Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Cam nhan cua anh chi ve bai tho nhan cua nguyen binh khiem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.04 KB, 18 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Cảm nhận của anh chị về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Văn mẫu 10
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 1
Có thể nói rằng với Nhàn là bài thơ được sáng tác trong thời gian Nguyễn Bỉnh
Khiêm về quê ở ẩn. Chữ “nhàn” của ông đã thể hiện được thái độ sống, một triết lí
sống vơ cùng rõ ràng. Và triết lí ấy được gói gọn chỉ trong một chữ “nhàn”.
Mở đầu bài thơ tác giả viết một câu kể như sau:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta có thể thấy được ngay hai câu thơ mở đầu tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ
“một” được lặp lại ba lần ở trong một câu thơ. Nó khơng chỉ mang tính chất liệt kê
các sự vật quen thuộc đó chính là hình ảnh “mai”, “cuốc”, “cần câu” mà cịn là
những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nơng vơ cùng chân chất
vừa mang bóng dáng của một “Tao nhân mặc khách ngâm nga” vậy. Đó chính là
một hình dáng ung dung thoải mái, thêm vào đó là một trạng thái tâm hồn thanh
nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần.
Có thể nhận thấy được câu thơ như một lời thách thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối
với người đời, và cho dù ai vui thú nào đi chăng nữa thì ta đây vẫn vui thú an nhàn,
vui cuộc sống thơn q nhất. Cũng chính từ những lời thách thức đó dường như
cũng đã tốt lên được phong thái thật thanh thản trong tâm hồn và thật vui thú điền
viên của một lão nông già.
Khi đọc đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và
triết lí “nhàn” của thi nhân đã thể hiện qua câu:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khơn người đến chốn lao xao
Khơng khó khi nhận thấy được sự đối lập giữa các nhân vật trong hai câu thơ thể
hiện đó chính là “nơi vắng vẻ” và chốn q thật thanh bình vơ cùng an nhàn, vơ lo
vơ nghĩ. Thực sự đó chính là tâm hồn của con người ln ln hịa nhập cùng với
thiên nhiên. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì “chốn lao xao” cũng được ám chỉ đến
nơi quan trường với những vòng danh lợi, ghen ghét và sự đố kỵ nữa. Và phải


Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

chăng tác giả “dại” cho nên ơng mới tìm nơi thơn q, cịn người đời “khơn” tìm
đến chốn quan trường.
Nhưng xét trong vần thơ này lại hoàn tồn ngược lại, “dại” có nghĩa là khơn, và từ
“khơn” có nghĩa là dại. Bạn có thể nhận thấy được chính lối nói ngược mang ý
nghĩa mỉa mai: người khơn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục
vọng, luôn luôn phải suy nghĩ đắn đo, khiến cuộc sống luôn vội vã. Hai câu thực
như mang nghĩa mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng,
chính vào vịng danh lợi. Cịn đối với tác giả thì ơng dường như cũng đã phủ nhận
vịng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch.
Qua 4 câu thơ ta cũng thấy rõ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống
thanh cao, hòa nhập với thiên nhiên và tránh xa tham vọng. Khi đọc đến hai câu
luận cũng đã gợi mở cho người đọc về một cuộc sống vô cùng bình dị của nhân vật
trữ tình.
Thu ăn măng trúc đơng ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Măng, tre, trúc, giá được xem chính là đồ ăn dân dã từ xa xưa mà con người ta vẫn
thường ăn. Nó gắn liền với cuộc sống thôn quê chất phác và hết sức quen thuộc
trong đời sống. Còn với câu thơ:
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Câu thơ khiến ta nhớ về những hình ảnh quen thuộc ở làng quê, về cái lối sinh hoạt
dân dã. Khi trở về với thiên nhiên trở về với làng xóm. Tác giả thực sự hịa mình
với thơn q thuần hậu, người đọc có thể nhận thấy được cuộc sống thanh đạm, một
cuộc sống dường như cũng đã mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức
đấy. Thực sự đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai
có được. Chỉ là một cảnh sinh hoạt đời thường đơn giản nhưng nó lại thể hiện sự

đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên, đồng điệu với con người.
Cũng chính từ những thứ sinh hoạt đời thường này tác giả đã đến với hai câu kết,
với sự đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp nhất:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Điển tích “cội cây” xuất hiện như mang được ngụ ý muốn nói rằng phú q cơng
danh là thứ phù phiếm và đồng thời cũng chỉ là áng phù vân trơi nổi có rồi lại mất
như một giấc mơ mà thơi. Và qua đây ta có thể nhận thấy đây cũng chính là một thái
độ rất đáng trọng bởi tác giả đã sống trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu
khủng hoảng. Trong xã hội đó khi nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt và
thực sự đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác.
Tóm lại, Nhàn đã thể hiện rõ sự kết hợp hài hịa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ
đẹp tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện
rõ một tâm hồn u thiên nhiên, hịa mình cùng thiên nhiên, phủ nhận danh lợi, làm
gương cho bao thế hệ mai sau nữa.
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 2
Có thể nói rằng với bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả về quê ở ẩn.
Chữ “nhàn” của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện được thái độ sống, một
triết lí sống của tác giả được bộc lộ rõ ràng rất. Với bài thơ mang bốn triết lí sâu sắc
gói gọn trong chữ “nhàn” lúc này đây dường như cũng đã được phân chia bố cục
chặt chẽ. Mở đầu bài thơ tác giả viết một câu kể như sau:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dàu ai vui thú nào
Người đọc có thể thấy được ngay hai câu mở tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ

“một” được lặp lại ba lần ở trong một dòng thơ mang tính chất liệt kê các sự vật
quen thuộc đó chính là hình ảnh “mai”, “cuốc”, “cần câu” và đây chính là những vật
dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nơng cứ vơ cùng chân chất vừa mang
bóng dáng của một tao nhân mặc khách vậy. Khơng cần nói nhiều mà chỉ cần vậy
thơi là chúng ta cũng hồn tồn có thể cảm nhận được đây chính là cuộc sống nhàn
nhã của nhân vật trữ tình. Khi được kết hợp với điệp ngữ sử dụng đó là từ “một” là
từ láy “thơ thẩn” tất cả miêu tả được trạng thái của tác giả. Chính với dáng người
ung dung thoải mái, thêm vào đó là một trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên
khơng vướng bận chút bụi trần.
Có thể nhận thấy được câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời,
và cho dù ai vui thú nào đi chăng nữa thì ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống
thôn quê nhất. Cũng chính từ những lời thách thức đó dường như cũng đã ại toát lên

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

được phong thái thật thanh thản trong tâm hồn và thật vui thứ điền viên của một lão
nông.
Khi đọc đến với hai câu thực tiếp theo đã khái qt chân dung nhân vật trữ tình và
triết lí “nhàn” của thi nhân đã thể hiện qua câu:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khơn người đến chốn lao xao
Khơng khó khi nhận thấy được sự đối lập giữa các nhân vật trong hai câu thơ thể
hiện đó chính là “nơi vắng vẻ” và chốn quê thật thanh bình vô cùng ăn nhà và vô lo
vô nghĩ. Thực sự đó chính là tâm hồn của con người ln ln hòa nhập cùng với
thiên nhiên. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì “Chốn lao xao” cũng được ám chỉ đến
nơi quan trường với những vòng danh lợi, ghen ghét và sự đố kỵ nữa. Và phải
chăng tác giả “dại” cho nên ơng mới tìm nơi thơn q, cịn người đời “khơn” tìm

đến chốn quan trường. Thế nhưng thực chất ngược lại, xét trong câu thơ, “dại” có
nghĩa là khơn, và từ “khơn” có nghĩa là dại. Người đọc có thể nhận thấy được chính
lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy
những tham lam, dục vọng, luôn luôn phải suy nghĩ đắn đo, và ta như cảm nhận
thấy được như thế liệu có sung sướng? Người đọc có thể nhận thấy được chính với
phép đối hai câu thơ thực mang nghĩ mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu
vào tham vọng, chính vào vịng danh lợi. Cịn đối với tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
ông dường như cũng đã phủ nhận vịng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm,
khí chất thanh cao trong sạch. Bài thơ “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh cao,
tránh xa vịng danh lợi.
Khơng những tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng luôn luôn chọn cuộc sống thanh cao,
tránh xa tham vọng, tác giả cũng lại còn hòa nhập với thiên nhiên. Khi đọc đến hai
câu luận cũng đã gợi mở cho người đọc về một cuộc sống vơ cùng bình dị của nhân
vật trữ tình.
Thu ăn măng trúc đơng ăn giá
Xn tắm hồ sen hạ tắm ao
Chắc chẳng ai ai cũng sẽ biết măng, tre, trúc, giá được xem chính là đồ ăn dân dã từ
thiên nhiên rất dễ tìm thấy. Những món ăn này dường như cũng đã gắn liền với cuộc
sống của nhà nghèo nơi thôn dã đậm đà vị quê. Người ta cũng thấy được đây là
những món ăn quen thuộc trong đời sống. Còn với câu thơ:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Câu thơ như đã phác họa hình ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sinh hoạt dân dã. Khi
trở về với thiên nhiên trở về với làng xóm. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hịa
mình với thơn q thuần hậu, người đọc có thể nhận thấy được cuộc sống thanh
đạm, một cuộc sống dường như cũng đã mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa

nào thức đấy. Thực sự đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng
mấy ai có được. Người đọc có thể nhận thấy được với chính cảnh sinh hoạt đời
thường ấy đã thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên, đồng thời là của con
người. Chắc hẳn rằng hắn như phải sống hết mình, sống hịa hợp với thiên nhiên
mới có sự đồng điều kì diệu như vậy.
Người đọc có thể nhận thấy được cũng chính từ những thứ sinh hoạt đời thường ở
những câu thơ trên thì đến với hai câu kết, tác giả đúc kết tinh thần, triết lí sống cao
đẹp nhất qua hai câu thơ:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Tác giả có sử dụng điển tích “cội cây” như mang được ngụ ý muốn nói rằng phú
q cơng danh là thứ phù phiếm và đồng thời cũng chỉ là áng phù vân trơi nổi có rồi
lại mất nhử một giấc mơ mà thơi. Và thơng qua đây ta có thể nhận thấy đây cũng
chính là một thái độ rất đáng trọng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống trong thời đại
mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng. Trong xã hội đó khi nền tảng đạo đức
nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt và thực sự đó là thời đại mà con người lấy tiền làm
thước đo cho mọi giá trị khác.
Tóm lại bài thơ là sự kết hợp hài hịa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn
nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời tác phẩm cũng chính là một tâm
hồn yêu thiên nhiên, hịa mình cùng thiên nhiên, tác giả như phủ nhận danh lợi. Bài
thơ “Nhàn” cũng mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm gương cho bao thế hệ
mai sau nữa.
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 3
Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá
trị lớn lao. Trong số đó, khơng thể khơng nhắc đến bài thơ “Nhàn” của trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nhơ
đương thời:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú q, tựa chiêm bao”
Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” đều là những
công cụ gắn liền với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão
nơng biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho.
Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ “một” khiến lời thơ vang lên như
một tiếng sấm rạch rịi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm
vui vì được làm điều mình thích. “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải
mái, tác giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, khẳng
định người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn
không phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một khơng gian sống mà
mình thấy thích thú, tự do tự tại
Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hịa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là
sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khơn người đến chốn lao xao
“Ta” là nhà thơ, “người” là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ
ham cơng danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh
đời mà là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn
quan trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm
tránh xa thói đời ơ tạp, để giữ cho tâm hồn mình ln trong sáng và thanh sạch hơn.
Bằng cách nói ngược “dại” mà thực chất là “khơn”, cịn “khôn” nhưng thực chất lại

là “dại”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người,
thoái khỏi chốn lợi danh, ganh đua để sống an nhiên và tự tại. Cách nói nhún
nhường, khiêm tốn của bậc đại nho là lối ứng xửa minh triết của một bậc chân nho:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

“Dụng chi tắc hành
Xa chi tắc tàng”
D ng thì sẽ ắt nên cơng,
Nếu mà t khư c, hư không ch ng c n
Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thốt khỏi vịng ganh đua lợi lộc, thói tục,
khơng bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình ln khống đạt bởi:
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên khơng phải vất vả kiếm tìm.
Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ.
Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vơ vi của đạo gi: Khơng làm gì can
thiệp vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối
sống thuần theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng
khơng phải là món ăn khối khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải
cái nhàn tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà
thanh thản, lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng
gượng.
Tuy nhiên đến với cuộc sống nhàn phần nào cũng bởi đời ơ trọc mà thơi. Có vẻ nhà
thơ nhàn mà chưa thực sự nhàn, vẫn nhắc đến chuyện cơng danh:
“Rượu đến cội cây ta vẫn uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Hai câu thơ sử dụng điển Thuần Phong Vũ, thể hiện một cái nhìn bi quan về công

danh khi thấy chúng chỉ tựa như một giấc chiêm bao, là áng phù vân, khơng có giá
trị đích thực, khơng có ý nghĩa. Bởi vậy từ đó thi gia muốn nói con người coi
thường phú quý, đứng cao hơn phú q và khơng làm nơ lệ cho nó. Với cái nhìn
như thế, tác giả đã hồn tồn quay lưng vào cơng danh, lấy nhàn làm chân lí sống.
Vần thơ của cụ Nguyễn có sức cảnh tình với con người cần phải sáng suốt trước lợi
lộc trước mắt.
Tóm lại, “Nhàn” đề cao một nhân cách sống, một lối sống thanh cao, tránh xa lợi
lộc tầm thường, hướng đến lối sống thiện tâm. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh thời
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

đại mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đang sống, đó khơng phải là một giải pháp tốt để có thể
cải tạo và thay đổi xã hội.
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 4
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế
độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong
những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông
vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ
trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về
nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi
tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái
tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm
sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể
hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế
quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thốt tục, tìm vui trong thiên nhiên
cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hường nhà của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm
trong quy luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách

nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị.
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong
cái bận rộn giống như một lão nơng thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú
hưởng nhàn cao quý của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một
cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khá, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao
tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ được phác họa trong câu
thơ độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản
thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái
thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của
người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy.
Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách
rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp
cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản
lĩnh.
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao”
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú
nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn
đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng ta một cách ngạo nghề, một bên là
người, một bên là dại của ta, một bên là khôn của người, một nơi vắng vẻ với một

chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng
định cho thái độ sống của Nguyễn Bĩnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định
nghĩa dại – khơn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khơn để
tính tốn, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khơn là thói thực dạng ích
kỉ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách
nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ
mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong
việc tìm nơi vắng vẻ – khơng vướng bụi trần. Nhưng khơng giống lối nói ngược của
Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một minh ta say” đầy u uất, Trạng
Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào
cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử khơng
bận tâm những trị khơn – dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ
đẹp của cuộc sống nhàn tản:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lịng hịa
hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông,
nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng
tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thốt nét gần gũi với triết lí “vơ vi” của đạo
Lão. “Thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta
nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hịa hợp với tự nhiên
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lịng mình. Khơng
những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen cịn mang ý nghĩa biểu tượng gắn
kết với phẩm chất thanh cao của người qn tử, sống khơng hổ thẹn với lịng mình.

Hịa hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang Phu Tử đang sống đúng với thiên
lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng
sự khẳng định:
“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống
dứt khốt đoạn tuyệt với cơng danh phú q. Quan niệm ấy vốn dĩ gần với đạo Lão
– Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại
bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn
dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:
“Ơ thể m i hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui”
(Thói đời)
Phú q đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn
người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây
hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ ‘‘Tăng thử” (Ghét
chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng
là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống
đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh
thản cũng như giữ cho nhàn cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo
thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm
sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ “Nhàn” bao quát tồn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống
của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con
đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một
con người chân chính.
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 5
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Trong văn học trung đại, có nhiều bài thơ hay và ý nghĩa của các thi sĩ đương thời.
Trong đó bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những bài thơ tiêu biểu,
thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của tác giả, tôn cao triết lí sống.


Mở bài Nhàn



Kết bài Nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả về quê ở ẩn. Chữ “nhàn” của
Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề tâm thường như trong câu “nhàn cư vi bất thiện” mà
là thái động sống, một triết lí sống của tác giả được bộc lộ rõ ràng. Bài thơ mang
bốn triết lí sâu sắc gói gọn trong chữ “nhàn” được phân chia bố cục chặt chẽ. Mở
đầu bài thơ tác giả viết:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Hai câu mở tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” được lặp lại ba lần trong một
dịng thơ mang tính chất liệt kê các sự vật quen thuộc: “mai”, “cuốc”, “cần câu”
những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nơng chân chất vừa mang
bóng dáng của một tao nhân mặc khách. Chỉ cần vậy thôi, ta đã cảm nhận được đây
là một cuộc sống thư thái an nhàn của nhân vật trữ tình. Kết hợp với điệp ngữ “một”
là từ láy “thơ thẩn” miêu tả được tráng thái của tác giả. Với dáng người ung dung,
thoải mái, trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần.
Câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời, mặc dù ai vui thú nào,
ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê. Từ lời thách thức ấy toát lên sự

ung dung trong phong thái, thanh thản trong tâm hồn, vui thu điền viên.
Đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí
“nhàn” của thi nhân:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khơn người đến chốn lao xao
Ở đây ta thấy rõ được sự đối lập giữa các sự vật trong hai câu thơ “nơi vắng vẻ” là
chốn thơn q thanh bình, an nhàn vơ âu vơ lo, ở đó tâm hồn con người hịa nhập
với thiên nhiên, còn “chốn lao xao” là nơi quan trường với những đua tranh ghen
ghét của danh lợi, ồn áo phiền não. Phải chăng tác giả “dại” nên tìm nơi thơn q,
cịn người đời “khơn” tìm đến chốn quan trường, nhưng thật chất ngược lại, xét
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

trong câu thơ, “dại” có nghĩa là khơn, “khơn” có nghĩa là dại. Lối nói ngược mang ý
nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục
vọng, luôn phải suy nghĩ đắn đo, và như thế liệu có sung sướng? Phép đối hai câu
thơ thực mang nghĩ mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng,
vào vịng danh lợi. cịn tác giả, ơng phủ nhận vịng danh lợi ấy bằng cách thể hiện
quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch. “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh
cao, tránh xa vịng danh lợi.
Khơng những tác giả chọn cuộc sống thanh cao, tránh xa tham vọng, tác giả cịn hết
mình hịa nhập với thiên nhiên, Đến với hai câu luận đã gợi mở cho người đọc về
cuộc sống bình dị, giản đơn của nhân vật trữ tình:
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Ai cũng biết măng, tre, trúc, giá là đồ ăn dân dã từ thiên nhiên rất dễ tìm thấy, gắn
liền với cuộc sống của nhà nghèo nơi thôn dã đậm đà vị quê. Những thức ăn ấy trở
nên quen thuộc mỗi ngày trong đời sống sinh hoạt, thu ăn măng trúc trên rừng, mùa

đông về ăn giá. Đặc biệt câu thơ: “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” đã phác họa hình
ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sinh hoạt dân dã. Khi trở về với thiên nhiên, với làng
xóm, Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hịa mình với thơn quê thuần hậu. Cuộc sống
thanh đạm, mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức đấy, đó là một cuộc
sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có được. chính cảnh sinh hoạt
đời thường ấy đã thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên và của con người.
Hẳn phải sống hết mình, sống hịa hợp với thiên nhiên mới có sự đồng điều kì diệu
như vậy.
Từ những thứ sinh hoạt đời thường ở những câu thơ trên thì đến với hai câu kết, tác
giả đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Trong câu thơ, tác giả có sử dụng điển tích “cội cây” ý muốn nói rằng phú q cơng
danh là thứ phù phiếm ,chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi lại mất nhử một giấc mơ
mà thơi. Đó là một thái độ rất đáng trọng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong thời
đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng, nền tảng đạo đức nho giáo bị phá
vỡ, rạn nứt, đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Vậy, “nhàn” ở đây là coi thường vinh hoa phú quý. Và ta hiểu rằng “nhàn” ở đây là
một triết lí sống chứ khơng phải quan niệm nhân sinh, không phải là cứu cánh mà
chỉ là một phương thức tư duy. Bản chất chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
không phải nhân tâm mà là nhân thân. Nhân mà vẫn phải âu lo việc nước. Nhàn là
tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn chứ không phải là lười nhác, suy cho cùng
cũng là giữ gìn danh tiếng của mình, giữ trịn thanh giá của mình trong thời loạn, là
lạc đạo vọng bần giữ những phần tử gian xảo tranh đua danh lợi. Nhàn là không để
dục vọng xấu xa làm mờ ám lương tâm, làm vẩn đục tâm hồn, khơng tham dự vào

vịng danh lợi, cịn lịng ái quốc sẽ không bao giờ nguội lạnh.
Bài thơ là sự kết hợp hài hịa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân
cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm, là một tâm hồn yêu thiên nhiên, hịa mình cùng
thiên nhiên, phủ nhận danh lợi. Bài thơ mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm
gương cho bao thế hệ mai sau.
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 6
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế
độ phong kiến Việt Nam: Lê - Mạc xưng hùng, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Trong
những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông
vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ
trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về
nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi
tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái
tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm
sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể
hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế
quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thốt tục, tìm vui trong thiên nhiên
cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hường nhà của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm
trong quy luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách
nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị.
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong

cái bận rộn giống như một lão nơng thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú
hưởng nhàn cao quý của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một
cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khá, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao
tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ được phác họa trong câu
thơ độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản
thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái
thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thơi. Những vật dụng lao động quen thuộc của
người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy.
Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách
rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng
mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp
cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản
lĩnh.
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khơn người đến chốn lao xao”
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú
nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn
đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng ta một cách ngạo nghề, một bên là
người, một bên là dại của ta, một bên là khôn của người, một nơi vắng vẻ với một
chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng
định cho thái độ sống của Nguyễn Bĩnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định
nghĩa dại - khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại - khơn để tính
tốn, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại - khơn là thói thực dạng ích kỉ làm
tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy,
nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì
bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm
nơi vắng vẻ - khơng vướng bụi trần. Nhưng khơng giống lối nói ngược của Khuất
Ngun thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một minh ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã
cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một

xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân qn tử khơng bận

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

tâm những trị khơn - dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của
cuộc sống nhàn tản:
"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lịng hịa
hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông,
nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng
tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thốt nét gần gũi với triết lí “vơ vi” của đạo
Lão. “Thốt tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta
nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên
một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lịng mình. Khơng
những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn
kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lịng mình.
Hịa hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang Phu Tử đang sống đúng với thiên
lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng
sự khẳng định:
“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú q tựa chiêm bao."
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống
dứt khốt đoạn tuyệt với cơng danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gần với đạo Lão
- Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại
bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn

dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:
“Ơ thể m i hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui”
(Thói đời)
Phú q đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn
người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây
hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ ‘‘Tăng thử” (Ghét
chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú q tựa chiêm bao cũng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống
đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh
thản cũng như giữ cho nhàn cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo
thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm
sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ “Nhàn” bao qt tồn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống
của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con
đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một
con người chân chính.
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 7
Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của
kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi
mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; tập
thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu
trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường
luật.

Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn. Qua đó ta có thể thấy được vẻ
đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làng quê. “Một mai một cuốc, một cần
câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khơn người đến
chốn lao xao Thu ăn năng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Rượu đến
cội cay ta sẽ uống Nhìn xem phú qúy tựa chiêm bao.”
Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi “Một mai, một cuốc,
một cần câu Thơ thẫn dầu ai vui thú nào.” Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình
ảnh 1 ơng lão nơng dân sống thảnh thơi. Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp
điệp số từ “một" thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi
trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún
là có. Từ “thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung
dung chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy
được lúc nhàn rỗi nhất của ơng chính là lúc ơng cáo ơng về ở ẩn. Và từ “vui thứ
nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban
chen vịng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu đã khơng chỉ giới
thiệu được đề tài mà cịn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ, tâm trang thoải mái
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nhẹ nhàng vui thú điền viên. “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khơn người đến chốn
lao sao”
Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối
nhau như "ta"_ “người” ; “dại” _ “khôn” ; “nơi vắng vẻ”_ “chốn lao xao” từ 1 loạt
những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả. Nhân vật trữ tình
đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn
mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội”. hai câu thơ đã đưa ra được hai lối
sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là “ dại” vì đã theo
đuổi cuộc sống thanh đạm thốt khỏi vịng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh

nhàn. Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm?”
Điều đó tất nhiên là khơng vì hãy đặt bài thơ vào hồn cảnh sáng tác chỉ có thể làm
như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình. Do NBK có hồi bảo
muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang
tranh giành quyền lực, nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hồi bảo của ơng không
được xét tới .
Vậy nên NBK rời bỏ "chốn lao xao" là điều đáng trân trọng. “Thu ăn măng trúc
đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.” Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê
những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên. Mùa nào thức ăn nấy, mùa thu
thường có măng tre và măng trúc quanh nhà, mùa đơng khi vạn vật khó đâm chồi thì
có giá thay. Câu thơ “xn tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt
nơi dân dã. Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản, hòa hợp
với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà khơng bon chen, tranh
giành.
Đặt bài thơ vào hồn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiện được vẻ đẹp
của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ.
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.” Hai câu luận đã
thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn, có tính triết lí sâu sắc, vận dụng ý tượng
sáng tạo của điện tích Thuần Vu. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm phú q khơng phải
là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên, giữ nhiều chức vụ to lớn của
triều đình nên cuộc sống phú q vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không
xem nó là mục đích sống của ơng. Mà ơng đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao khơng
có thực và ơng đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để ln giữ được cốt cách thanh
cao của mình. Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm coi thường danh lợi, ln giũ dược tâm hồn thanh cao

hịa hợp với thiên nhiên, đề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lịng u nước
nhưng do hồn cảnh nên phải sống ẩn dật. Bên cạnh đó Nguyễn Bỉnh Khiêm cịn sử
dụng ngơn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí. Sử dụng khéo léo thể thơ
thất ngơn đường luật, điện tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm
1 cách linh hoạt.
Bài “Nhàn” là 1 bông hoa viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp của văn học trung đại Việt
Nam. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn, lối sống trong sạch của Nguyễn Bỉnh
Khiêm vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay
Xem tiếp tài liệu tại: />
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×