gian tới; mặt khác hoạt động sản xuất kinh doanh đang ứ đọng do tiêu
dùng sụt giảm, xuất khẩu khó khăn…
+ Một rào cản khác khiến ngân hàng và doanh nghiệp chưa tìm được tiếng nói
chung là các điều kiện vay vốn. Sau những đợt giảm lãi suất, nhiều phản hồi từ doanh
nghiệp vẫn cho rằng họ gặp khó khăn trong tiếp cận vốn, do các điều kiện thắt chặt; đặc
biệt là trong khó khăn, tín nhiệm của nhiều doanh nghiệp bị “xuống điểm”. Với yêu
cầu an toàn tín dụng, việc rót vốn của các ngân hàng thời điểm này trở nên thận trọng
hơn. Hầu hết các ý kiến từ bên cho vay đều cho rằng có thể nới cung tiền nhưng khó
nới điều kiện vay vốn.
Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến ngày 26/3 đạt 178.722 tỷ đồng: Dư nợ cho vay
phân theo đối tượng khách hàng vay vốn: Doanh nghiệp Nhà nước 65.686 tỷ đồng,
chiếm 36%; doanh nghiệp ngoài nhà nước (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài …) là 107.172 tỷ
đồng, chiếm 60%; hợp tác xã 651 tỷ đồng; hộ gia đình, cá nhân 4.968 tỷ đồng; tổ chức
khác 245 tỷ đồng.
Việc lãi suất cho vay giảm mạnh cũng đặt ra cho các ngân hàng một thực tế đáng
lo ngại là tình trạng” đảo nợ” xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Những khách hàng đã

vay trước đây với mức LS cao đi mượn tiền trả nợ ngân hàng rồi vay lại với mức lãi
suất thấp hơn. Chi phí liên quan đến đảo nợ cho ngân hàng trong cả nền kinh tế không
phải là nhỏ.



Thị trường cho vay Việt Nam

NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 23

2.3. Tác động của thị trường cho vay đến thị trường chứng khoán và nền
kinh tế.
Năm 2008 là một năm đầy biến động đối với thị trường cho vay Việt Nam . Hàng
loạt chính sách tiền tệ từ thắt chặt đến nới lỏng xuất hiện theo một lộ trình hợp lí đã tác
động mạnh mẽ đến thị trường cho vay , từ đó tạo ra những chuyển biến đáng kể cho
nền kinh tế : lạm phát được đẩy lùi, nền kinh tế ”hạ cánh” an toàn. Tuy nhiên, sự
chuyển biến của nền kinh tế bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, cả nội tại lẫn ảnh hưởng từ
thế giới, nên sự phân tích của chúng tôi về tác động của thị trường cho vay chỉ có thể
xem là tương đối và mang tính chất ước lượng.
- Trước hết là nói về tác động của thị trường cho vay đến thị trường chứng
khoán và tăng trưởng kinh tế.
Về mặt lí thuyết, việc tăng giảm lãi suất cho vay sẽ tác động đến thị trường chứng
khoán(TTCK) và tăng trưởng kinh tế thông qua sự tác động trực tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của DN.Khi lãi suất cho vay tăng sẽ làm tăng chi phí đầu vào cho DN,
bởi các DN trong quá trình sản xuất kinh doanh thường phải sử dụng nguồn vốn tài trợ
từ bên ngoài trong đó phần lớn là vốn ngân hàng. Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng
chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong kho) và do vậy, tạo sức ép các
doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
DN sẽ bị đặt trong tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”: nếu không vay thì không có

vốn để tiếp tục hoạt động, nếu vay thì chi phí lãi quá lớn, nhiều DN không có vốn cho
các kế hoạch sản xuất. Điều này làm cho tăng trưởng của DN chậm lại, lợi nhuận giảm,
cổ phiếu của DN trở nên kém hấp dẫn. Trong một tình hình chung, một số lượng lớn
các DN đều có sự sụt giảm như thế thì xét toàn bộ thị trường chứng khoán khối lượng
giao dịch và các chỉ số sẽ giảm. Hơn nữa, lãi suất cho vay tăng cao thường kèm theo
lãi suất huy động cũng tăng cao, làm cho việc gửi tiền vào ngân hàng được xem là an
toàn và thanh khoản hơn so với đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ rút vốn khỏi
TTCK làm cho thị trường lại càng sụt giảm. TTCK được xem là phong biểu của nền
kinh tế, vì vậy sức khỏe thị trường này giảm sút cho thấy nền kinh tế cũng đang khó
Thị trường cho vay Việt Nam

NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 24

khăn. Việc làm ăn không hiệu quả của các DN chính là yếu tố tác động xấu đến sự tăng
trưởng GDP.
Ngược lại, khi lãi suất cho vay giảm lại là tín hiệu tốt, vì các DN sẽ có điều kiện
tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được
diễn ra thông suốt, từ đó tăng thêm sức mạnh cho TTCK và nền kinh tế. Khối lượng
hàng hóa sản xuất ra nhiều hơn, GDP tăng lên.
Nhưng trên thực tế, khi lãi suất ổn định trong một khoảng thời gian thì sự ảnh
hưởng này không rõ nét, còn khi lãi suất cho vay có sự biến động mạnh thì đôi khi sự
tác động lại không theo cơ chế tác động đó, bởi TTCK và tăng trưởng kinh tế còn chịu
tác động của nhiều yếu tố khác có thể có tầm ảnh hưởng lớn.
Để có thể thấy rõ hơn sự biến động của thị trường cho vay mà chủ yếu là sự thay
đổi lãi suất cho vay tác động thế nào đến TTCK và GDP, chúng ta sẽ cùng xem xét các
biểu đồ:
Bảng 3:Thị trường chứng khoán





Ch


s
ố HASTC
-
index











Ch
ỉ số VN
-
index



29/12/2007

323.55


30/05/2008

119.31

28/12/2007

924.
37

10/06/2008

373



02/01/2008

322.34

16/06/2008

111.09

02/01/2008

921.07

30/06/2008


399.4



16/01/2008

285.63

30/06/2008

112.67

16/01/2008

846.07

16/07/2008

486.33



17/01/2008

282.9

16/07/2008

147.74


31/01/2008

844.11

31/07/2008

451.36



25/01/2008

27
1.76

31/07/2008

142.32

15/02/2008

841.23

15/08/2008

488.94



31/01/2008


294.13

15/08/2008

151.65

25/02/2008

715.04

29/08/2008

539.1



15/02/2008

282.08

27/08/2008

190.06

14/03/2008

643.8

15/09/2008


470.38



21/02/2008

237.89

08/09/2008

182.32

25/03/200
8

496.64

30/09/2008

456.7



04/03/2008

199.04

15/09/2008


160.22

31/03/2008

516.85

15/10/2008

397.15



07/03/2008

225.55

30/09/2008

148.55

16/04/2008

531.38

31/10/2008

347.05




14/03/2008

224.69

15/10/2008

132.12

29/04/2008

522.36

14/11/2008

352.07



24/
03/2008

178.56

31/10/2008

114.88

16/05/2008

460.04


28/11/2008

314.71



31/03/2008

181.43

14/11/2008

113.07

Thị trường cho vay Việt Nam

NHÓM SAO CHỔI – NHB_K9
Page 25

30/05/2008

414.1

10/12/2008

286.85




16/04/2008

180.95

27/11/2008

97.61







29/04/2008

169.11

15/12/2008

110.3







14/05/2008


144.84

31/12/20
08

105.12










khối lượng giao dịch
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
28/12/2007
28/01/2008

28/02/2008
28/03/2008
28/04/2008
28/05/2008
28/06/2008
28/07/2008
28/08/2008
28/09/2008
28/10/2008
28/11/2008
khối lượng giao dịch

Biểu đồ 4: SÀN HOSE


×