Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu bệnh teo gan trên tôm sú (Penaeus monodon) nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận vè đề xuất giải pháp phòng bệnh tổng hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 27 trang )

1



























BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
0o0





NGUYỄN KHẮC LÂM





NGHIÊN CỨU BỆNH TEO GAN TRÊN TÔM SÚ (Penaeus
monodon Fabricius, 1798) NUÔI THƯƠNG PHẨM TẠI NINH
THUẬN VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG BỆNH
TỔNG HỢP


Chuyên ngành:Nuôi thủy sản nước mặn lợ
Mã số: 62 62 70 05





TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP






Nha Trang-2010


2






























Công trình được hoàn thành tại Trường Đại Học Nha Trang



Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Đỗ Thị Hòa
PGS.TS Lại Văn Hùng



Phản biện 1: PGS.TS Đỗ Văn Khương
Viện nghiên cứu Hải sản



Phản biện 2: TS Nguyễn Văn Thành
Bộ Nông nghiệp & PTNT



Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Thanh Phương
Trường Đại Học Cần Thơ



Luận án được bảo vệ tại hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Trường họp
tại Trường Đại Học Nha Trang, vào hồi 14h giờ ngày 30 tháng 07 năm
2010.


Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Trường Đại Học Nha Trang
1
A. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LUẬN ÁN
1. Tính cấp thiết của luận án:
Nuôi tôm Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế đất nước, tuy nhiên trong thời gian gần đây người ta ghi
nhận ở Việt Nam đã xảy ra những đợt dịch bệnh tôm trầm trọng, làm
thiệt hại hàng trăm tỷ đồng cho sản xuất, như đợt dịch bệnh trên tôm
nuôi năm 1994 diễn ra ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long và
Duyên Hải Nam Trung Bộ, làm cho 84.858 ha diện tích tôm bị thiệt
hại, với giá trị khoảng 294 tỷ đồng. Đợt dịch bệnh năm 2003 với diện
tích bi thiệt hại lên đến 32.423 ha, chiếm 3,2% tổng diện tích nuôi.
Đối với Ninh Thuận nghề nuôi tôm cũng phát triển từ khá lâu và
có những bước đi khá vững chắc, hiệu quả. Tuy nhiên, nuôi tôm Ninh
thuận trong thời gian gần đây đã trải qua những đợt dịch bệnh làm
thiệt hại lớn cho sản xuất. Ngoài một số bệnh nguy hiểm như: bệnh
đốm trắng (WSSV), bệnh đầu vàng (YHV), hội chứng Taura (TSV).
Tôm nuôi Ninh Thuận còn xuất hiện bệnh mới trên gan tụy được gọi
là bệnh teo gan. Bệnh đã làm ảnh hưởng lớn cho sản xuất và hiện nay
cũng chưa có biện pháp phòng trị hiệu quả. Xuất phát từ nhu cầu cấp
thiết đó, luận án “Nghiên cứu bệnh teo gan trên tôm sú (Penaeus
monodon Fabricius, 1798) nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận và
đề xuất các giải pháp phòng bệnh tổng hợp” được thực hiện.
2. Mục tiêu của luận án
Xác định tác nhân và một số yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh
teo gan trên tôm sú nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận, qua đó làm cơ
sở khoa học để bước đầu xây dựng các giải pháp quản lý có hiệu quả,
nhằm hạn chế sự thiệt hại do bệnh gây ra.

3. Những nội dung của luận án
2
- Điều tra dịch tễ để xác định các yếu tố nguy cơ chính gây bệnh
teo gan ở tôm sú nuôi tại Ninh Thuận
- Nghiên cứu xác định tác nhân gây bệnh teo gan ở tôm sú nuôi
- Đề xuất các giải pháp phòng bệnh tổng hợp nhằm quản lý và
hạn chế có hiệu quả sự thiệt hại do bệnh teo gan gây ra trên tôm sú
nuôi thương phẩm.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm phong phú
thêm các thông tin về bệnh trên tôm sú nuôi ở Việt Nam. Đồng thời là
cơ sở khoa học cho việc xây dựng các giải pháp, để hạn chế sự thiệt
hại do bệnh teo gan gây ra trên tôm sú nuôi thương phẩm Ninh Thuận
nói chung và Việt Nam nói riêng.

- Kết quả của luận án sẽ là cơ sở quan trọng, giúp cho người
nuôi tôm Ninh Thuận nói riêng và nuôi tôm Việt Nam nói chung vận
dụng vào thực tiễn sản xuất, nhằm giảm thiểu những thiệt hại do bệnh
teo gan gây ra.
5. Những đóng góp của luận án
Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về tác
nhân chính và các yếu tố nguy cơ gây ra bệnh teo gan trên tôm sú nuôi
thương phẩm.
6. Bố cục của luận án
Mở đầu 3 trang
Chương 1: Tổng quan tài liệu 40 trang
Chương 2: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 24 trang
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận 62 trang
Chương 4: Kết luận và đề xuất ý kiến 2 trang
Luận án có 28 bảng, 38 hình và đồ thị, 178 tài liệu tham khảo

trong và ngoài nước.
3
B. NỘI DUNG LUẬN ÁN
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Nhiều công trình nghiên cứu về bệnh tôm trên thế giới và trong
nước đã được công bố cho thấy, gây bệnh trên hệ thống gan tụy tôm
he nuôi có thể bao gồm nhiều tác nhân khác nhau: virus, vi khuẩn, ký
sinh trùng, nấm, tảo độc, độc tố aflatoxin…
Đối với tác nhân là virus hiện nay khoa học đã xác định được có
khoảng 14 loài gây bệnh trên tôm He, trong đó có một số virus có cơ
quan đích là khối gan tụy của tôm như: MBV, HPV, BP,
BMN…(Lightner, Redman, Flegel, 2003). Những virus này làm cho
tôm nhiễm bệnh có hiện tượng: còi cọc, chậm lớn (MBV, HPV), gan
tụy tôm bị teo nhỏ, hoại tử , gan bị biến đổi màu sắc (HPV, BMN),
trên các tiêu bản mô học có thể nhận rõ những biến đổi trong tổ chức
tế bào gan tụy, bệnh có thể gây chết rải rác đến chết hàng loạt (MBV,
BMN, BP, HPV).
Trong nhóm vi khuẩn gây bệnh trên tôm He nuôi đáng chú ý là
nhóm Vibrio, nhóm này luôn tồn tại phổ biến trong môi trường nước
biển có độ mặn 20‰ - 40‰, và cơ quan đích của đa số loài trong
nhóm này là khối gan tụy của tôm (Lightner 1992, Lavilla-Pitogo
1990). Một số loài điển hình thường gây bệnh trên tôm nuôi là: Vibrio
alginolyticus, V. harveyi, V. vulnificus, V. parahaemolyticus, V.
anguilarum. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp gây bệnh ở tôm
chúng chỉ là tác nhân thứ cấp (Lightner, 1988).
Ngoài nhóm Vibrio, còn có vi khuẩn NHP (Necrotizing
Hepatopancreatitis) gây bệnh hoại tử gan tụy ở tôm. Đây là vi khuẩn
ký sinh nội bào, trong tế bào gan tụy tôm he có kích thước nhỏ. Khi
tôm nhiễm bệnh thường có các dấu hiệu: hệ thống gan tụy của tôm

4
bệnh bị teo nhỏ hoặc bị mềm, hoại tử, đi kèm là gan tụy có màu trắng
nhợt hoặc có những sọc đen. Tôm kém ăn, sinh trưởng chậm, tỷ lệ
giữa trọng lượng và chiều dài giảm, hệ số chuyển đổi thức ăn cao. Khi
kiểm tra cho thấy, ruột tôm trống rỗng không có thức ăn. Tôm nhiễm
bệnh tỷ lệ chết tích lũy có thể lên đến 90% trong vòng 30 ngày kể từ
khi xuất hiện bệnh.

Ký sinh trùng 2 tế bào Gregarine cũng được xác định là tác nhân
có khả năng gây ra hiện tượng phân trắng, teo gan trên tôm sú nuôi
nếu chúng kết hợp thêm sự bội nhiễm với vi khuẩn Vibrio (Bùi Quang
Tề, 2003).
Độc tố aflatoxin (B1) được sản sinh bởi giống Nấm mốc
Aspergillus flavus và A. parasiticus ở hàm lượng cao hơn 74ppb cũng
có thể gây nên hiện tượng teo các ống nhỏ bên trong gan tụy
(hepatopancreatic tubule), đồng thời gây hoại tử từng phần tế bào biểu
mô của ống gan tụy (Boonyaratpalin, 2000).
Về tảo độc một số nghiên cứu đã phát hiện ra sự hiện diện của
một số ngành tảo có khả năng gây độc như tảo Giáp (Dinophyta), tảo
Silic (Bacillariophyta), tảo Lam (Cyanobacteriophyta), tảo Bám
(Prymnesiophyta) và tảo Raphidophyta. Trong đó đáng chú ý có một
số loài tảo độc: Microcytis aeruginosa, Anabaena flos-aquae,
Oscillatoria agardhii có khả năng sản sinh ra độc tố microcystin,
nodularin, cylindrospermopsin, là những chất làm tổn thương đến hệ
thống gan tụy của động vật thủy sinh.
Nhìn chung đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tác nhân
gây ra các bệnh trên hệ thống gan tụy ở tôm He, tuy nhiên hầu như
chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống và đầy đủ về bệnh teo
gan trên tôm sú nuôi thương phẩm.


5
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu: bệnh teo gan ở tôm sú (P.
monodon) nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận.
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu:
- Điều tra và thu mẫu tôm tại các khu vực nuôi Ninh Thuận.
- Thực hiện phân tích mẫu tại phòng bệnh học thuộc Đại học
Nha Trang, Trung tâm Quan trắc Cảnh báo Môi trường và Phòng ngừa
Dịch bệnh Thủy sản khu vực Nam Bộ (Viện nghiên cứu NTTS 2),
Viện nghiên cứu NTTS 3, Phòng PCR thuộc Trung tâm Khuyến ngư
Ninh Thuận, Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương (Hà Nội), Trung tâm
phân tích thí nghiệm thuộc Sở Khoa Học Công Nghệ TPHCM.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp điều tra dịch tễ: dựa trên phương pháp
điều tra của Đào Ngọc Phong (2001).
2.2.2 Phương pháp mô bệnh học: thực hiện theo quy trình
nghiên cứu mô bệnh học trên giáp xác của Lightner, 1996.
2.2.3 Kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction): ứng dụng
phương pháp PCR của Lo & ctv,1996 dùng cho nghiên cứu trên các
đối tượng động vật thủy sản. Trong luận án đã sử dụng 3 phương pháp
là Non-Stop single tube Nested, Multiplex và Reverse Transcription
Polymerase Chain Reaction (RT-PCR) để phân tích các mầm bệnh là
virus. Sử dụng các primer đặc hiệu của Công ty Nam Khoa cho nghiên
cứu các loại virus WSSV, MBV, HPV, GAV.
2.2.4 Phương pháp nghiên cứu vi khuẩn: Nuôi cấy và phân
lập vi khuẩn dựa trên phương pháp nghiên cứu bệnh vi khuẩn ở cá và
động vật thủy sản của Musselin (1983) và Kimberley (2004).

6
2.2.5 Phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng: dựa theo
phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng của Dogiel, 1933.
2.2.6 Phương pháp nghiên cứu Nấm và độc tố aflatoxin:
Các mẫu được phân tích tại Trung tâm phân tích thí nghiệm
thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM.
2.2.7 Phương pháp nghiên cứu tảo độc:
Dùng phương pháp nghiên cứu về tảo hiện đang sử dụng tại
khoa NTTS thuộc Đại Học Nha Trang
Thành phần loài vi tảo được nhận biết dựa theo các tài liệu của
A.Shirota (1966), Kim Đức Tường (1965), Trương Ngọc An (1993),
Dương Đức Tiến (1996) và Carmelo R.Tomas (Identifying marine
Phytoplankton).
Xác định tần số bắt gặp của từng cá thể theo thang chia độ của
Starmach (1958) và Buck (1960).
2.2.8 Phương pháp cảm nhiễm: dựa theo phương pháp đã
được mô tả của Takahashi (1994). Cảm nhiễm tôm khỏe bằng dịch
chiết virus (PBS-Virus) theo 2 phương pháp tiêm và ngâm theo tỷ lệ
1/1000.
2.2.9 Phương pháp kính hiển vi điện tử: thực hiện tại Viện vệ
sinh dịch tễ Trung ương.
2.2.10 Các phương pháp phân tích các chỉ tiêu yếu tố môi
trường ao nuôi: theo các phương pháp hiện đang được áp dụng tại
Đại Học Nha Trang
2.2.11 Xử lý số liệu: sử dụng phần mềm Excel 6.0 và SPSS 11.5



7
CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1 Kết quả điều tra dịch tễ học bệnh teo gan trên tôm sú
Ninh Thuận
3.1.1 Những dấu hiệu chính có ý nghĩa chẩn đoán đối với
bệnh teo gan
- Dấu hiệu thường thấy nhất là phân tôm có màu trắng xốp nổi
trên mặt nước và thường tập trung hướng cuối gió tạo thàng váng như
váng dầu.
- Các biểu hiện đặc trưng ở gan tụy:
+ Gan tôm bị teo nhỏ chỉ bằng 1/3 thể tích gan bình thường. Ở
dạng này gan tôm thường “chai”, “cứng”, khó vỡ khi dùng tay ấn
mạnh. Màu sắc gan thường chuyển từ màu nâu vàng sang tái nhợt.
+ Gan tôm có dấu hiệu hoại tử, gan có màu trắng đục hoặc
vàng nhạt. Khi tách phần giáp đầu ngực của tôm thì cả khối gan rữa
nát theo.
+ Về màu sắc: có đến 58,6% ý kiến người nuôi cho rằng màu
sắc có thay đổi.
+ Cơ: có đến 56,7% nhận định rằng khi tôm bị bệnh cơ bị
“ốp”, tôm có tốc độ sinh trưởng âm. Hiện tượng này là kết quả của
việc tôm giảm ăn dài ngày.
+ Về tác hại của bệnh: có đến 56,7% ý kiến cho rằng tôm bị
chết hàng loạt khi nhiễm bệnh teo gan.


8
3.1.2 Quan hệ giữa bệnh teo gan với thời gian trong năm
Kết quả Bảng 3.4 cho thấy bệnh teo gan xuất hiện rải rác trong
cả năm, tuy nhiên bệnh tập trung chủ yếu trong tháng 6,7 và 8 (chiếm
tỷ lệ 50,6%). Kiểm định thống kê χ

2
(
χ
2
=37.121, df=11, P<0,01) cũng
cho thấy trong khoảng thời gian các tháng 6, 7 và 8 tôm dễ nhiễm
bệnh teo gan hơn các tháng còn lại trong năm.
3.1.3 Mối quan hệ giữa bệnh teo gan với chất đáy ao nuôi
Kết qủa cho thấy, bệnh teo gan xuất hiện cao nhất ở những ao có
chất đáy là cát với tỷ lệ 94,5% (tần suất bắt gặp 87/92), kế tiếp sau đó
là nhóm chất đáy cát pha bùn, với tỷ lệ xuất hiện bệnh 52,6 %.
Bảng 3.6 Giá trị chỉ số nguy cơ tương đối (RR-Relative Risk) và Tỷ
suất chênh(OR-Odds Ratio) đối với yếu tố nguy cơ là chất đáy ao nuôi
TT Chất đáy RR OR
1 Cát 2,37 26,24
2 Cát pha bùn 0,86 0,70
3 Bùn 0,61 0,36
4 Bùn pha cát 0,60 0,35
5 San hô 0,46 0,22
Kết quả phân tích ở Bảng 3.6 cho thấy, ở nhóm chất đáy là cát
chỉ số RR (2,37) và OR (26,24) lớn hơn 1, còn lại các nhóm chất đáy
khác đều có giá trị nhỏ hơn 1. Vì vậy, có thể nói giữa yếu tố chất đáy
là cát với bệnh teo gan có mối liên quan đến nhau, hay nói cách khác
chất đáy cát là yếu tố nguy cơ rủi ro đối với bệnh teo gan
3.1.4 Mối liên quan giữa bệnh teo gan với mật độ nuôi
9
Kết quả phân tích cho thấy, ở nhóm có mật độ nuôi > 40PL/m
2

giá trị RR (2,55) và OR (10,45) đều lớn hơn 1, trong khi đó các nhóm

mật độ nuôi khác 2 giá trị này nhỏ hơn 1 (Bảng 3.8). Điều này chứng
tỏ rằng nhóm mật độ nuôi > 40PL/m
2
là yếu tố nguy cơ đối với bệnh
teo gan trên tôm sú nuôi.
Bảng 3.8 Tỷ lệ nhiễm bệnh và giá trị các chỉ số (RR) và (OR) đối với
các nhóm ao có mật độ nuôi khác nhau
TT Mật độ
nuôi
(PL/m
2
)
Số hộ
(n=250)
Tần
suất
bệnh
teo
gan
Tỷ lệ

(%)
RR OR
1 > 40 134 112 83,6 2,55 10,45
2 26 - 40 60 24 40,0 0,61 0,34
3 15 - 25 56 14 25,0 0,36 0,14
3.2 Kết quả phân tích các tác nhân gây bệnh teo gan là các
yếu tố vô sinh
3.2.1 Kết quả phân tích hàm lượng aflatoxin (B1) và nấm
mốc Aspergillus trong thức ăn sử dụng cho tôm nuôi

Kết quả phân tích độc tố của 5 loại thức ăn (60 mẫu) thường
dùng phổ biến trong nuôi tôm tại Ninh Thuận ở 2 nhóm ao nuôi cho
thấy, trong 60 mẫu đều không phát hiện độc tố aflatoxin (LOD
aflatoxin 0,13ppb) còn đối với nấm mốc hàm lượng < 10 CFU/g.
Căn cứ tiêu chuẩn ngành 28 TCN 102: 2004 do Bộ Thủy Sản
ban hành năm 2004 quy định (hàm lượng độc tố aflatoxin (B
1
) an toàn
cho phép trong thức ăn viên hổn hợp tôm sú không được lớn hơn
10ppb), và một số nghiên cứu của các tác giả Brock (1992),
10
Boonyaratpalin (2000), có thể kết luận các loại thức ăn viên tổng hợp
không ảnh hưởng trực tiếp đến tôm, do đó không phải là tác nhân gây
ra hiện tượng teo gan ở tôm nuôi.
3.2.2 Kết quả phân tích các loài tảo độc đến bệnh teo gan
Kết quả nghiên cứu đã phát hiện 5 loài tảo có khả năng gây độc
đối với tôm trong cả hai nhóm ao nuôi. Trong đó, nhóm vi khuẩn lam
(Cyanobacteria) gồm hai loài là Trichodesmium erythraeum và
Trichodesmium thiebautii xuất hiện với tỷ lệ cao. Cao nhất là loài T.
erythraeum với tỷ lệ 58,3% ở nhóm ao tôm bệnh và 50,0% đối với
nhóm ao tôm khoẻ. Trong Ngành tảo Dinoflagellata gặp loài tảo hai
roi Prorocentrum micans với tỷ lệ gần tương đương trong cả hai nhóm
ao nghiên cứu. Riêng 2 loài tảo Alexandrium sp và Dinophysis sp chỉ
thấy xuất hiện trên nhóm ao tôm bệnh. Tuy nhiên tỷ lệ xuất hiện rất
thấp 8,3% (1/12 mẫu) (Bảng 3.12)
Bảng 3.12 Tần số bắt gặp và tỷ lệ xuất hiện các loài tảo độc ở các ao
nuôi tôm
Nhóm ao tôm bệnh
n=12
Nhóm ao tôm khoẻ

n=18

Loài tảo
Tần
suất
xuất
hiện
Tỷ lệ
%
Tần
số bắt
gặp
Tần
suất
xuất
hiện
Tỷ lệ
%
Tần
số
bắt
gặp
Trichodesmium
erythraeum
7/12 58,3 ++ 9/18 50,0 ++
Trichodesmium
thiebautii
5/12 41,6 ++ 7/18 38,8 ++
Prorocentrum 3/12 25,0 ++ 5/18 27,7 ++
11

micans
Alexandrium sp 1/12 8,3 + - - -
Dinophysis sp 1/12 8,3 + - - -
Kết quả phân tích cho thấy, trong 2 nhóm ao nghiên cứu có sự
xuất hiện chung (với tỷ lệ gần tương đương nhau) của 3 loài tảo được
liệt kê vào danh sách có khả năng gây độc đối với động vật thủy sản
nuôi thuộc 2 ngành, vi khuẩn lam Cyanobacteria (Trichodesmium
erythraeum và Trichodesmium thiebautii) và ngành tảo hai roi
Dinoflagellata (Prorocentrum micans). Riêng đối với nhóm ao tôm
bệnh còn xuất hiện thêm 2 loài Alexandrium sp và Dinophysis sp. Tuy
nhiên qua phân tích và những nghiên cứu được công bố trước đó đều
cho thấy, hầu hết tác hại của chúng gây ra cho động vật thuỷ sản nuôi
là hiện tượng thiếu oxy ở các vùng nước thông qua sự “nở hoa”. Chưa
có nghiên cứu nào cho thấy các loài vi tảo trên gây ra hiện tượng teo
gan trên tôm nuôi.
3.3 Kết quả nghiên cứu khả năng lây nhiễm bệnh từ cá thể
bị bệnh teo gan sang cá thể khỏe mạnh bằng cách nhốt chung tôm
bệnh teo gan và tôm khoẻ
Kết quả thí nghiệm nhốt chung 30 tôm khoẻ với 30 tôm bị bệnh
teo gan chúng tôi nhận thấy, sau 3-4 ngày nhốt chung đã thấy xuất
hiện một vài cá thể tôm khoẻ bắt đầu có hiện tượng bỏ ăn, bơi lờ đờ
quanh thành bể thể hiện sức khoẻ tôm suy yếu, màu sắc chuyển nhợt
nhạt. Tuy nhiên, tỷ lệ tôm khỏe bị nhiễm bệnh tích lũy xuất hiện nhiều
vào ngày thứ 8 sau khi nhốt chung (80% và 76,7%).
12
Sau 12 ngày kể từ khi nuôi nhốt chung, 100% tôm khoẻ đã xuất
hiện bệnh với các dấu hiệu đặc trưng của bệnh teo gan tụy. Trong khi
đó ở lô đối chứng (chỉ nhốt tôm khoẻ) tôm vẫn khoẻ mạnh và không
có cá thể nào thể hiện bệnh lý của bệnh teo gan tụy.
Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận định rằng, tác nhân gây

bệnh teo gan tụy ở tôm sú nuôi tại Ninh Thuận là sinh vật, đồng thời
bệnh có sự lây lan từ cá thể bệnh sang cá thể khoẻ, điều này chứng tỏ
bệnh teo gan có khả năng lây nhiễm theo trục ngang. Chúng có thể là
virus, vi khuẩn, ký sinh trùng hoặc nấm.
3.4 Kết quả phân tích tác nhân gây bệnh là sinh vật từ các
mẫu tôm bệnh teo gan tụy và tôm khỏe
3.4.1 Kiểm tra ký sinh trùng: Đã phát hiện 3 dạng ký sinh
trùng 2 tế bào Gregarine ký sinh phổ biến trong ruột tôm bệnh và tôm
khỏe. Theo mô tả của Clopton (2000) thì 3 dạng ký sinh trùng này
thuộc 3 loài của giống Nematopsis, Họ Cephalolobidae, Bộ
Gregarinicae, Lớp Eugregarinida.
Bảng 3.14 Tỷ lệ và cường độ Gregarine trên nhóm ao tôm bệnh teo
gan và nhóm ao tôm bình thường
Chỉ tiêu Đơn vị tính Nhóm ao tôm
khoẻ
Nhóm ao tôm
bệnh
Tỷ lệ cảm nhiễm
trung bình
% 11,8 ± 2,9 11,3 ± 2,1
Cường độ cảm
nhiễm trung bình
KST/cá thể 1,9 ± 0,4 1,8 ± 0,2
13
Kết quả kiểm tra cho thấy, tỷ lệ và cường độ cảm nhiễm trung
bình giữa 2 nhóm ao tôm bình thường và nhóm ao tôm bệnh teo gan
không có sự sai khác lớn (Bảng 3.12).
Dùng kiểm nghiệm t-test để so sánh tỷ lệ cảm nhiễm và cường
độ cảm nhiễm trung bình của ký sinh trùng ở nhóm ao bị bệnh teo gan
tụy và nhóm ao tôm khỏe cho thấy, không có sự khác biệt với mức ý

nghĩa 0.05.
Từ kết quả nghiên cứu này cho phép chúng tôi kết luận, ký sinh
trùng hai tế bào- Gregarine mặc dù cảm nhiễm khá phổ biến trong ruột
của tôm sú nuôi ở Ninh Thuận, nhưng không phải tác nhân trực tiếp
gây ra hiện tượng teo gan tụy ở tôm nuôi.
3.4.2 Kết quả phân lập vi khuẩn từ các mẫu tôm bệnh teo
gan và tôm khỏe
Đối với nhóm Vibrio đã phát hiện 6 loài với tỷ lệ nhiễm lần lượt
là 64% (16/25 mẫu) ở nhóm tôm bệnh teo gan và 60% (9/15 mẫu) ở
nhóm tôm khoẻ. Trong đó có một số loài tỷ lệ nhiễm trên 10% là V.
alginolyticus, V. anguilarum, V. vulnificus và V. ordalli.







64
32
4
60
20
13.3
0
10
20
30
40
50

60
70
Vibrio sp Pseudomonas
sp
Aeromonas sp
Vi khuẩn
Tỷ lệ nhiễm(%)
Tôm bệnh
Tôm khỏe
Hình 3.
11

T
ỷ lệ nhiễm cá
c nhóm vi khu
ẩn tr
ên m
ẫu tôm bệnh teo
gan và
m
ẫu tôm khỏe
14
Ngoài vi khuẩn Vibrio, giống vi khuẩn Pseudomonas và nhóm
Aeromonas sp cũng bắt gặp nhiễm trên tôm bệnh và tôm khoẻ.
Kết quả nghiên cứu trên một số ít lát cắt mô bệnh học gan tụy
tôm bị bệnh teo gan cho thấy, các tế bào biểu mô hình ống thể hiện sự
hoại tử và có sự tấn công bao vây của các tế bào máu (Hình 3.16),
điều này chứng tỏ có sự hiện diện của vi khuẩn gây ra những thương
tổn trên tế bào biểu mô gan tụy của tôm bệnh.
















Từ những kết quả phân tích thành phần vi khuẩn trên mẫu tôm
bị bệnh teo gan và mẫu tôm khoẻ cho phép chúng tôi nhận định rằng,
vi khuẩn (Vibrio, Pseudomonas và Aeromonas) vừa có mặt trên những
mẫu tôm khỏe và tôm bệnh có thể không phải là tác nhân chính gây
bệnh teo gan. Nếu có chúng chỉ là các tác nhân cơ hội.
3.4.3 Kết quả phát hiện các loại virus nhiễm trên các mẫu
tôm bệnh teo gan và tôm khoẻ

Hình 3.1
6
Trên lát cắt mô học tế bào gan tụy tôm bệnh cho thấy có sự tấn
công bao vây các tế bào máu quanh các ống gan tụy (mũi tên)
15
3.4.3.1 Virus gây hội chứng đốm trắng WSSV (White Spot
Syndrome Virus)
Kết quả nghiên cứu trên 111 mẫu gan tụy tôm bệnh teo gan và

45 mẫu gan tụy tôm khoẻ trong thời gian 2004-2006 cho thấy, ở
nhóm ao bị bệnh teo gan tôm có bị nhiễm virus gây hội chứng đốm
trắng (WSSV) nhưng mức độ cảm nhiễm rất thấp, tỷ lệ nhiễm chỉ
6,3%. Trong khi đó ở nhóm tôm khoẻ không phát hiện mẫu bị nhiễm
virus WSSV. Do vậy, chúng tôi cho rằng virus đốm trắng không phải
là nguyên nhân gây bệnh teo gan ở tôm sú. Tuy nhiên, khi đàn tôm đã
nhiễm bệnh teo gan có thể sức đề kháng của tôm bị suy giảm, làm cho
tôm tăng khả năng mẫn cảm với các tác nhân khác, đặc biệt là virus
và vi khuẩn. Đó là lý do có 6,3% mẫu tôm bị bệnh teo gan đã nhiễm
thêm virus đốm trắng.
3.4.3.2 Virus MBV (Monodon Type Baculovirus)
Kết quả kiểm tra trên 111 mẫu gan tụy tôm bệnh teo gan và 45
mẫu gan tụy tôm khỏe cho thấy, virus MBV nhiễm trên tôm bệnh teo
gan với tỷ lệ khá cao. Tỷ lệ nhiễm trung bình trong 3 năm (2004-
2006) là 20,7%.
Bảng 3.17 Tỷ lệ nhiễm virus MBV trên mẫu tôm bệnh và tôm khoẻ
Tôm bệnh teo gan Tôm khoẻ
Năm
Số
mẫu
Mẫu
nhiễm
% Số
mẫu
Mẫu
nhiễm
%
2004 36 7 19,4 15 1 6,6
2005 34 10 22,2 15 - -
2006 30 6 20,0 15 1 6,6

TC 111 23 20,7 45 2 4,4
Trên nhóm mẫu tôm khỏe, virus MBV cũng đã được phát hiện,
tuy nhiên tỷ lệ nhiễm chỉ có 4,4%.
16
Bằng kỹ thuật PCR, một số mẫu tôm bệnh có hiện tượng bị
nhiễm cùng lúc cả virus MBV và virus đốm trắng-WSSV, hoặc MBV
với HPV (Hình 3.22). Mặc dù số mẫu tôm nhiễm cùng lúc 2 loại virus
không nhiều, nhưng phát hiện này cũng phù hợp với công bố của các
tác giả Lightner (1989), Redman (1987) và Natividad (1996) cho
thấy sự xuất hiện MBV ngoài việc phụ thuộc vào mức độ cảm nhiễm
virus cao hay thấp, còn có sự tham gia của các tác nhân thứ cấp khác
như vi khuẩn, động vật đơn bào hay các virus khác.










Căn cứ kết quả về tỷ lệ nhiễm và những dấu hiệu bệnh lý do
virus MBV gây ra, chúng tôi nhận định MBV có thể là tác nhân gây ra
bệnh teo gan trên tôm sú nuôi. Tuy nhiên theo chúng tôi, trong trường
hợp này chỉ có thể xem xét MBV ở khía cạnh là đồng tác nhân, vì tỷ lệ
nhiễm ở nhóm bệnh teo gan không cao (20,7%), và không có nghiên
cứu nào công bố cho thấy tác nhân MBV trực tiếp gây ra hiện tượng
teo gan trên tôm nuôi.



Hình 3.22
Kỹ thuật PCR phát hiện một số mẫu tôm sú bị nhiễm đồng thời 2 loại
virus MBV & WSSV hoặc MBV & HPV
526bp
s

195bp
232bp

1:WSSV(+)
2:MBV(+)
3:MBV(+),
WSSV(+)
4:Control(+)

MBV
-


1: HPV(+), MBV
(+)
2: HPV(+)
3: MBV(+)
4: Control(+)
323bp
232bp
195bp
17
3.4.3.3 Virus HPV (Hepatopancreatic parvovirus)

Kết quả phân tích cho thấy, các mẫu tôm bị bệnh teo gan thu tại
các ao nuôi tôm thương phẩm đã phát hiện nhiễm HPV với tỷ lệ khá
cao 31,5%. Trong khi đó ở nhóm tôm khỏe, virus HPV cũng được
phát hiện nhiễm ở một số mẫu, nhưng tỷ lệ nhiễm thấp hơn nhiều so
với nhóm bị bệnh teo gan, chỉ là 11,1% (Bảng 3.18).
Bảng 3.18 Tỷ lệ nhiễm virus HPV trên mẫu tôm bệnh và tôm khoẻ
Tôm bệnh teo gan Tôm khoẻ
Năm
Số
mẫu
Mẫu
nhiễm
% Số
mẫu
Mẫu
nhiễm
%
2004
36 13 36,1 15 3 20
2005
45 15 33,3 15 1 6,6
2006
30 7 23,3 15 1 6,6
TC
111 35 31,5 45 5 11,1
Bằng kiểm định t-test chúng tôi thấy rằng, có sự khác biệt về tỷ
lệ nhiễm HPV giữa tôm bệnh teo gan và tôm khoẻ với mức ý nghĩa
P< 0,05 (Phụ lục 16).
Qua phân tích về những dấu hiệu tương đồng của bệnh teo gan
ở tôm sú nuôi tại Ninh Thuận, với bệnh do virus HPV gây ra (gan teo

nhỏ và biến đổi màu sắc, tôm sinh trưởng kém, còi cọc…), các điều
kiện xuất hiện bệnh (nuôi mật độ cao, nhiệt độ cao…) và kết quả
kiểm định thống kê cho thấy, có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm HPV giữa
nhóm tôm bệnh teo gan với nhóm tôm khoẻ. Vì vậy chúng tôi nhận
định, virus HPV có liên quan trực tiếp đến bệnh teo gan trên tôm nuôi
tại Ninh Thuận.


18
3.4.3.4 Virus BMN (Baculovirus Midgut Gland Necrosis Virus)
Kết quả kiểm tra gan tụy từ các mẫu tôm bị bệnh teo gan bằng
phương pháp mô bệnh học trong 3 năm (2004-2006), chúng tôi phát
hiện số lớn mẫu tôm bị bệnh teo gan cảm nhiễm một dạng thể vùi,
tương tự như đã được mô tả về virus BMN gây bệnh trên một số loài
tôm he (Penaeus spp), tỷ lệ mẫu nhiễm trung bình trong 3 năm là
40,5% (Bảng 3.19). Trong khi đó, ở nhóm mẫu tôm khoẻ thể vùi đặc
trưng của virus BMN cũng đã được phát hiện ở một số ít mẫu, tuy
nhiên cũng giống như HPV và MBV, tỷ lệ mẫu nhiễm các thể vùi
dạng BMN trong nhóm mẫu tôm khỏe không cao, chỉ 11,1% (5/45).
Kết quả kiểm định t-test so sánh tỷ lệ cảm nhiễm virus BMN
trên các mẫu tôm bệnh teo gan với nhóm các mẫu tôm khoẻ cho thấy,
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm tôm (P< 0,05).
Bảng 3.19 Tỷ lệ nhiễm virus BMN trên mẫu tôm bệnh và tôm khoẻ
Tôm bệnh teo gan Tôm khoẻ
Năm
Số
mẫu
Mẫu
nhiễm
% Số

mẫu
Mẫu
nhiễm
%
2004
36 13 36,1 15 _ _
2005
45 16 35,6 15 2 13,3
2006
30 16 53,3 15 3 20,0
TC
111 45 40,5 45 5 11,1
Từ những kết quả phân tích trên chúng tôi nhận định rằng, các
thể vùi đặc trưng cho virus BMN xuất hiện trong nhân tế bào gan tụy
của tôm sú bệnh có liên quan đến bệnh teo gan tại Ninh Thuận.

19
3.4.3.5 Tổng hợp các bệnh virus trên các mẫu tôm bệnh teo gan
và tôm khoẻ.
Bảng 3.20 Tỷ lệ nhiễm các loại virus trên tôm bệnh và tôm khoẻ
Tỷ lệ cảm nhiễm ở nhómmẫu
tôm bị bệnh teo gan (%)
Tỷ lệ cảm nhiễm ở nhóm
mẫu tôm khoẻ (%)

Năm
BMN HPV MBV WSSV BMN HPV MBV WSSV
2004 36,1 36,1 19,5 5,5 _ 20,0 6,6 _
2005 35,6 33,3 22,2 8,8 13,3 6,6 _ _
2006 53,3 23,3 20,0 3,3 20,0 6,6 6,6 _

TB 40,5 31,5 20,7 6,3 11,1 11,1 4,4
_
Có 4 loại virus khác nhau là WSSV, MBV, HPV và BMNV đã
được phát hiện nhiễm trên các mẫu tôm bệnh teo gan thu tại Ninh
Thuận, trong đó có 2 loại virus có cơ quan đích là tổ chức gan tụy
cảm nhiễm với tỷ lệ khá cao là HPV (31,5%) và BMN (40,5%). Hai
loại virus này đã làm cho tỷ lệ nhiễm virus gây hại trên gan tụy của
tôm lên tới 72%, chúng gây ra các biến đổi rõ ràng trong cấu trúc mô
và tế bào của tổ chức này như hoại tử, teo nhỏ, chai cứng và dấu hiệu
bộc lộ ra bên ngoài như tôm kém ăn, bỏ ăn, chậm lớn, óp, mềm vỏ,
chết rải rác hoặc hàng loạt. Ngoài ra, trong kết quả điều tra về dịch tễ
học, chúng tôi nhận thấy người nuôi đã dùng nhiều loại kháng sinh và
hóa chất khác nhau để trị bệnh teo gan ở tôm sú nuôi tại Ninh Thuận,
nhưng hiệu quả mang lại thường là rất thấp. Do vậy bước đầu chúng
tôi cho rằng, gây bệnh teo gan trên tôm sú có thể là do 2 loài virus đã
được phát hiện là HPV và BMN.
3.5 Kết quả cảm nhiễm dịch lọc (0,2µm)
20
3.5.1 Kết quả cảm nhiễm bằng phương pháp tiêm trực tiếp
Kết quả cảm nhiễm cho thấy, khi tiêm dịch dưới màng lọc
0,2µm (PBS-Virus) vào tôm khoẻ, trong cả 2 lần thí nghiệm đều thấy
xuất hiện các cá thể tôm bị bệnh với những dấu hiệu của bệnh teo gan.
Bắt đầu từ ngày thứ 3-4 sau khi tiêm, một số tôm đã thể hiện yếu, lờ
đờ và tỷ lệ tôm yếu xuất hiện nhiều hơn vào ngày thứ 7 sau khi tiêm
dịch lọc. Sau 13 ngày thí nghiệm, tỷ lệ tôm bệnh tích lũy có dấu hiệu
của bệnh teo gan là 100%. Trong đó số cá thể có sự biến đổi ở gan tụy
(teo nhỏ, hoại tử hoặc biến đổi màu sắc) là 51,7%.
3.5.2 Kết quả cảm nhiễm bằng phương pháp ngâm tôm khỏe
Kết quả cảm nhiễm cho thấy, bằng phương pháp ngâm tôm
khỏe trong môi trường có chứa dịch PBS-Virus pha loãng với tỷ lệ

1/1000. Sau 3-4 ngày thí nghiệm đã có một vài cá thể tôm có dấu hiệu
của bệnh teo gan, tỷ lệ tôm bệnh tích lũy xuất hiện nhiều sau 12 ngày
thí nghiệm (73,3%), sau 18 ngày thí nghiệm đã có 100% tôm khỏe
chuyển sang tình trạng bệnh lý với những dấu hiệu của bệnh teo gan.
3.5.3 Phân tích các tiêu bản mô bệnh học của tôm bệnh sau
thí nghiệm











C


10µm


Hình 3.32 Các thể vùi của virus BMN (mũi tên)
21












Hình 3.33 Các thể virion dạng hình que của virus BMN quan sát
dưới kính hiển vi điện tử
3.6 Đề xuất các biện pháp phòng trị bệnh teo gan
Đối với bệnh teo gan ở tôm nuôi bước đầu đã xác định được tác
nhân gây bệnh là virus (HPV & BMN). Do vậy việc dùng các loại
thuốc, hoá chất cho công tác xử lý bệnh là không hiệu quả. Vì vậy,
việc đề xuất phòng trị bệnh teo gan trong báo cáo này, chúng tôi cũng
chỉ đề cập đến một số giải pháp mang tính tổng hợp, nhằm làm hạn
chế sự lây nhiễm của virus trong điều kiện nuôi tôm thương phẩm
hiện nay.
- Mật độ nuôi hợp lý: 25-30PL/m
2

- Điều kiện ao nuôi: độ sâu ao lớn hơn 1,4m, bảo đảm các trang
thiết bị cần thiết.
- Kiểm soát chất lượng con giống: kiểm tra các mầm bệnh virus
(WSSV, MBV, GAV,TSV,BMN,HPV) trước khi đưa vào nuôi.
- Quản lý tốt môi trường ao nuôi và kiểm soát chặt chẽ lượng
thức ăn sử dụng, tránh dư thừa làm ô nhiễm môi trường ao nuôi




22

CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
4.1 KẾT LUẬN
4.1.1 Một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh teo gan trên tôm
sú nuôi
Các dấu hiệu chính của bệnh teo gan: xuất hiện các đoạn phân
màu trắng đục, xốp nổi trên mặt nước, gan tụy tôm bị teo nhỏ thường
chỉ bằng 1/3 thể tích gan bình thường, chai cứng, đôi khi có hiện
tượng gan tụy bị hoại tử. Khi bị bệnh màu sắc thân tôm thường bị thay
đổi, tôm giảm ăn, cơ thể bị ốp, có hiện tượng chết lác đác đến chết
hàng loạt.
Tại Ninh Thuận, bệnh teo gan ở tôm sú có thể xuất hiện quanh
năm, nhưng tập trung vào các tháng 6,7 và 8 hàng năm. Bệnh gặp với
tần suất cao ở các ao nuôi có chất đáy là cát. Trong vụ nuôi, bệnh này
xuất hiện chủ yếu từ tháng nuôi thứ 2 và thứ 3 trong chu kỳ nuôi (4–5
tháng), ở những ao có mật độ nuôi cao trên 40PL/m
2
và ở các ao có độ
sâu mực nước < 1,4m.
4.1.2 Tác nhân gây bệnh teo gan ở tôm sú nuôi
Bệnh teo gan trên tôm sú nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận
không liên quan tới các tác nhân như ký sinh trùng Gregarine, tảo độc,
nấm mốc, độc tố aflatoxin trong thức ăn, các loại vi khuẩn thường gặp
trên tôm he (Vibrio spp, Pseudomonas spp, Aeromonas spp).
Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy gây bệnh teo gan ở tôm
sú nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận là virus, trong đó hai loài virus
HPV (Hepatopancreatic parvovirus) và BMNV (Baculoviral Midgut
23
Gland Necrosis Virus) đã được chứng minh có liên quan với vai trò là
tác nhân gây bệnh

4.1.3 Bệnh teo gan ở tôm sú có tác nhân gây bệnh là virus, nên
hiện nay vẫn chưa có thuốc đặc trị cho bệnh này. Do vậy, dựa trên cơ
sở các đặc điểm dịch tễ đã nghiên cứu được, mô hình sinh thái của
bệnh đã được xây dựng. Đồng thời thông qua đó đề nghị một giải
pháp phòng bệnh tổng hợp đối với loại bệnh này, bao gồm: tẩy dọn ao
kỹ lưỡng trước mỗi vụ nuôi, mùa vụ nuôi tôm sú tại Ninh Thuận trong
khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 9. Mật độ nuôi chỉ nên từ 15-
25PL/m
2
, cần kiểm tra kỹ chất lượng con giống trước khi thả; độ sâu
của mực nước ao nên >1,4m. Ngoài ra để tăng sức đề kháng cho tôm
trong quá trình nuôi cần bổ sung hàm lượng vitamin C vào thức ăn và
duy trì môi trường nuôi thích hợp, ổn định.
4.2 ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
4.2.1 Trong khi chờ nghiên cứu đầy đủ, hoàn chỉnh hơn bệnh
teo gan trên tôm sú nuôi thương phẩm, để góp phần giảm thiểu thiệt
hại do bệnh này gây ra cho tôm sú nuôi, đề nghị vận dụng các dấu
hiệu chính của tôm nhiễm bệnh teo gan để nhận biết, xác định tôm
nuôi bị bệnh teo gan,và áp dụng các giải pháp phòng bệnh tổng hợp
cho công tác quản lý, chỉ đạo sản xuất và cho người nuôi tôm áp dụng.
4.2.2 Đây là đề tài nghiên cứu về bệnh teo gan trên tôm nuôi
đầu tiên ở Việt Nam, mặc dù đã có những cố gắng và đạt được một số
kết quả nhất định. Tuy nhiên, do điều kiện về thời gian, kinh phí,
nguồn nhân lực và cơ sở trang thiết bị cho nghiên cứu còn thiếu nên
đề tài không thể tránh khỏi những hạn chế. Trong thời gian đến cần

×