Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng thực sự lưu thong nhờ các đại diện tiền giấy của mình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.86 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
II. KHÁI NIỆM VÀ THỰC TRẠNG 3
1. Khái niệm 3
2. Thực trạng 3
III. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ 9
1. Các nguyên nhân gây ra lạm phát 9
2. Hậu quả của lạm phát 10
IV. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 12
V. KẾT LUẬN 14
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cơ chế thị trường đã và đang làm thay đổi nền kinh tế Việt Nam theo
hướng tích cực. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được
chúng ta không thể không nhắc đến những hạn chế do nền kinh tế thị
trường gây ra, một trong những vấn đề nổi cộm đó là lạm phát.
Lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối
với sự nghiệp phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chống
lạm phát được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Càng ngày cùng với
sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế và nguyên nhân của lạm
phát cũng ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường
ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nươc,
nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm
phát có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
2
II. KHÁI NIỆM VÀ THỰC TRẠNG
1. Khái niệm
Lạm phát là hiện tượng lượng tiền phát hành quá nhiều so với lượng
tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho giá trị thực tế của đồng tiền giảm
xuống, thấp hơn giá trị danh nghĩa của nó, thể hiện ở mức giá cả hàng hóa
tăng lên được sử dụng để biểu thị và đánh giá mức độ lạm phát của một


nước trong một thời kì nhất định.
Khi phân tích lưu thong tiền giấy theo chế độ bản vị vàng, Mác đã
khẳng định một quy luật: “Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số
lượng vàng thực sự lưu thong nhờ các đại diện tiền giấy của mình”, với quy
luật này, khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu thong vượt
quá mức giới hạn số lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì giá trị của tiền
giấy sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. Có thể xem đây như là
một định nghĩa của Mác về lạm phát. Song có những vấn đề cần phân tích
cụ thể hơn, tiền giấy ở nước ta cũng như ở tất cả các nước khác hiện nay
đều không theo chế độ bản vị vàng nữa, do vậy người ta có thể phát hành
tiền theo nhu cầu chi của nhà nước, chứ không theo khối lượng mà đồng
tiền đại diện. Điều đó hoàn toàn khác với thời Mác.
2. Thực trạng
Trong quá khứ Việt Nam có thời gian phải chịu lạm phát phi mã với
mức sụt giá của đồng tiền lên đến 700% vào năm 1987. Vào năm 1993, lạm
phát đã được khống chế khá tốt ở mức 2 con số.
Giai đoạn 1991 đến 2001 là giai đoạn lạm phát thấp nhất ở Việt Nam.
Trong khoảng thời gian này CPI chỉ ở mức 0,1%, -0,6% và 0,8%. Thời kì
này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng Đông Á năm 1997-1998.
3
Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004,cùng với giai
đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa.
Năm 2007 chỉ số CPI tăng đến 12,6% và đặc biệt tăng cao trong những
tháng cuối năm.
Năm 2008 là một năm đáng nhớ của nền kinh tế cũng như lạm phát ở
Việt Nam CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm. Kết thúc năm 2008, chỉ số
CPI tăng đến 19,89%, tính theo trung bình năm tăng 22,97%.
Năm 2009, lạm phát trong nước được khống chế, CPI tăng 6,52% thấp
hơn so với các năm trước. tuy nhiên so với các nước trên thế giới thì cao
hơn nhiều.

Năm 2010, hệ quả của việc các nước ồ ạt tăng cung tiền để ổn định
kinh tế, trong đó Việt Nam cũng đưa ra những gói tiền tệ, thông qua hỗ trợ
lãi suất cho các doanh nghiệp. Đà suy thoái kinh tế giảm nhiệt nhưng bóng
mây lạm phát bắt đầu bao phủ nền kinh tế do chính sách tiền tệ mở rộng.
4
Tình hình lạm phát năm 2011 ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2
con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia.
Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ:
làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới
đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.
Ngân hàng đầu tư Merrill Lynch của Mỹ vừa công bố một báo cáo về tình
hình kinh tế châu Á, trong đó lấy Việt Nam làm tâm điểm để phân tích tình
trạng lạm phát leo thang trong khu vực Báo cáo nhận định, Việt Nam chỉ là
một nền kinh tế nhỏ trong khu vực châu Á vì GDP 70 tỷ USD của Việt
Nam chỉ tương đương với 1% GDP của toàn khu vực này, trừ Nhật Bản.
Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động từ chính
thành công quá lớn và quá nhanh chóng của chính mình.
Các số liệu thống kê công bố hôm thứ Sáu 24/2 cho thấy chỉ số giá tiêu
dùng trong tháng Hai năm nay (năm 2011) so với năm ngoái tăng 16,44%.
Chỉ số này vẫn còn rất cao nhưng đây là mức thấp nhất trong 11 tháng. Lạm
phát Việt Nam lên tới cao điểm là 23% hồi tháng 8/2011, Việt Nam đã tái
tập trung nỗ lực từ việc tăng trưởng kinh tế sang việc bình ổn để đối phó với
5
nạn giá cả tăng và những thách thức khác, kể cả việc giảm bớt dự trữ ngoại
tệ, thâm thủng thương mại và áp lực đối với đồng bạc Việt Nam.
Biểu đồ tăng trưởng GDP và lạm phát của Việt Nam
giai đoạn 1990-2011
Lạm phát năm 2012 chỉ ở mức 6,81%, thấp hơn nhiều so với mức tăng
11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011. Chính sách tiền

tệ - tài khóa chặt chẽ,linh hoạt được NHNN duy trì trong năm 2012 cùng
với nỗ lực bình ổn kinh tế của các cơ quan quản lý đã đưa đến một kết quả
tích cực trong việc hạ nhiệt lạm phát. Đổi lại,tăng trưởng GDP năm 2012
tiếp tục giảm tốc khi chỉ tăng trưởng 5,03% so với năm 2011.Tổng cầu nền
kinh tế có dấu hiệu giảm và duy trì mức thấp, tồn kho cao, tiêu thụ tăng
chậm và các doanh nghiệp trong nền kinh tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng 0,27% so với tháng trước và
tăng 6,81% so với tháng 12/2011. CPI năm 2012 đã được kiềm chế ở mức
thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13%
của năm 2011. Mặc dù được kiềm chế ở mức tăng tương đối thấp nhưng
diễn biến CPI năm 2012 có nhiều yếu tố không theo chu kì hàng năm. Cụ
thể: CPI không tăng cao vào 2 tháng đầu năm (do ảnh hưởng bởi nhu cầu
tiêu dùng tăng đột biến trong dịp tết dương lịch – tết âm lịch theo yếu tố
6
chu kì) nhưng lại tăng đột biến vào các tháng 9, 10. Không giống năm
2011, nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong rổ hàng hóa tính CPI là
Hàng ăn và dịch vụ tiêu dùng tăng khá thấp trong năm qua khi chỉ tăng có
1,01% so với năm trước, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng 24,8% của
cùng kỳ năm 2011. Ngược lại, nhóm Thuốc và dịch vụ y tế có mức tăng tới
45,23% trong năm 2012, trong đó, dịch vụ y tế tăng tới 63,58%. Nguyên
nhân của đà tăng mạnh này là do hàng loạt các bệnh viện ở trong nước đã
điều chỉnh viện phí và giá thuốc tăng lên khá nhiều lần (kể từ cuối tháng 7)
khiến chi phí cho nhóm hàng này tăng mạnh. Nhóm hàng này đóng góp tới
2,54 điểm phần trăm trong mức tăng CPI năm nay. Giáo dục là nhóm hàng
tăng giá cao thứ hai sau Thuốc và dịch vụ y tế, đã tăng đột biến vào tháng 9
theo yếu tố mùa vụ (mùa khai trường). Các tháng cuối năm dù không tăng
mạnh nhưng mức tăng giá cả năm của nhóm hàng này cũng đã lên tới
16,97%. Các nhóm hàng còn lại đều có mức tăng bình quân từ 6 – 9%.
Ngay từ tháng 1/2013, chỉ số CPI đã tăng 1,25% so tháng trước và
tăng 7,07% so cùng kỳ, trong khi mục tiêu kìm giữ lạm phát cả năm dưới

6,8%. Lương thực, thực phẩm đảo chiều tăng mạnh; giá y tế tiếp tục góp
phần lớn vào đà tăng chỉ số chung.
Sáng (24/1/2013), Tổng cục Thống kê chính thức công bố về chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2013. Theo đó, CPI tháng này đã tăng 1,25% so
với tháng 12/2012 và tăng 7,07% so với cùng kỳ.
7
Đây là tháng có mức tăng mạnh nhất trong vòng gần 1 năm trở lại đây
(nếu không kể đợt tăng đột biến 2,2% hồi tháng 9/2012). Còn nếu tính cùng
thời điểm, mức tăng giá tháng 1/2012 cũng chỉ ở mức 1% trước khi tăng
lên 1,37% vào tháng Tết Nguyên đán.
CPI tháng 1 tăng mạnh trở lại, chủ yếu do giá y tế, thực phẩm và
may mặc (Nguồn: GSO/Dân trí).
8
III. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ.
1. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm
phát do cầu kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.
Cân đối thu chi là điều không thể tránh khỏi khi xảy ra lạm phát.
- Lạm phát do cầu kéo:
Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kéo
theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác
cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa
trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị
trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu kéo”.
- Lạm phát do chi phí đẩy:
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên
liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế Khi giá cả
của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí
nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng
lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là mức giá chung của toàn thể nền kinh

tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.
- Lạm phát do cơ cấu:
Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công
“danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh
doanh không hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng
tiền công cho người lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh
doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, các
doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi
nhuận và làm phát sinh lạm phát.
- Lạm phát do cầu thay đổi:
Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong
khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người
9
cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể
tăng mà không thể giảm, như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng
cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì
lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
- Lạm phát do xuất khẩu:
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị
trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu
gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm
(hút hàng trong nước) khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi
tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.
- Lạm phát do nhập khẩu:
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá
cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên.
Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
- Lạm phát tiền tệ:
Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân
hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi

mất giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo
yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát.
2. Hậu quả của lạm phát
Ngoài trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (lạm phát một con
số) có tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội, còn lại nói
chung lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của
nền kinh tế xã hội.
- Thứ nhất, là làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo
giá trị hay nói đúng hơn là thước đo này co dãn thất thường, do đó xã hội
không thể tính toán hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình.
- Thứ hai, tiền tệ và thuế là 2 công cụ quan trọng nhất để nhà nước
10
điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hóa, vì tiền tệ bị mất giá nên không ai tin
vào đồng tiền nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng
bất ngờ của lạm phát và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế,
ngay cả trong trường hợp nhà nước có thể chỉ số hóa luật thuế thích hợp
với mức lạm phát, thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng vẫn bị hạn chế.
- Thứ ba, phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các
hàng hóa có giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người có
các hàng hóa mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ
tiền bị nghèo đi.
- Thứ tư, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng
bạc…gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí.
- Thứ năm, xuyên tác bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các
điều kiện của thị trường bị biến dạng. Hầu hết các thông tin kinh tế đều thể
hiện trên giá cả hàng hóa, giá cả tiền tệ, giá cả lao động…Một khi những
giá cả này tăng hay giảm đột biến và liên tục thì các yếu tố của thị trường
không thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo.
- Thứ sáu, sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành

nào có lợi nhuận cao.
- Thứ bảy, ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu
ngày càng giảm về mặt giá trị.
- Thứ tám, đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình
thường của ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản
tiền nhàn rỗi trong xã hội.
- Thứ chín, đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân
về hàng tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc
biệt là đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác, lạm
phát cũng làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên
hiện tượng là tìm cách tháo chạy ra khỏi đồng tiền và tìm mua bất cứ hàng
hóa dù không có nhu cầu. Từ đó, làm giàu cho những người đầu cơ tích trữ.
11
IV. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Để thực hiện kiềm chế lạm phát, phát triển kinh tế ta có các biện pháp
khắc phục sau:
* Các giải pháp tiền tệ tài chính:
- Tiếp tục triển khai phát triển thị trường vốn ngắn hạn, củng cố thị
trường tín phiếu kho bạc,
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với Bộ tài
chính tổ chức điều hành có hiệu quả hoạt động của các thị trường này
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước điều hành chặt chẽ phương tiện thanh toán đã dự
kiến:
Thu hồi nợ đến hạn và quá hạn, khống chế hạn mức tín dụng kiểm
soát định mức dự trữ bắt buộc theo pháp lệnh Ngân hàng loại bỏ tín phiếu
kho bạc trong cơ cấu dự trữ bắt buộc và tăng tương ứng phần tiền gửi tài
khoản của Ngân hàng Nhà nước.
- Bên cạnh các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp cần áp
dụng thành các chuyển gián tiếp để điều hành lãi suất thị trường, điều hoà

lưu thông tiền tệ mở rộng việc thanh toán.
* Các biện pháp về ngân sách Nhà nước.
- Phấn đấu tăng thu, thực hiện triệt để tiết kiệm chi nhằm giảm bội chi
ngân sách Nhà nước, tăng dự trữ tài chính bảo đảm cân đối ngân sách Nhà
nước một cách vững chắc và lành mạnh đó cũng chính là biện pháp cơ bản
để góp phần kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
- Đi đôi với việc nghiên cứu chính sách thuế. Bộ tài chính và UBND
các cấp chặt chẽ đối tượng nép thuế, đấu tranh chống buôn lậu và kinh
doanh trái pháp luật. Tổ chức thanh tra và kiểm tra việc thu thuế cải tiến
thủ tục nép thuế, cần phải tránh những phiền hà cho người nộp thuế.
12
- Hơn nữa chúng ta phải thực hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng
phí, tổ chức sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả
trong việc mở rộng và phát triển kinh doanh.
* Các biện pháp về điều hành cung cầu thị trường:
- Thực hiện các biện pháp để hàng hoá lưu thông suốt trong cả nước
từ đó ngăn chặn các hiện tượng đầu cơ tích trữ hàng khan hiếm, kích giá
tăng lên thiệt hại cho sản xuất và đời sống. Bộ thương mại và các ngảnh có
liên quan phải quản lý thị trường, tiêu thụ hàng hóa phù hợp với cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước, xây dựng mạng lưới thương nghiệp với
sự tham gia của các thành phần kinh tế, việc quản lý thị trường gắn với đặc
thù của từng khu vực trên cả nước.
Nhà nước cần thi hành "chính sách tài chính thắt chặt" như tạm
hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân
sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được.
Trong ngắn hạn về kiềm chế và kiểm soát lạm phát, thứ nhất là không
ưu tiên mục tiêu tăng trưởng và không tăng trưởng bằng mọi giá. Nhận
thức này nhằm tránh tình huống vì nỗ lực tăng trưởng mà tạo ra lạm phát,
thậm chí là lạm phát cao.
13

V. KẾT LUẬN
Chúng ta biết rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản
là ngày một ngày hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xóa bỏ lạm phát
hoàn toàn thì cái giá phải trả không tương xứng với việc lợi ích đem lại.
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp.
Lạm phát đã hoành hành khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế - xã hội,
xóa bỏ bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản
lí kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng, thành công trong việc chống
lạm phát năm 2008 đưa nước ta vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận
thức quản lý của Đảng và nhà nước ta.
Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta , vì vậy Đảng và nhà nước ta
phải thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước
ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khao học, giáo dục, đuổi
kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế
giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà đặc biệt là các nhà doanh
nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh đất nước trong tương lai.
14

×