Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng hồ chí minh liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong học tập môn học tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.52 KB, 18 trang )

MỤC LỤ

PHẦN I. MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II. NỘI DUNG.....................................................................................2
I. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.....................................................................2
1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh..............................2
1.1.1. Truyền thống dân tộc Việt Nam..................................................2
1.1.2. Tư tưởng Đông - Tây..................................................................2
1.1.3. Chủ nghĩa Marx - Lenin..............................................................5
1.1.4. Cơ sở thực tiễn............................................................................5
1.2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.........8
II. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC TẬP MƠN
HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.........................................................10
3.1. Phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống của sinh viên..................................................................................10
3.2. Phát huy vai trò của phương pháp “nêu gương” trong việc xây
dựng lối sống mới cho sinh viên...........................................................11
3.3. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong việc
giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên............................12
3.4. Phát huy vai trị của tổ chức Đồn Thanh niên của các trường
đại học vào công tác xây dựng lối sống mới cho sinh viên.................14
KẾT LUẬN....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................16

i


PHẦN I. MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ
Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam


tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát
triển gắn với các thời kì hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách
mạng Việt Nam và quốc tế vào đầu và giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa dân tộc
Việt Nam, tư tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng
cộng sản Marx - Lenin, tư tưởng văn hóa phương Đơng, văn hóa phương Tây
và phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính
thống của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được
chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Việt Nam cùng các quan điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay đều
thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo
Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và coi tư tưởng
Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng sản
Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành
động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí
Minh ở tất cả các tầng lớp trong xã hội. Nắm bắt được tính cấp thiết, tác giả
đã lựa chọn đề tài “Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư
1


tưởng Hồ Chí Minh. Liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong học tập
mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh”.


2


PHẦN II. NỘI DUNG
I. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Truyền thống dân tộc Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất, tự lực, tự cường để dựng nước
và giữ nước tồn tại trong suốt lịch sử của dân tộc. Đồng thời, trong q trình
dựng nước, giữ nước, tinh thần đồn kết và ý thức dân chủ cũng xuất hiện.
Tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ làm cho mối quan hệ Cá nhân - Gia đình
- Làng - Nước ngày càng trở nên bền chặt và nương tựa vào nhau để sinh tồn
và phát triển. Giá trị truyền thống của người Việt là dũng cảm, cần cù, dẻo dai
trong lao động sản xuất, chiến đấu để sinh tồn và phát triển trước thiên nhiên
và kẻ thù xâm lược. Nhưng đồng thời, trong q trình đó, dân tộc Việt Nam
cũng tiếp nhận những giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại. Người Việt có
tư duy mở và mềm dẻo khiến họ dễ dàng tiếp nhận những tư tưởng bên ngoài.
Trong khi là đảng viên Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ
nghĩa Lenin với mục tiêu giải phóng dân tộc trong lúc nhiều đồng chí Pháp
của ông chọn con đường dân chủ xã hội với chủ trương cải cách xã hội nhưng
chấp nhận nền dân chủ. Chủ nghĩa yêu nước là điểm xuất phát, là cơ sở để Hồ
Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa Marx - Lenin; là một trong những nguồn gốc
chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Tư tưởng Đơng - Tây
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu tư tưởng
Đông - Tây mà trước hết là tư tưởng phương Đông mà đặc trưng là Phật giáo
và Nho giáo đã được Việt hóa. Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động
tới Hồ Chí Minh ngay từ khi cịn nhỏ ở trong mơi trường giáo dục - văn hóa
Việt của làng xã Việt Nam, dưới sự dạy bảo của gia đình với người cha, vừa

là thầy và những nhà nho yêu nước khác. Sau này, khi trở thành người cộng
3


sản, ơng vẫn tiếp tục tìm hiểu những trào lưu tư tưởng mới ở Ấn Độ và Trung
Hoa mà điển hình là chủ nghĩa Gāndhī và chủ nghĩa Tơn Dật Tiên. Ơng đã
tìm thấy trong “chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù
hợp với điều kiện nước ta”.
Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tự
giới thiệu: "Tôi xuất thân từ một gia đình nhà Nho, nơi mà các thanh niên đều
theo học đạo Khổng". Rồi tại Đại hội Quốc tế cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái
Quốc lại ghi trong lý lịch: "Thành phần gia đình nhà nho".
Sự tương đồng giữa thuyết Đại đồng của Nho giáo và chủ nghĩa cộng
sản khiến Hồ Chí Minh và nhiều nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam khác có
nền tảng Nho học dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh thấy
được khả năng thích ứng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam do sự tương
đồng giữa chủ nghĩa cộng sản và lý tưởng Đại đồng của Nho giáo. Ông dùng
những từ ngữ, những mệnh đề của Khổng Tử vốn rất quen thuộc với truyền
thống văn hoá Việt Nam để kết nối những giá trị chung trong học thuyết Nho
giáo và học thuyết Marx. Trong bài Le Grand Confucius (Đức Khổng Tử vĩ
đại) đăng trên tạp chí Communise số ra ngày 15/05/1921, Nguyễn Ái Quốc đã
giới thiệu thuyết Đại đồng như sau: "Đức Khổng Tử vĩ đại (năm 551 trước
Công nguyên) khởi xướng nền đại đồng và thuyết giáo quyền bình đẳng về
của cải. Người nói tóm lại là: Nền hồ bình trên thế giới chỉ nảy nở từ nền Đại
đồng trong thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng".
Trong chiến tranh Việt Nam, ở miền Bắc buộc phải thực hiện chế độ
phân phối thời chiến, Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở cán bộ về tư tưởng
Khổng Tử: "Không sợ thiếu chỉ sợ khơng cơng bằng, khơng sợ đói chỉ sợ lịng
dân không yên".


4


"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tơn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Marx có ưu
điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là
chính sách thích hợp với điều kiện của nước ta… Khổng Tử, Giêsu, Karl
Marx, Tôn Dật Tiên chẳng phải có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn
mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hơm
nay, họ cịn sống trên đời này, nếu họ ở một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định
chung sống với nhau rất tốt đẹp như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng
làm người học trị nhỏ của họ."
Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ lúc cịn ngồi
trên ghế nhà trường. Khi học ở trường tiểu học Vinh và Huế, những tư tưởng
tiến bộ của Đại cách mạng Pháp về “tự do, bình đẳng, bác ái” đã bắt đầu ảnh
hưởng mạnh mẽ đến ông và là một trong những yếu tố tác động đến ơng trong
việc tìm hướng đi mới sang phương Tây để tìm đường cứu nước, cứu dân.
Ba mươi năm sống, lao động, học tập và hoạt động ở nước ngồi, đặc
biệt là trong mơi trường văn hóa phương Tây, ơng đã có điều kiện để tìm
hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm qua các hoạt động chính trị, văn hóa,
xã hội ở đây; đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng của các nhà khai sáng (Voltaire,
Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu..) qua các tác phẩm của họ. Ông đã tới
Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp thấy được đời sống xã hội tại những nơi khởi
nguồn của ba cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ điển hình trên thế giới. Tư
tưởng cách mạng tiến bộ của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ
tới Hồ Chí Minh. Đó là những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa dân tộc và nhân
văn trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp với quyền dân tộc, quyền con người
và tư tưởng dân chủ mà nội dung của nó là tự do, bình đẳng, bác ái. Đây là
những điểm mới về tư tưởng trong tinh hoa văn hóa phương Tây đã tác động
mạnh mẽ tới suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ Chí Minh. Sống trong

mơi trường dân chủ và thông qua các hoạt động dân chủ trong làm việc, sinh
5


hoạt ở các tổ chức lao động, xã hội và chính trị ở phương Tây, Hồ Chí Minh
đã hiểu được các phương thức tổ chức xã hội dân chủ, cách làm việc dân chủ
và hình thành phong cách dân chủ.
1.1.3. Chủ nghĩa Marx - Lenin
Hồ Chí Minh đã tiếp thu học thuyết giải phóng con người là chủ nghĩa
Marx - Lenin. Khi tiếp nhận chủ nghĩa Marx - Lenin, ông từ người yêu nước
trở thành người cộng sản khi trở thành người tham gia sáng lập Đảng cộng
sản Pháp.
Đến với chủ nghĩa Marx - Lenin từ đòi hỏi của thực tiễn giải phóng dân
tộc và con người, từ nhu cầu chung của nhân loại về quyền dân tộc, quyền
con người, Hồ Chí Minh đã vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa Marx - Lenin để nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và thế giới và tự
tìm ra con đường của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, chủ nghĩa Marx - Lenin
chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu có vai trị quyết định trong
việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự
vận dụng chủ nghĩa Marx - Lenin trong hoàn cảnh của Việt Nam.
1.1.4. Cơ sở thực tiễn
Ở Việt Nam
Việt Nam có lịch sử và văn hiến lâu đời với truyền thống chống giặc
ngoại xâm nhưng đến thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một quốc gia lạc hậu, kém
phát triển. Đến giữa thế kỷ XIX, trước sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà
Nguyễn, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Sau khi đã hoàn
thành về căn bản cơng cuộc bình định Việt Nam về mặt qn sự, thực dân
Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam cũng như ở Lào và Campuchia
một cách quy mô và từng bước biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành
nước thuộc địa, nửa phong kiến với những biến đổi căn bản về chính trị - kinh

tế - văn hóa - xã hội. Sự biến đổi đó làm xuất hiện trong xã hội Việt Nam
những giai tầng mới với sự ra đời của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và
6


tầng lớp tiểu tư sản. Theo đó, bên cạnh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong
kiến là giữa nông dân với địa chủ phong kiến, sự xuất hiện các giai tầng mới
đã làm nảy sinh thêm các mâu thuẫn mới: giữa giai cấp công nhân Việt Nam
với giai cấp tư sản, giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc
Pháp.
Trước các biến đổi trên, phong trào cách mạng Việt Nam cũng từng
bước có những phát triển mới đó là sự xuất hiện của phong trào yêu nước mới
và phong trào công nhân ở Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách ở
Trung Quốc của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, gương Duy Tân của
Nhật Bản, cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, phong trào yêu nước của Việt
Nam chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu
nước có tinh thần cải cách như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Điển hình
như các phong trào Đơng Du, phong trào Duy Tân, phong trào Đông kinh
nghĩa thục... Nhưng tất cả những cố gắng cứu nước của trào lưu mới này ở
Việt Nam đều bị thất bại bởi sự đàn áp của thực dân Pháp. Trường Đơng kinh
nghĩa thục bị đóng cửa (12-1907), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị đàn
áp (1908); vụ Hà Thành đầu độc thất bại (6-1908). Phong trào Đông Du bị tan
rã, Phan Bội Châu và các đồng chí bị trục xuất khỏi nước Nhật (2-1909).
Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ bị đàn áp, các thủ lĩnh như Trần Quý Cáp,
Nguyễn Hằng Chi bị lên máy chém... Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn bị đày ra Côn Đảo... Dù thất bại nhưng các
phong trào yêu nước này đã nối tiếp nhau duy trì ngọn lửa cứu nước tiếp tục
cháy trong lịng dân tộc.
Cùng với phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân, sự ra đời và

phong trào đấu tranh của giai cấp mới là giai cấp công nhân Việt Nam sau
chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã làm cho phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Việt Nam thêm những yếu tố mới. Đặc biệt, từ đầu những năm hai
7


mươi của thế kỷ XX, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng đông lại chịu
tác động của phong trào cách mạng thế giới đã làm phong trào đấu tranh
mang đặc trưng riêng của giai cấp công nhân càng được thể hiện rõ nét. Đây
là nguồn gốc thực tiễn xã hội cực kỳ quan trọng cho sự ra đời của tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Như vậy, phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam là cơ
sở thực tiễn trong nước cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trên thế giới
Vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây
chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền - giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa - đã chuyển từ mở thị trường buôn bán sang việc các
nước đế quốc tiến hành tranh giành, đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa, nhằm
khai thác ngun liệu, bóc lột và nơ dịch các dân tộc ở hầu hết các nước Á,
Phi và Mỹ-latinh. Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong
lịng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở
các nước tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với
nhau và làm nảy sinh mâu thuẫn giữa nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Yêu cầu giải phóng, đem lại độc lập
cho các dân tộc thuộc địa khơng chỉ là địi hỏi riêng của các dân tộc thuộc địa
mà còn là yêu cầu chung của các dân tộc đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, chủ yếu là do tranh giành thị
trường giữa các nước đế quốc, đã dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ nhất (81914 đến 11-1918) nhằm chia lại các khu vực ảnh hưởng làm xuất hiện phong
trào của nhân dân thế giới đầu tranh địi hịa bình, chấm dứt chiến tranh đế

quốc và đó cũng là một trong những nguyên nhân bùng nổ Cách mạng Tháng
Mười Nga. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của nhà
nước công nông đầu tiên trên thế giới, đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ
8


từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi quốc tế, đã cổ vũ và
thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười, sự ra đời của nhà nước Xô viết,
phong trào cách mạng thế giới của giai cấp công nhân phát triển với sự ra đời
và dẫn dắt của Quốc tế III cũng như phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới là những nguồn gốc thực tiễn quốc tế cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh.
1.2. Q trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng hình thành ngay một lúc mà đã trải qua
một quá trình tìm tịi, xác lập, phát triển và hồn thiện, gắn liền với quá trình
hoạt động cách mạng phong phú của Hồ Chí Minh. Có thể chia q trình hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh thành 5 thời kỳ sau:
Thời kỳ hình thành tư tưởng u nước, thương nịi (trước năm 1911):
thời kỳ này Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha
thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ham muốn học
hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.
Thời kỳ tìm tịi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911-1920):
thời kỳ này Hồ Chí Minh tìm hiểu cuộc sống của những người lao động; đã
khảo sát, tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng Xã
hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga, học tập và đã tìm đến với
chủ nghĩa Lenin, tham dự Đại hội Tua, đứng về phía Quốc tế cộng sản, tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh đã có sự
chuyển biến về tư tưởng; từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ

nghĩa Marx - Lenin, từ một chiến sĩ chống thực dân phát triển thành một
chiến sĩ cộng sản Việt Nam. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng

9


cứu nước của Hồ Chí Minh: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản".
Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 1930): thời kỳ này Hồ Chí Minh đã có hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi,
phong phú ở Pháp (1921-1923), ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung Quốc
(1924-1927), ở Thái Lan (1928-1929)... Trong thời gian này, tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản. Hồ Chí Minh đã kết hợp
nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với tuyên truyền tư tưởng giải phóng
dân tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng tổ chức cách
mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tác phẩm và bài viết
của Hồ Chí Minh thời kỳ này đã thể hiện những quan điểm lớn về con đường
cách mạng Việt Nam, có thể kể tên các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925), Đường Kách mệnh (1927) và những bài viết khác.
Thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc
lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản (1930-1945): trên cơ sở tư tưởng về con
đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản, trong mấy năm đầu của
những năm 1930, Hồ Chí Minh đã kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng
của mình, vượt qua khuynh hướng "tả" đang chi phối Quốc tế Cộng sản, chi
phối Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển thành
chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do, dẫn
đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã ra đời.
Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc
(1945-1969): đây là thời kỳ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945 - 1954) mà đỉnh
cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thời kỳ này nổi bật là các nội
10


dung như: Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc; tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng khác nhau, đó là cách mạng giải phóng dân tộc ở
miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm một mục tiêu
chung trước mắt là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tư tưởng
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền...
II. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC TẬP MƠN
HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Qua mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, để thực hiện cuộc vận động:
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cần đặc biệt chú
trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên. Phát huy vai trò to lớn của
sinh viên trong sự nghiệp cách mạng là nhiệm vụ quan trọng và mang tính cấp
thiết. Giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên hiện nay là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, mỗi gia đình và tồn xã hội với nội dung sâu rộng, hình
thức phong phú đa dạng. Bám sát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Lối sống mới cho thanh niên-sinh viên, tác giả xin đề xuất một số giải
pháp như sau:
3.1. Phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống
của sinh viên
Sinh viên là lớp người trẻ, khoẻ, có nhiệt huyết, có năng lực tư duy,
nhạy bén với cái mới. Vì vậy, phải phát huy điểm mạnh đó của sinh viên
trong tự học tập, tự tu dưỡng đạo đức lối sống là biện pháp quan trọng giúp họ
nhanh chóng tiến bộ, trưởng thành. Muốn vậy, cần nâng cao nhận thức của

sinh viên về xây dựng lối sống mới; trước hết phải hình thành cho sinh viên
nhu cầu, động cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức
làm chủ, ham học hỏi, cầu tiến bộ, vươn lên tự khẳng định mình. Hiện nay,
trong chương trình đào tạo bậc đại học, các mơn Lí luận chính trị như: Tư
11


tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Triết học, Chủ nghĩa
xã hội, Pháp luật và chính quyền Nhà nước… sẽ giúp hình thành cho sinh
viên thế giới quan, nhân sinh quan khoa học. Vì vậy, cần phát huy hiệu quả
giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, đường lối của Đảng cho sinh viên thông
qua các môn học này, đặc biệt là hiệu quả giáo dục đạo đức, giáo dục tư
tưởng về lối sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua học phần Tư tưởng Hồ
Chí Minh: “Học phần tư tưởng Hồ Chí Minh mang những đặc trưng tổng hợp,
đem lại cho người học không chỉ là lí luận mà cịn là phương pháp; khơng chỉ
là nhận thức mà cịn hướng tới hành động; khơng chỉ lớn hơn về tri thức
thông qua tiếp cận các tác phẩm của Hồ Chí Minh mà cịn làm phong phú tình
cảm và niềm tin khi tự soi mình vào tấm gương đạo đức của Người”.
Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để sinh viên phấn đấu, rèn luyện, đồng
thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả, định hướng phấn
đấu cho sinh viên. Nhà trường phải có những quy định rõ ràng về việc khen
thưởng đối với sinh viên có thành tích tốt trong học tập, nghiên cứu khoa học,
trong rèn luyện đạo đức; đồng thời phải xử lí nghiêm minh với những trường
hợp vi phạm nội quy nhà trường, với những hành vi, lối sống lệch lạc trong
sinh viên. Mỗi sinh viên phải xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân
dân, sống có lí tưởng, có hồi bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ.
Bản thân mỗi người phải tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua
những cám dỗ và tiêu cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích
kỉ, thực dụng, “lợi mình, hại người”.
3.2. Phát huy vai trò của phương pháp “nêu gương” trong việc xây dựng

lối sống mới cho sinh viên
Để xây dựng lối sống mới cho sinh viên, nếu chỉ dừng lại ở việc tun
truyền, giải thích thơi thì chưa đủ, một biện pháp hữu hiệu đem lại hiệu quả
đó là “phải làm gương cho người khác bắt chước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “Nếu miệng thì tun truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn
12


trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên
truyền một trăm năm cũng vơ ích” (Ban Bí thư Trung ương Đảng, 2011b, tr
126). Như vậy, muốn kêu gọi sinh viên tham gia xây dựng lối sống mới, bản
thân người làm công tác xây dựng phải làm gương trước; cán bộ, giảng viên
phải là những tấm gương về đạo đức cho sinh viên noi theo, phải làm tốt
những công việc hàng ngày của mình, từ tác phong đi lại, cách ứng xử, phong
cách làm việc sao cho tốt; cán bộ lớp, cán bộ Đồn phải gương mẫu, nhiệt
tình trong cơng việc và học tập, có như vậy sinh viên mới nghe và học tập
theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, giáo dục bằng phương pháp “nêu
gương” là cách tốt nhất để xây dựng con người mới, lối sống mới. Bản thân
Người luôn là tấm gương sáng về rèn luyện đạo đức.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền tấm gương “người tốt, việc tốt” của
sinh viên đại học, như: sinh viên có thành tích học tập tốt, sinh viên khởi
nghiệp, sinh viên có đóng góp lớn trong phong trào tình nguyện…, tất cả
những tấm gương đó là nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho tồn sinh viên tích cực, nỗ
lực trong học tập và rèn luyện. Hiện nay, có rất nhiều cách để tuyên truyền
tấm gương “người tốt, việc tốt” cho sinh viên, như: mạng xã hội; đài phát
thanh nhà trường, trang web nhà trường, trang web của khoa; thông qua các
cuộc thi; những buổi lễ khen thưởng;…, đó đều là những cách hiệu quả để lan
tỏa giá trị tốt đến với mọi người.
3.3. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong việc giáo
dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên

Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của các tổ chức, các lực lượng cùng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối
sống cho sinh viên, hình thành phẩm chất cao đẹp của con người mới xã hội
chủ nghĩa. Mặc dù sinh viên phần lớn sống xa nhà, nhưng gia đình vẫn là nơi
lưu giữ các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là mơi trường đầu
tiên hình thành đạo đức cho sinh viên. Gia đình là nơi mà tình yêu quê hương,
13


đất nước, yêu thương con người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Do đó, trong gia đình, ông bà, cha mẹ phải thật sự mẫu mực, làm gương về
đạo đức, yêu thương, chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Hiện nay, do sức ép về
công việc khiến khơng ít các bậc làm cha, làm mẹ mải miết mưu sinh hoặc chỉ
lo làm giàu mà thiếu quan tâm việc giáo dục đạo đức cho con cái, giao phó
hồn toàn cho nhà trường và xã hội. Nhiều khi con cái vi phạm đạo đức hoặc
vi phạm pháp luật mà cha mẹ không hề hay biết, hoặc không biết cách ngăn
chặn, phòng ngừa. Để giáo dục đạo đức cho sinh viên, mỗi gia đình cần giữ
gìn đạo đức, nền nếp gia phong, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống,
làm cho các giá trị đó ngày càng toả sáng, góp phần bồi dưỡng tư tưởng tình
cảm cao đẹp cho thế hệ con cháu.
Vì vậy, các trường đại học cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình nhà trường - xã hội trong công tác xây dựng lối sống mới cho sinh viên nhằm
mang lại hiệu quả cao nhất bằng cách: thông tin kết quả học tập và rèn luyện
của sinh viên về gia đình; thơng báo kịp thời tình trạng nghỉ học, những biểu
hiện tư tưởng lệch lạc, vi phạm nội quy của nhà trường tới các gia đình khi
sinh viên vi phạm để tìm ra nguyên nhân, giải pháp giải quyết phù hợp; cố
vấn học tập, trợ lí tổ chức, Ban chủ nhiệm các khoa sẽ phải theo sát và nắm rõ
tình hình sinh viên mình quản lí, cũng như giữ liên lạc với gia đình của các
sinh viên.
Trong những năm qua, công tác giáo dục lối sống văn hóa cho thanh
niên - sinh viên ln được Đảng, Nhà nước, gia đình, nhà trường và tồn xã

hội quan tâm triển khai và đạt được nhiều kết quả. Thông qua các phong trào
thi đua yêu nước đã tạo mơi trường lành mạnh để thanh niên nói chung và
sinh viên nói riêng rèn luyện, trưởng thành, góp phần hình thành đạo đức tốt
đẹp, lối sống nghĩa tình, từng bước hoàn thiện nhân cách cho sinh viên. Phần
lớn, sinh viên có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sống có trách nhiệm với
Tổ quốc, gia đình và bản thân. Như vậy, cần có sự nhận thức đúng, đầy đủ
14


tính cấp bách và tâm quan trọng của cơng tác giáo dục lối sống mới cho thanh
niên - sinh viên; từ đó, xác định trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể nhân dân và tồn xã hội đối
với cơng tác này. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội,
giữa các ban ngành, đồn thể trong cơng tác giáo dục lối sống văn hóa cho
sinh viên.
3.4. Phát huy vai trị của tổ chức Đồn Thanh niên của các trường đại
học vào công tác xây dựng lối sống mới cho sinh viên
Trong các trường đại học, hoạt động Đồn là một trong những hoạt
động sơi nổi, khơng thể thiếu của sinh viên. Vì vậy tổ chức Đồn Thanh niên
trong trường có vai trị đặc biệt quan trọng giúp gắn kết, tuyên truyền và thực
hành lối sống mới cho sinh viên. Các cán bộ Đoàn Thanh niên trước hết phải
là những thanh niên gương mẫu trong học tập và rèn luyện, nhiệt tình năng
nổ, hăng hái, khơng ngại khó, ngại khổ, có phẩm chất đạo đức tốt, phải là
những tấm gương mẫu mực cho đoàn viên - sinh viên khác noi theo trong
công tác tuyên truyền, xây dựng lối sống mới cho sinh viên.
Đồn Thanh niên đóng vai trị quan trọng trong cơng tác tun truyền
lối sống mới cho sinh viên. Vì vậy, Đồn Thanh niên phải thường xuyên phối
hợp với các cấp Ủy đảng để tăng cường các hoạt động giáo dục lí luận chính
trị, các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát động các
phong trào hiến máu nhân đạo, hội thi văn hóa, văn nghệ cho sinh viên, phong

trào “sinh viên khởi nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện”,
… nhằm phát huy vai trị, sức mạnh tuổi trẻ, nhiệt huyết và tài năng của sinh
viên các trường đại học trong việc phát triển KT-XH của đất nước.

15


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những tài sản tinh thần to lớn cho Đảng
và dân tộc ta. Trước nhu cầu phát triển của đất nước, lực lượng sinh viên các
trường đại học phải trở thành những người có đủ “đức” và “tài”, xứng đáng
với niềm tin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho thế hệ trẻ, là chủ nhân tương
lai của đất nước. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ chun mơn, chúng
ta cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục, xây dựng lối sống với cho sinh viên
các trường đại học theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bối cảnh tồn cầu hóa, yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
hiện nay đã đặt ra những cơ hội và thách thức lớn cho ngành giáo dục nói
chung và giáo dục đại học nói riêng. Mục tiêu cơ bản của GD-ĐT bậc đại học
là tạo ra những con người có đủ đức, đủ tài, đáp ứng được nhu cầu của xã hội,
vì vậy nếu các trường đại học hiện nay chỉ chú trọng đào tạo những kiến thức,
kĩ năng, những năng lực cần thiết cho sinh viên là chưa đủ, mà còn phải quan
tâm tới việc xây dựng một lối sống tốt cho sinh viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln thấy rõ vai trị vơ cùng to lớn của thanh
niên trong sự nghiệp cách mạng. Người coi sự lớn mạnh của tuổi trẻ là sự
thành công của Đảng, là thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, là sự trường tồn,
phát triển của xã hội. Trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng
đất nước và xu thế toàn cầu hóa hiện nay, thanh niên chính là lực lượng xung
kích, đi đầu trong công cuộc ấy. Hiện nay, lực lượng thanh niên là Sinh viên
các trường đại học, cao đẳng khá lớn, đây chính là lực lượng lao động trí óc
quan trọng cho xã hội. Như vậy, bên cạnh việc trang bị những kiến thức, kĩ

năng, năng lực cần thiết thì vấn đề xây dựng một lối sống mới văn minh, lành
mạnh cho thanh niên - SV theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
yêu cầu tất yếu

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2011, t. 1, tr. 469
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 202
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994, t. 20, tr. 389 - 390
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 284 –
285
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 195

17



×