Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tài liệu bài tập thực hành luật kinh doanh - phân tích các quy định về bảo vệ cổ đông thành viên thiểu số trong công ty theo luật doanh nghiệp và nghị định 102

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.16 KB, 14 trang )

BÀI TẬP THỰC HÀNH
LUẬT KINH DOANH
PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH
VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG/THÀNH VIÊN THIỂU SỐ TRONG CÔNG
TY THEO LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ NGHỊ ĐỊNH 102
NHÓM 4 – D11QT2
I. ĐỊNH NGHĨA “THÀNH VIÊN/ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ LÀ AI?”
Khái niệm “thành viên/cổ đông thiểu số” không được quy định trong LDN
2005 và các luật chuyên ngành có liên quan đến DN.
Luật Chứng khoán 2006 thì lại có riêng một tiêu chí xác định cổ đông lớn,
theo đó “Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ
phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành” (khoản 6, Điều 9).
Nhưng nếu chiểu theo quy định này mà suy luận rằng: cổ đông thiểu số là
những cổ đông nắm giữ dưới 5% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là sai
Giả sử trong CTCP có cổ đông/nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần có quyền biểu
quyết từ 65% hoặc 75% trở lên thì cổ đông/nhóm cổ đông này (có thể gọi là cổ
đông đa số) có thể thông qua các Nghị quyết có lợi cho mình, đặt cổ đông/nhóm cổ
đông còn lại vào “vùng nguy hiểm”.
Nói cách khác, những cổ đông/nhóm cổ đông này bị xem như là/xếp vào nhóm
những cổ đông thiểu số trong công ty khi mà những vấn đề thuộc thẩm quyền của
họ đã bị cổ đông/nhóm cổ đông đa số kia quyết định hết
Theo luật tư bản, cổ đông chiếm 51% trở lên sẽ có quyền quyết định. 
49% còn lại là cổ đông thiểu số
II. CƠ CHẾ BẢO VỆ THÀNH VIÊN/CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ NGHỊ ĐỊNH 102 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
Để bảo vệ cổ đông thì phải sử dụng công cụ pháp luật mà trong đó quy định
về quyền của cổ đông giữ vai trò quan trọng nhất.
Về mặt pháp lý, cổ đông/nhóm cổ đông (dù là cổ đông lớn nắm giữ bao
nhiêu cổ phần) thì trước hết, họ là những cổ đông phổ thông có đầy đủ các quyền
như quy định tại Điều 79 LDN.
1. quyền thông tin, quyền yêu cầu kiểm tra, kiểm toán(đặc biệt là các công ty


đại chúng/niêm yết trên TTCK)
Điều 79.1(đ);79.2(b); 98.3 ; Điều 79.2(d) luật doanh nghiệp năm 2005ở cty cổ
phần
Điều 41.1(c) cho thành viên của cty TNHH
Tuy nhiên, cò có rất nhiều vấn đề: các cổ đông lớn bưng bít thông tin
Trong khi các cổ đông nhỏ - được coi là những người “thấp cổ bé họng”
trong công ty hy vọng có một cuộc họp hiệu quả, được nghe những kết quả báo
cáo, kết quả kiểm toán thì một số ban lãnh đạo doanh nghiệp lại tìm mọi cách hạn
chế quyền tham dự của họ - Nghiên cứu của CIEM nhận định.
Thậm chí, CIEM còn chỉ ra, có những trường hợp, doanh nghiệp lựa chọn
các địa điểm thật xa trụ sở công ty, một số khác tổ chức họp ở những thành phố
khác. Động thái này nhằm gây khó khăn cho các cổ đông nhỏ lẻ vì họ sẽ mất chi
phí đi lại, sắp xếp công việc của mình để có thể tham gia cuộc họp.

Nhiều doanh nghiệp tìm cách đưa ra các lý do không dựa trên cơ sở pháp lý
mà chỉ dựa trên ý chí của lãnh đạo công ty để biện minh cho sự vi phạm của mình
(do địa điểm tổ chức bé, không đủ diện tích cho tất cả cổ đông ).

Trong trường hợp các cổ đông vẫn đến đông đủ thì diễn biến cuộc họp cũng
không cho phép họ có thể gây ảnh hưởng tới Đại hội cổ đông vì một cuộc họp sẽ
theo công thức định sẵn: Chủ tịch HĐQT hoặc giám đốc trình bày báo cáo chuẩn bị
sẵn, Ban kiểm soát (BKS) đọc báo cáo đánh giá thẩm tra đã chuẩn bị sẵn và thảo
luận chất vấn.
2.quyền yêu cầu mua lại cổ phần
Điều 90.1; 90.2 cty cổ phần
Điều 43 cty tnhh
Tuy nhiên, quyền này chỉ được thực hiện khi thành viên/ cổ đông biểu quyết phản
đối việc tổ chứ công ty hoặc thay đổi quyền và nghĩa vụ của cổ đông/ thành viên
được qui định tại điều lệ công ty
Hơn nữa Thời hạn 90 ngày là quá dài; nhiều trường hợp không ai mua hoặc giá đưa

ra rất thấp quyền ko đc sử dụng hiệu qur

3. Quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông, hội đồng thành viên; Bổ nhiệm, miễn
nhiệm các chức danh quản lý trong công ty
Điều 104 ;Điều 79.1(a), 2.(a), Điều 96.2(c) luật doanh nghiệp năm 2005 cho cty cổ
phần
Khoản 2 điều 79: cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần
phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất là 6 tháng thì có quyền đề cử người vào
hội đồng quản trị/ ban kiểm sát nếu có. Tuy nhiên, số lượng 10% là quá lớn. cần có
sự liên kết của các cổ đông áp dụng bầu dồn phiếu.
Quy định bầu dồn phiếu k1/29/102:
-1% ko có quyền đề cử
-10-20% đề cử 1 người
- 20-30% đề cử 2 người
30-40% đề cử 3 người
4. quyền tham dự, chất vấn và biểu quyết
Điều 79.1a; điều 41.1a luật doanh nghiệp 2005
Tuy nhiên, khi sở hữu một tỷ lệ cổ phần phổ thông nhất định (ví dụ: 1%,
10%, 25% hay 35% trở lên), thì cổ đông/nhóm cổ đông này có các quyền về những
vấn đề khác nhau (xem bảng 1).
Tỷ lệ cổ phần sở hữu Quyền của cổ đông
Bầu dồn phiếu
thành viên
HĐQT, BKS
Cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 10%
tổng số cổ phần phổ thông
trong thời hạn liên tục ít
nhất 6 tháng hoặc một tỷ
lệ khác nhỏ hơn quy định

tại Điều lệ công ty
Có các quyền quy định khoản 2 Điều
79 LDN
Có (Điều 29, NĐ
102/2010)
Với tỷ lệ trên 35% tổng số
cổ phần có quyền biểu
quyết
Phủ quyết tất cả các Nghị quyết của
ĐHCĐ (khoản 2 và điểm a khoản 3
Điều 104 LDN)
Có (Điều 29, NĐ
102/2010)
Với tỷ lệ trên 25% tổng số
cổ phần có quyền biểu
quyết
Phủ quyết tất cả các Nghị quyết của
ĐHCĐ (điểm b, khoản 3 và khoản 5
Điều 104 LDN):
- Các Quyết định được thông qua
quyết định dưới hình thức lấy ý kiến
bằng văn bản
Có (Điều 29, NĐ
102/2010)
Cổ đông, nhóm cổ đông
sở hữu ít nhất 1% số cổ
phần phổ thông liên tục
trong thời hạn 06 tháng
- Có quyền yêu cầu Ban kiểm soát
khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với

thành viên HĐQT, giám đốc (tổng
giám đốc) (Điều 25, khoản 1 NĐ
102/2010).
Không có
- Có quyền trực tiếp khởi thành viên
HĐQT, giám đốc (tổng giám đốc)
(khoản 3 Điều 25, NĐ102).
Một thực tế khác là tại nhiều CTCP (bao gồm cả công ty đại chúng/công ty
niêm yết), khi mà các cổ đông lớn đã sở hữu lượng cổ phần ở mức độ có thể thông
qua các Nghị quyết có lợi cho mình (ví dụ 65% hay 75%), thì hầu như vai trò của
cổ đông/nhóm cổ đông còn lại “không được đếm xỉa”.
Tại cơ quan có quyền cao nhất của công ty là ĐHCĐ, mặc cho cổ đông
nhỏ/thiểu số phát biểu, chất vấn, đề xuất các nội dung quan trọng hoặc có liên quan
đến quyền lợi của họ, cổ đông lớn vẫn “bình chân như vại”, vì họ đã có được tỷ lệ
biểu quyết đủ để thông qua các Nghị quyết có lợi cho mình, gạt cổ đông nhỏ/thiểu
số ra bên lề, cho dù nội dung này có được đưa vào chương trình họp
Nhưng cũng có trường hợp Do quá nhấn mạnh đến việc bảo vệ các cổ đông
thiểu số nên không ít trường hợp gây những khó khăn không đáng có cho việc
quản trị công ty. Các cụm từ: “ít nhất 65%”, “ít nhất 75%” và “tỷ lệ cụ thể do điều
lệ công ty quy định” là nguyên nhân gây khó khăn cho việc quản trị các công ty
TNHH có từ hai thành viên trở lên và các công ty cổ phần.
Ví dụ: ba anh em nhà ông Quang nắm giữ 62% vốn cổ phần của một CTCP
kinh doanh bất động sản cũng chẳng thể chi phối được công ty vì 5 người khác do
ông Tuyền làm thủ lĩnh, tuy chỉ chiếm 35,2% vốn điều lệ nhưng họ ghét anh em
nhà ông Quang, luôn phản đối những quyết định của ĐHĐCĐ. Họ luôn dự họp đầy
đủ và đoàn kết trong bỏ phiếu, như vậy, chỉ cần 35,2% họ đã có khả năng phủ
quyết đối với vấn đề ba anh em nhà ông Quang muốn thông qua.
5. quyền khởi kiện của thành viên/ cổ đông thiểu số với người quản lý, điều hành
doanh nghiệp
Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 1-10-2010 có thể coi là một bước tiến lớn

trong việc bảo vệ các cổ đông nhỏ, lần đầu tiên cho phép “con kiến” kiện “củ
khoai” khi quy định: cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ
thông liên tục trong thời hạn 6 tháng có quyền yêu cầu Ban kiểm soát khởi kiện
trách nhiệm dân sự đối với thành viên HĐQT, giám đốc (tổng giám đốc) khi các
chức danh này không thực hiện đúng các quyền và nhiệm vụ được giao; không
thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời quyết định của HĐQT; thực hiện
các quyền và nhiệm vụ được giao trái với quy định của pháp luật, Điều lệ công ty
hoặc Nghị quyết của ĐHCĐ
Kiện ra tòa, Ban lãnh đạo thua kiện
ví dụ, ngày 5/4/2013, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên toà xét xử
vụ kiện của một nhóm cổ đông của CTCP Phát triển Kỹ thuật và Đầu tư (ITD)
thuộc Viện Máy và Công nghiệp (IMI) với đề nghị: hủy nghị quyết Đại hội cổ
đông thường niên ngày 26/4/2012 và nghị quyết Đại hội cổ đông bất thường ngày
12/5/2012 của ITD.

Nguyên đơn là cổ đông đại diện cho nhóm cổ đông nhỏ lẻ (gần 10 người với tỷ lệ
sở hữu hơn 1% vốn điều lệ). Lý do bắt nguồn từ việc kinh doanh năm 2012 thua lỗ
được công bố là hơn 1,1 tỷ đồng nhưng những báo cáo kiểm toán thì lại bị kiểm
toán từ chối đưa ra ý kiến tại các khoản mục quan trọng do không có đủ cơ sở;
công ty chia cổ tức thấp nhưng mức lương thưởng của thành viên HĐQT thì vẫn
cao.

Trong trường hợp này, doanh nghiệp không những quên gửi tài liệu cho cổ đông
trước khi tiến hành Đại hội cổ đông mà khi cổ đông yêu cầu giải trình, chủ tọa còn
từ chối yêu cầu và lá phiếu chiếm 65% vốn điều lệ đã khiến cho tờ trình thù lao
HĐQT nhanh chóng được thông qua.

Căn cứ khởi kiện là do ITD gửi thiếu tài liệu Đại hội cổ đông năm 2012, sau gần 1
năm trời khởi kiện nhóm cổ đông này đã có được điều mình muốn. Tòa án phán
quyết hủy kết quả Đại hội cổ đông và Công ty phải chịu án phí 2 triệu đồng.

Trao quyền nửa vời
TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Trưởng phòng Pháp chế, CTCP Cửa sổ Châu Âu
(Eurowindow Holding) nhìn nhận, việc trao quyền khởi kiện cho cổ đông theo kiểu
gián tiếp thông qua Ban kiểm soát đang khiến cho quy định hiện hành không có
tính khả thi. Mặt khác, các trường hợp (hay các căn cứ) mà thành viên, cổ đông có
quyền khởi kiện như quy định tại Điều 19 và Điều 25 của Nghị định 102/2010 là
quá rộng, dễ gây khiếu kiện tràn lan.
“Quy định hiện hành chưa tạo thuận lợi cho cổ đông, thành viên thực hiện
quyền khởi kiện người quản lý DN khi vi phạm bổn phận của họ. Lý do là bởi trình
tự, thủ tục khởi kiện còn phức tạp, khi quy định Ban kiểm soát không khởi kiện
theo yêu cầu, thì cổ đông mới được trực tiếp khởi kiện ”, thủ tục theo đuổi vụ
kiện dân sự rườm rà, kéo dài với nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn phức tạp;
chi phí khởi kiện tính cho bên khởi kiện, kể cả trường hợp khởi kiện nhân danh
công ty.
Tuy nhiên, quan trọng hơn là việc hạn chế đối tượng khởi kiện - tức là cổ
đông nắm giữ dưới 1% hoặc nắm 1% nhưng không đủ sáu tháng liên tục sẽ không
có quyền này. Cơ sở nào để Nghị định 102 lại tước quyền của cổ đông nắm dưới
1% cổ phần. Tại sao lại có sự phân biệt đối xử vô lý giữa các cổ đông như vậy?
Và chỉ sau 15 ngày nếu ban kiểm soát không trả lời bằng văn bản hoặc
không tiến hành khởi kiện hoặc công ty không có ban kiểm soát thì cổ đông mới
được quyền trực tiếp khởi kiện.
Trước hết, nói về thời hạn 15 ngày thông báo cho ban kiểm soát, đây có thể
là quy định lợi bất cập hại. Trong 15 ngày này, các thông tin mà cổ đông cung cấp
cho ban kiểm soát có thể bị rò rỉ cho các cán bộ quản lý liên quan. 15 ngày đó
chẳng khác nào thời hạn để “đánh động” cho cán bộ quản lý để tạo điều kiện cho
họ xóa bỏ chứng cứ, gây khó khăn cho việc khởi kiện của cổ đông.
Do Luật không có quy định chi tiết về thời gian tiến hành họp ĐHĐCĐ bất
thường (vì đại hội loại này có thể triệu tập nhiều lần trong năm tài chính) nên dẫn
đến tình trạng, tại nhiều CTCP, HĐQT/BKS/cổ đông sở hữu trên 10% cổ phần vì
lợi ích của nhóm cổ đông đa số đã tiến hành triệu tập ĐHĐCĐ bất thường ngay

trong thời gian 6 tháng - vốn để dành cho triệu tập ĐHĐCĐ thường niên.
Chính quy định không rõ ràng này đã khiến cho mẫu thuẫn giữa các nhóm
lợi ích/cổ đông trong nhiều công ty càng thêm trầm trọng, vì bên triệu tập đại hội
bất thường quan niệm rằng, họ triệu tập là vì “lợi ích của công ty” và vì luật không
quy định/không cấm nên được phép triệu tập; trong khi bên phản đối thì cũng lập
luận rằng, nếu đang trong thời gian tổ chức ĐHĐCĐ thường niên mà lại triệu tập
đại hội bất thường là sai.
Bản thân cụm từ “vì lợi ích công ty” tưởng là dễ hiểu, nhưng thực tế cũng rất
mơ hồ vì trong công ty thì có nhiều lợi ích, lợi ích này phục vụ cho nhóm cổ đông
nào, đa số hay thiểu số? Thực tế này đòi hỏi Luật Doanh nghiệp sửa đổi phải giải
quyết dứt điểm những quy định pháp lý theo kiểu “nước đôi”, không rõ ràng hay
“tùy nghi vận dụng”.
Mới đây, tại CTCP Công nghệ phẩm Hải Phòng, nhóm cổ đông đa số chiếm
70% vốn điều lệ đã tiến hành triệu tập ĐHĐCĐ bất thường. Tuy nhiên, nhóm cổ
đông thiểu số lại cho rằng, nếu đang trong thời gian có thể triệu tập họp ĐHĐCĐ
thường niên mà lại đi triệu tập ĐHĐCĐ bất thường thì việc triệu tập họp này là sai.
Chưa kể, cái mà nhóm cổ đông đa số viện dẫn là “vì lợi ích của Công ty” là
nhằm phục vụ lợi ích chỉ cho nhóm cổ đông đa số/cổ đông “cá mập” đang thâu tóm
Công ty bằng mọi giá, còn cổ đông thiểu số bị gạt ra ngoài rìa.
Bảng 2: Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của Việt Nam (2006-2013)
Bảng 3: Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của Việt Nam so sánh với khu vực và thế giới
(2006-2013).
Nguồn: Doing Business Database
Do đó, yêu cầu lớn nhất đặt ra trong việc sửa đổi LDN năm 2005 liên quan đến nội
dung bảo vệ cổ đông thiểu số là phải thực sự đưa đến cho cổ đông những công cụ
pháp lý rõ ràng và đầy đủ hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong
đó đặc biệt chú trọng đến quyền về thông tin, quyền khởi kiện, trách nhiệm của
giám đốc, quyền tham dự và biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền ĐHCĐ…
* Nguyên nhân gặp khó khăn
-Thứ nhất, bất cập trong cách thức thực hiện quyền cổ đông:

Một thực tế tại nhiều CTCP hiện nay là nhiều cổ đông, nhất là cổ đông
thiểu số không thực sự quan tâm đến các quyền của mình. Điều này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân như: việc chủ động tìm hiểu các quy định pháp luật có liên
quan của cổ đông; việc tuân thủ của chính công ty và ban lãnh đạo với các quy
định của pháp luật về bảo vệ cổ đông; vai trò giám sát và xử lý vi phạm một cách
kịp thời và nhanh chóng của các cơ quan có liên quan ( Sở KH&ĐT, UBCK, Tòa
án)…
Ví dụ:
2 cổ đông, 13.600 cổ phần “quyết” tương lai KHB
Ngày 4/12/2013, trong khi các DN đang hối hả tổng kết kinh doanh năm cũ
để đưa ra phương hướng sản xuất - kinh doanh năm 2014, thì tại CTCP Khoáng
sản Hòa Bình (mã KHB), diễn ra cuộc họp ĐHCĐ thường niên 2013.
Vốn điều lệ 62,7 tỷ đồng, nhưng chỉ có 2 cổ đông, với 13.600 cổ phần sở
hữu dự họp, KHB vẫn đủ điều kiện tổ chức họp ĐHCĐ thường niên và họp thành
công, vì đây là lần thứ 3, HĐQT triệu tập họp. Hai lần trước đó, các cuộc họp diễn
ra vào ngày 28/10/2013 và 18/11/2013 không được tổ chức thành công, vì cũng chỉ
có 2 cổ đông, đại diện cho 13.600 cổ phần tham dự họp.
III. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ
1. Luật doanh nghiệp 2005 cần phải định nghĩa rõ ràng thành viên/cổ đông
thiếu số là ai, đặc điểm của cổ đông thiểu số là gì để có thể nhận dạng được họ
đồng thời để họ biết quyền và nghĩa vụ của mình ra sao.
2.Tăng cường ý thức tự bảo vệ mình của cổ đông thiểu số
3. Thiết lập chặt chẽ công cụ pháp lý tạo điều kiện cho các cổ đông thiểu số
Đảm bảo quyền cơ bản của cổ đông và thiết lập cơ chế để cổ đông thực thi quyền
một cách hiệu quả
4. Tăng thêm quy định về yêu cầu công khai, minh bạch đối với CTCP, tăng
cường trách nhiệm của BKS
5. Xây dựng và thực thi các chế tài nghiêm khắc đối với CTCP có những
hoạt động vi phạm quyền lợi của cổ đông, đặc biệt CĐTS
KẾT LUẬN

Quyền của cổ đông là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất để bảo vệ cổ
đông, là phương tiện để cổ đông có thể sử dụng để bảo vệ mình.
Ở các phần trên đã làm rõ các vấn đề về bảo vệ cổ đông thiểu số, phân tích
các quy định của pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số và liên hệ với thực tiễn để
thấy rõ các bất cập còn tồn tại.
Nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số, pháp luật cần thiết phải hoàn
thiện hơn nữa cơ chế pháp lý đã có, cùng với việc xây dựng các biện pháp mới
nhằm xử lý triệt để các hành vi vi phạm của cổ đông lớn, nhằm bảo vệ có hiệu quả
quyền lợi của cổ đông thiểu số ngay cả trên lý luận thực thi trong thực tiễn. Bên
cạnh đó các cổ đông thiểu số không nên trông chờ thụ dộng vào sự bảo vệ từ các
cơ quan chức năng có thẩm quyền, mà họ phải ý thức được sự cần thiết của việc họ
phải bảo vệ quyền lợi của mình, đẻ có thể chủ động bảo vệ quyền lợi của mình một
cách tốt nhất
Một trong các quy định đang gây tranh luận hiện nay chính là quy định về hiệu lực
nghị quyết, quyết định của ĐHCĐ, HĐTV/HĐQT nhưng bị khởi kiện (Điều 27
Nghị định 102/2010). Theo đó, “Nếu Điều lệ công ty không quy định khác, nghị
quyết, quyết định của ĐHCĐ, HĐTV, HĐQT có hiệu lực thi hành kể từ ngày được
thông qua hoặc từ ngày có hiệu lực được ghi rõ trong nghị quyết, quyết định đó.
Trường hợp có cổ đông, nhóm cổ đông, thành viên HĐTV hoặc thành viên HĐQT
yêu cầu khởi kiện hoặc trực tiếp khởi kiện đối với nghị quyết, quyết định đã được
thông qua thì nghị quyết, quyết định bị khởi kiện vẫn tiếp tục được thi hành cho
đến khi Tòa án hoặc Trọng tài có quyết định khác”.
Mục đích của quy định này là bảo đảm cho việc các nghị quyết, quyết định của
ĐHCĐ, HĐTV, HĐQT có hiệu lực thi hành, giúp hoạt động của DN diễn ra liên
tục (kể cả trong trường hợp bị khởi kiện). Tuy nhiên, có hai vấn đề đặt ra.
Thứ nhất, nghị quyết, quyết định này bị cổ đông/nhóm cổ đông, thành viên
HĐTV/HĐQT yêu cầu kiện hoặc trực tiếp kiện ra Tòa án hoặc Trọng tài. Trong
thời gian chờ phán quyết của Tòa án, Trọng tài, nghị quyết, quyết định bị khởi kiện
vẫn tiếp tục được thi hành, nhưng gây thiệt hại cho bên khởi kiện thì ai chịu trách
nhiệm, nhất là khi các nghị quyết, quyết định này đã thực hiện được một khoảng

thời gian và có nhiều thay đổi gây bất lợi cho đối tượng đi kiện?
Thứ hai, liệu một nghị quyết, quyết định vừa ban hành đã bị khởi kiện ngay lập tức
mà vẫn có hiệu lực thi hành, thì quy định này tại Nghị định 102/2010 có mâu thuẫn
với những quy định của pháp luật tố tụng hay Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật không (Nghị định hướng dẫn thi hành luật tư - LDN, thì không thể trái
với Luật, nhất là với các luật công - Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật)?
Bởi lẽ theo pháp luật TTDS, bên khởi kiện có quyền yêu cầu Tòa án, Trọng tài áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đình chỉ việc thực hiện các quyết định hoặc nghị
quyết (như vụ việc xảy ra tại SUDICO, CTCP Công nghệ phẩm Hải Phòng).
Trả lời câu hỏi thứ nhất, các bên có thể vận dụng chính các quy định của LDN
2005 để ràng buộc trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân ban hành hoặc thông qua
quyết định, nghị quyết. Theo đó, khi thông qua các nghị quyết, quyết định trái với
pháp luật và Điều lệ công ty thì những tổ chức, cá nhân thông qua nghị quyết,
quyết định đó “phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định đó và
phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối thông qua quyết định nói
trên được miễn trừ trách nhiệm” (khoản 4 Điều 108 LDN 2005).
Liên quan đến câu hỏi thứ hai, rõ ràng quy định tại Điều 27 NĐ102/2010 tưởng
như “hỗ trợ” cho phía thông qua nghị quyết, quyết định, nhưng thực tiễn lại không
giải quyết được gì nhiều. Có lẽ quy định này vẫn đang “khả thi” và được các cổ
đông đa số (bao gồm cả các nhóm lợi ích lớn của công ty) vận dụng suốt thời gian
vừa qua.
Hơn nữa, quy định về việc phải có biện pháp bảo đảm bằng tài sản khi yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, Trọng tài hay thủ tục tố tụng kéo dài
khiến cho bên khởi kiện (nhóm cổ đông thiểu số) nản lòng, dù quyền lợi bị ảnh
hưởng.
Hơn 50 cổ đông thiểu số là những người lao động của Công ty cổ phần
(CTCP) Công nghệ phẩm Hải Phòng đang đứng trước nguy cơ mất việc vì sự
thâu tóm của nhóm cổ đông lớn.
Đại diện nhóm cổ đông thiểu số tại CTCP Công nghệ phẩm Hải Phòng (CNPHP)
vừa gửi đơn khởi kiện lên TAND TP. Hải Phòng đề nghị Tòa án hủy bỏ toàn bộ các

nghị quyết của Đại hội cổ đông (ĐHCĐ) bất thường ngày 28/5/2013 và ngăn chặn
cổ đông lớn của công ty này (sau khi đã tổ chức ĐHCĐ trái luật), tiến hành thay
đổi lại Đăng ký kinh doanh để loại bỏ người đại diện theo pháp luật và ép cổ đông
thiểu số phải bán lại cổ phần với giá rẻ nhằm thâu tóm Công ty với 1 Trụ sở và 11
địa điểm kinh doanh nằm tại các vị trí đắc địa.
“Bất thường” từ việc triệu tập…
Theo Luật Doanh nghiệp, DN phải tổ chức ĐHCĐ thường niên trong thời hạn 4
tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính, có thể gia hạn thêm 2 tháng theo đề nghị
của HĐQT. Tuy nhiên, dựa vào một quyết định được ban hành trái luật của HĐQT
ngày 25/4/2013, các thành viên HĐQT đã bỏ qua việc tổ chức ĐHCĐ thường niên
để tổ chức một ĐHCĐ bất thường ngày 28/5/2013.
Đáng nói hơn là tại một đại hội không đảm bảo các điều kiện cần và đủ theo quy
định tại khoản 4 Điều 12 Điều lệ Công ty, nhóm cổ đông lớn đã thông qua nhiều
nghị quyết trái luật, gây thiệt hại cho Công ty, cổ đông và người lao động.
Theo quy định tại Điều 100 Luật Doanh nghiệp, khoản 2 Điều 16 Điều lệ Công ty
CNPHP thì người triệu tập Đại hội phải có trách nhiệm gửi thông báo mời họp đến
tất cả cổ đông có quyền dự họp. Kèm theo thông báo mời họp phải có mẫu chỉ định
đại diện theo uỷ quyền dự họp, chương trình họp, phiếu biểu quyết, các tài liệu
thảo luận làm cơ sở thông qua quyết định và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn
đề trong chương trình họp.
Tuy nhiên, chỉ một số ít cổ đông nhận được Giấy mời họp và một thông báo chung
chung (không phải thông báo mời họp theo nội dung quy định tại Khoản 1 Điều
100 Luật doanh nghiệp). Ngay bà Nguyễn Thị Tuyết Len - Giám đốc và là người
đại diện theo pháp luật đương nhiệm của Công ty, đồng thời là một cổ đông có
Giấy chứng nhận cổ phần cũng không được HĐQT mời họp ĐHCĐ.
Theo đại diện nhóm cổ đông thiểu số, việc nhóm cổ đông “cá mập” tổ chức đại hội
một cách bất thường chủ yếu với mục đích thay đổi người đại diện theo pháp luật
của Công ty, thay đổi ngành nghề kinh doanh, hợp thức hoá vụ tranh chấp giữa các
thành viên trong Công ty đang được TAND TP. Hải Phòng thụ lý giải quyết
…đến nội dung và tổ chức

Theo chương trình họp ĐHCĐ bất thường thì đại hội này sẽ thông qua 3 nội dung
quan trọng là: bãi nhiệm chức vụ Giám đốc - người đại diện theo pháp luật của
Công ty đối với bà Nguyễn Thị Tuyết Len; bổ nhiệm chức vụ Giám đốc - người đại
diện theo pháp luật của Công ty đối với bà Đặng Thị Hồng Hải; Bổ sung mã ngành
kinh tế cấp bốn đối với các ngành nghề kinh doanh hiện có của Công ty. Đáng lưu
ý là các nội dung này đều làm thay đổi Điều lệ Công ty và phải do ĐHCĐ quyết
định với số cổ đông đại diện 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự
họp chấp thuận.
Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty, cổ đông/nhóm cổ đông
sở hữu trên 10% cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục 6 tháng trở lên có quyền
yêu cầu HĐQT bổ sung nội dung chương trình họp ĐHCĐ bất thường. Thực tế,
các cổ đông thiểu số (những người sở hữu và đại diện cho gần 30% tổng số cổ
phần có quyền biểu quyết của Công ty) đã có đề nghị bổ sung nội dung chương
trình, nhưng điều này vẫn không được đáp ứng.
Dù việc triệu tập đại hội còn nhiều vấn đề vi phạm, nhưng để bảo vệ quyền lợi của
mình và lợi ích chung của Công ty, nhóm cổ đông thiểu số vẫn có mặt theo đúng
ngày, giờ, địa điểm tổ chức ĐHCĐ.
Tuy nhiên, tại Khách sạn Hữu Nghị - nơi tổ chức đại hội, với sự có mặt của vài
chục bảo vệ, khi các cổ đông thiểu số tiến hành đăng ký tham dự đại hội tại bàn
của Ban kiểm tra tư cách cổ đông theo quy định thì các thành viên trong Ban kiểm
tra tư cách lại yêu cầu tất cả các cổ đông phải chứng minh tư cách cổ đông của
mình với những điều kiện vô lý, mới được cấp thẻ ra - vào (?), trong khi họ có tên
trên danh sách cổ đông của Công ty và đã được cấp sổ cổ đông. Do bị ngăn cản
tham dự ĐHCĐ nên nhóm cổ đông đại diện cho gần 30% tổng số cổ phần biểu
quyết đã lập Biên bản về sự vi phạm nghiêm trọng Luật Doanh nghiệp của Ban tổ
chức.
ĐHCĐ với sự có mặt của nhóm cổ đông đại diện cho trên 65% tổng số cổ phần
biểu quyết vẫn diễn ra và kết thúc lúc 16h ngày 28/5/2013 với việc thông qua một
loạt quyết định thay đổi lớn về hoạt động và quản trị của Công ty CNPHP.
Câu hỏi đặt ra là điều gì đã dẫn tới mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông và lãnh đạo

trong DN này. Câu trả lời có thể nằm trong khối tài sản béo bở của Công ty
CNPHP. Một công ty sau cổ phần hóa chỉ có vốn điều lệ khoảng 6 tỷ đồng, trong
khi ngoài trụ sở chính thì có tới 11 chi nhánh kinh doanh tại các vị trí đắc địa thuộc
TP. Hải Phòng.
Đây chính là khối tài sản lớn bị định giá thấp đang được nhóm cổ đông cá mập
hướng tới. Trước đó, tại DN này cũng đã xảy ra nhiều vụ việc như một nhóm cổ
đông tìm mọi cách mua lại cổ phần dưới nhiều hình thức, trụ sở bị chiếm giữ lúc
nửa đêm, một nhóm cổ đông khởi kiện ra Tòa án đòi Giám đốc bàn giao con dấu…

×