Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Bài tập lớn kinh tế vĩ mô nghiên cứu về những khó khăn và thuận lợi khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.5 KB, 18 trang )

Biến thách thức thành cơ hội (20-07-2006)
Doanh nghiệp Việt Nam ngày nay đã trưởng thành hơn nhiều so với thời điểm khi nước
ta bắt đầu đàm phán gia nhập WTO hơn 10 năm trước. Có doanh nghiệp đã xuất khẩu cả
trăm triệu USD/năm. Các chuyên gia kinh tế tin tưởng rằng doanh nghiệp trong nước sẽ
thích nghi rất nhanh với thách thức mới và biến nó thành cơ hội mới để phát triển.
Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện để Việt Nam cải cách chính sách, thể chế luật pháp vì
phải cam kết xây dựng hệ thống chính sách minh bạch hơn, ổn định và dễ dự đoán; tạo
điều kiện thuận lợi trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, nhằm bảo vệ quyền
lợi của doanh nghiệp Việt Nam; Bên cạnh đó, tạo điều kiện để Việt Nam không bị đối xử
như một nền kinh tế phi thị trường như hiện nay… Đặc biệt, hàng hoá và dịch vụ của
Việt cũng sẽ được đối xử bình đẳng hơn trên thị trường quốc tế, qua đó mở rộng thị
trường, tăng xuất khẩu. Thứ trưởng Bộ Thương mại – Ông Lương Văn Tự nói: Hiện nay
xuất khẩu của Việt tăng tương đối nhanh, năm ngoái chúng ta đạt kim ngạch 32,5 tỷ
nhưng so với các nước trong khu vực còn rất nhỏ. Theo tôi xuất khẩu mỗi năm ít nhất
phải đạt 100 tỷ USD trở lên, thì nền kinh tế của Việt mới phát triển được. Hiện nay hàng
hoá và dịch vụ của Việt Nam còn bị phân biệt đối xử nhiều, ví dụ sang châu Âu chúng ta
không được hưởng ưu đãi thuế quan đối với hàng nông sản nên không thể bán gạo được
sang châu Âu… Vì vậy, gia nhập WTO chúng ta mới gỡ bỏ được những rào cản và sự
phân biệt đối xử.
Mặt khác, chúng ta cũng phải đối mặt với những khó khăn như: phải sửa đổi và xây dựng
cơ chế chính sách cho phù hợp với quy định WTO; nguồn thu ngân sách trước mắt sẽ bị
suy giảm do cắt giảm thuế nhập khẩu; vấn đề an sinh xã hội sẽ phức tạp do phải cắt giảm
lao động trong nhiều ngành nghề, do doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả phải phá sản,
do khoảng cách giàu nghèo gia tăng…
Theo đánh giá của tổ chức Oxfam, đã có đến 40 quốc gia bị nghèo hơn sau khi gia nhập
WTO. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng, Việt có nhiều lợi thế có thể cạnh tranh
được với các nước trong WTO, đặc biệt là đối với mặt hàng dệt may. Ông James Ridles –
Chuyên gia kinh tế Mỹ dự đoán rằng: Trong năm 2005 vừa qua lượng hàng xuất khẩu của
Việt sang Hoa Kỳ chiếm ¼ lượng hàng xuất khẩu của Việt đến các nước trên thế giới,
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của thị trường Hoa Kỳ là hàng may mặc. Tôi cho rằng Việt
có thể được coi là nước có lợi thế cạnh tranh mạnh nhất đối với mặt hàng dệt may khi


xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Khi Việt Nam gia nhập WTO rồi thì Việt Nam sẽ tận
dụng được lợi thế của ngành dệt may và tôi dự đoán rằng năm 2007 tốc độ tăng trưởng
của ngành dệt may Việt Nam sẽ rất cao.
Còn ông David Bruno – Giám đốc chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế Hoa Kỳ thì nhấn
mạnh rằng, khi gia nhập WTO, điều quan trọng là Việt Nam cần phải biến những yếu tố
thuận lợi thành yếu tố thuận lợi hơn và cố gắng giảm nhẹ những thách thức mà WTO
mang lại. Ông nói: “Ngay cả một môi trường thuận lợi đến đâu thì chúng ta cũng có thể
làm cho môi trường đó thuận lợi hơn nữa và ngược lại nếu chúng ta không đi đúng hướng
thì cho dù môi trường rất thuận lợi cũng có thể trở thành bất lợi. Khi chúng ta gia nhập
WTO thì chúng ta phải biến những yếu tố thuận lợi thành những yếu tố thuận lợi hơn,
những thách thức mà WTO mang lại chúng ta phải giảm nhẹ nó đi chứ không nên để
những thách thức này trở nên xấu hơn. Theo tôi, nhân lực là yếu tố quan trọng nhất để
Việt có thể làm được điều này”.
Như vậy, nhân lực của doanh nghiệp và sự thống nhất, đoàn kết cũng như ý chí vượt khó
vươn lên của cả dân tộc mới quyết định sự thành bại của nền kinh tế nói chung và của các
doanh nghiệp nói riêng trong một môi trường có cả thời cơ và thách thức khi đã gia nhập
WTO. Doanh nghiệp Việt ngày nay đã trưởng thành hơn rất nhiều so với thời điểm khi
nước ta bắt đầu đàm phán gia nhập WTO hơn 10 năm trước. Có doanh nghiệp đã xuất
khẩu cả trăm triệu USD/năm. Vì vậy, các chuyên gia kinh tế tin tưởng rằng các doanh
nghiệp trong nước cũng sẽ thích nghi rất nhanh với thách thức mới và biến nó thành cơ
hội mới để phát triển./.
Thời gian qua, kinh tế Việt Nam đã dần dần làm quen với việc cạnh tranh trong khuôn
khổ AFTA, BTA nhưng điều đó chưa thể so sánh với việc phải mở hẳn cánh cửa thị
trường khi tham gia WTO. Vì vậy, khó khăn, thách thức vẫn còn chờ phía trước và khi đã
vào cuộc chơi thì phải chấp nhận đối mặt với nó. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi
những ngoại lệ, chẳng hạn như những quốc gia giàu có và phát triển nhất vẫn là những
người định hướng và áp đặt luật chơi có lợi cho họ. Nói cạnh tranh bình đẳng nhưng khi
cần, Mỹ vẫn có thể áp đặt thuế bán phá giá với Việt Nam, bởi phải 12 năm sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, Mỹ mới công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Vì thế, thời gian này, Việt Nam phải cải cách hoàn thiện các thể chế kinh tế, thường

xuyên hợp tác và chứng minh với Mỹ là chúng ta thật sự là một nền kinh tế thị trường
trên mọi lĩnh vực, kể cả những ngành có năng lực cạnh tranh thấp như dịch vụ, ôtô,
thép và điển hình là ngành chăn nuôi. Vì vậy, trong thời gian tới, ngành này phải có kế
hoạch sắp xếp lại phương thức chăn nuôi và cả lĩnh vực chế biến thực phẩm để phù hợp
trong tình hình mới. Tuy nhiên, một vài doanh nghiệp chăn nuôi Việt Nam cũng lo ngại
là những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ sẽ khó cạnh tranh về giá cả.
Về việc nhập khẩu ôtô đã qua sử dụng theo quy định của WTO, đây là vấn đề nhạy cảm,
Việt Nam cần phải thận trọng về cơ chế quản lý và điều hành hoạt động xuất nhập khẩu,
vì dễ dẫn đến tình trạng gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hưởng
xấu đến ngành công nghiệp ôtô trong nước.
Trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, trong đó có
hệ thống phân phối lẻ. Đây là lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận mà nhiều tập đoàn lớn
trên thế giới đang nhòm ngó. Hàng loạt doanh nghiệp nước ngoài tràn vào Việt Nam tạo
nên một môi trường cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải phấn
đấu, nỗ lực, học hỏi để có thể tồn tại được. Vấn đề đặt ra, doanh nghiệp Việt Nam có chủ
động được trong việc hội nhập này hay không ? Bà Nguyễn Thị Nghĩa, Chủ tịch Hội
đồng Quản trị Liên hiệp HTX thương mại TP.Hồ Chí Minh cho biết “Thuận lợi và khó
khăn đều chia đều”. Nhiều người lo lắng, ngành nhập khẩu thực phẩm tươi sống sẽ ảnh
hưởng đến thị trường trong nước. Nhưng theo ông Văn Đức Mười – Phó Giám đốc
Vissan nhận định: “Thịt bò nhập khẩu không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất trong
nước vì hiện nay thịt bò đáp ứng nhu cầu trong nước vẫn còn đang thiếu, nên cũng cần
nhập để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng”. Nhưng để đảm bảo lợi ích tổng thể của quốc gia,
ông Phan Đình Toàn - Tổng Giám đốc Tập đoàn phân phối Phú Thái có những kiến nghị:
“Chúng ta nên đặt lợi ích người tiêu dùng lên hàng đầu; phải đảm bảo sản xuất, mở rộng
mạng lưới tiêu thụ; thị phần trong nước và thúc đẩy hàng Việt Nam hội nhập với thị
trường thế giới”.
Đối với những ngành được xem như độc quyền sẽ phải mở ra như viễn thông, điện lực,
ngân hàng Việt Nam đã chuẩn bị trước. Cụ thể, đối với lĩnh vực bưu chính viễn thông,
ông Đỗ Trung Tá - Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông cho biết: Các doanh nghiệp bưu
chính và viễn thông trong nước đã được chuẩn bị cơ sở hạ tầng, mạng viễn thông cho quá

trình gia nhập WTO. Trong đó, 8 doanh nghiệp cung cấp tất cả các loại hình dịch vụ như
bưu chính viễn thông, internet, các dịch vụ hội tụ giữa viễn thông, internet và phát thanh,
truyền hình Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thoả thuận cho phép các doanh nghiệp
thành viên WTO tham gia dưới hình thức liên doanh, theo đó họ có thể tham gia điều
hành liên doanh viễn thông, nhưng với điều kiện tỷ lệ vốn góp không quá 49%. Đây là
một điều rất mới trong lĩnh vực khai thác viễn thông của Việt Nam. Với người tiêu dùng
Việt Nam, họ sẽ được sử dụng giá cước dịch vụ viễn thông rẻ hơn, với chất lượng tốt,
phong phú đa dạng hơn. Ông cũng cho biết thêm, ngành bưu chính viễn thông và công
nghệ thông tin đã đi đúng lộ trình trong quá trình hội nhập.
Với hệ thống ngân hàng, Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt động các dịch vụ tài chính như
chứng khoán, cho thuê tài chính bởi sự cạnh tranh tăng lên ngay trong quốc gia và đặc
biệt là giữa các nước sẽ khuyến khích cải thiện chất lượng dịch vụ, sự cạnh tranh giá cả,
tạo điều kiện cho các sáng kiến cải tiến sản phẩm và phân phối dịch vụ ra đời. Bà Phan
Bích Vân - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín nhận định: “Gia nhập
WTO, sức cạnh tranh giữa các ngân hàng trong và ngoài nước sẽ diễn ra khốc liệt hơn.
Các ngân hàng nước ngoài có thế mạnh, đó là sản phẩm dịch vụ của họ rất tốt”. Ngay khi
thông tin Việt Nam đạt thoả thuận cuối cùng với Mỹ về việc gia nhập WTO đã khiến cho
thị trường chứng khoán “nóng” lên. Đây là một trong những lần hiếm hoi thị trường
chứng khoán Việt Nam phản ứng rõ nét trước sự kiện mang tầm quốc tế. Dự kiến từ ngày
15/6, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại TP.Hồ Chí Minh sẽ tăng thời gian giao dịch
(tiến hành khớp lệnh 3 đợt/ngày) và ở Hà Nội sàn giao dịch thứ cấp cũng dự kiến tăng số
phiến giao dịch lên 5 phiên/tuần, nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán chứng khoán quá lớn
như hiện nay.
Ngành hàng không Việt Nam vốn nắm giữ độc quyền kinh doanh, cũng có những bước
đón đầu cho thời kỳ hội nhập. Các hãng hàng không đang có mặt ở Việt Nam đều cho
biết sẽ mở thêm các tuyến bay mới hoặc tăng tần suất bay và áp dụng các hình thức như
giảm giá vé hoặc các chiến dịch khuyến mãi. Họ khai thác những lợi ích mang lại từ
mạng lưới đường bay của các hãng cùng chung liên minh để cung ứng nhiều giải pháp,
nhiều lựa chọn bay hơn cho thị trường Việt Nam.
Những mặt hàng xuất khẩu như dệt may, da giầy, chế biến gỗ, chế biến thuỷ hải sản

được hưởng những ưu đãi về lãi suất, thời hạn vay vốn, thuế do Chính phủ có chủ
trương khuyến khích xuất khẩu để phù hợp với tình hình mới. Khi Việt Nam chính thức
là thành viên của WTO, đương nhiên thuế nhập khẩu linh kiện, nguyên phụ liệu cho các
ngành này từ các nước thành viên của WTO sẽ giảm và nguồn cung cấp phong phú hơn,
chi phí các dịch vụ viễn thông, điện, nước sẽ giảm, nên sức cạnh tranh sẽ cao hơn. Ông
Trần Quốc Mạnh – Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ TP.Hồ Chí Minh khẳng định: “Việt Nam
gia nhập WTO sẽ đem lại lợi nhuận cho ngành xuất khẩu gỗ Việt Nam. Hiện hơn 80%
linh kiện, nguyên phụ liệu trong ngành chế biến gỗ được nhập khẩu từ Mỹ và EU sẽ
giảm, giá thành xuất khẩu đồ gỗ cũng sẽ cạnh tranh hơn. Việc tiếp cận thị trường trên thế
giới cũng dễ dàng, thuận lợi hơn ”. Theo ông Nguyễn Xuân Hồng, Tổng Giám đốc Công
ty CP May Sài Gòn 3, nhận định: “Ngành may Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn vì chế
độ hạn ngạch (quota) khi xuất khẩu vào Mỹ. Khi Việt Nam gia nhập WTO, những khó
khăn này sẽ được tháo gỡ, khách hàng sẽ vững tâm hơn khi làm ăn với các nhà sản xuất
Việt Nam. Tư thế của các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ khác khi đàm phán với các
nhà nhập khẩu nước ngoài, chúng ta sẽ đỡ lép vế hơn, đỡ bị ép giá hơn ”. Người tiêu
dùng trong nước có cơ hội lựa chọn, sử dụng hàng hoá nước ngoài theo kênh bán lẻ với
những sản phẩm chất lượng cao và giá thành rẻ.
Bên cạnh những lợi ích mà WTO mang lại, các doanh nghiệp Việt Nam cũng còn gặp
không ít những khó khăn và thách thức như kinh doanh nội địa sẽ gặp khó khăn vì các
“đại gia” quốc tế vào, sức ép cạnh tranh rất lớn. Ông Diệp Thành Kiệt, Tổng Giám đốc
Công ty CP May Thêu giày dép cho biết: “Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, ngành dệt
may trong nước sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với hàng dệt của các nước tràn vào khi thuế
nhập khẩu giảm theo lộ trình WTO. Các doanh nghiệp may phải cạnh tranh về giá cả,
mẫu mã đẹp hơn và chủng loại hàng hoá cũng phong phú hơn, đảm bảo thời gian giao
hàng ”.
Riêng ngành điện tử trong nước, vì đã có sự chuẩn bị trước theo lộ trình AFTA nên
không có gì thay đổi lớn như ông Vũ Dương Ngọc Duy cho biết: “Khi gia nhập WTO, sẽ
có thêm hàng hoá từ nhiều nước ngoài ASEAN nhập khẩu vào Việt Nam, nhưng tỷ lệ
cũng không nhiều, nên không đáng lo ngại”.
Trước sức ép từ quá trình hội nhập, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công nghiệp – Bùi Xuân

Khu kêu gọi: “Các doanh nghiệp Việt Nam nên sớm mở rộng đầu tư, tăng năng lực cạnh
tranh và tạo động lực để đẩy nhanh hơn nữa quá trình cải cách của Việt Nam phù hợp với
tình hình mới. Đặc biệt, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đẩy nhanh tiến độ cổ
phần hoá để tăng sự cạnh tranh mới”.
(Nguồn: CNTT)
Xuất khẩu 2007: 3 thành tựu, 7 hạn chế
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt
3,1% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra là 17,4%. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu
của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 56,9%, đạt 27,3 tỷ USD.
Về giá trị, kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 8,2 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm
hàng nông, lâm, thuỷ sản tăng 1,7 tỷ USD, nhóm nhiên liệu - khoáng sản tăng 0,2 tỷ USD, nhóm
công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng 3,7 tỷ USD và nhóm hàng khác tăng 2,6 tỷ USD.Bộ Công
Thương chỉ rõ 3 thành tựu xuất khẩu của cả nước trong năm 2007.
Thứ nhất, quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục được duy trì ở mức cao.
Thứ hai, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ
trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm
dần xuất khẩu hàng thô.
Thứ ba, các chủ thể tham gia xuất khẩu không ngừng được mở rộng, đa dạng hoá và hoạt động
ngày càng hiệu quả, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực các doanh nghiệp 100% vốn trong
nước ở mức cao 23,1% so với khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 18,6%. Tuy
nhiên, kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng lớn
và là động lực quan trọng đối với tăng trưởng xuất khẩu của cả nước.
Song song với những thành tựu trên, Bộ Công Thương cũng chỉ ra 7 hạn chế trong xuất khẩu.
Thứ nhất, quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt mức
473 USD/người là thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi sự
biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của
nước ngoài.
Thứ ba, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả 3 phương diện: chủng loại

hàng hoá xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp
kim ngạch đáng kể; các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, xuất khẩu chủ yếu vẫn
phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, trong khi các mặt hàng
công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính chủ yếu vẫn còn mang tính
chất gia công; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa
diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để.
Tỷ trọng hàng công nghiệp, hàng chế biến xuất khẩu năm 2007 chiếm 40,7% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu. Về thực chất, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo
chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có
mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có
mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Thứ tư, khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị
trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các
hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai
thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.
Thứ năm, công tác của mạng lưới đại diện, đặc biệt về thương mại ở nước ngoài còn nhiều yếu
kém, chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương mại
nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao.
Thứ sáu, nhập siêu ở mức cao và chưa có giải pháp kiềm chế hiệu quả, triệt để, đã ảnh hưởng
tiêu cực đến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại
tệ, nguồn lực đầu tư.
Thứ bảy, thị trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Hoa Kỳ
tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung
Quốc, Nhật Bản và Australia. (Thời báo Kinh tế)
Phát triển hàng xuất khẩu trọng điểm - Hướng đi quyết định
Bộ Thương mại rà soát và xếp loại các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn và có khả năng
đạt mức tăng trưởng kim ngạch cao để khoanh vùng và phát triển có trọng điểm
Hà Nội (TTXVN 13/7/04) - Nằm trong các giải pháp trọng yếu để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu trong các tháng cuối năm, nhóm giải pháp về phát triển có trọng điểm mặt hàng xuất
khẩu được Bộ Thương mại đánh giá là một trong những hướng đi chủ lực và mang tính quyết

định đối với kết quả xuất khẩu của cả năm nay. Thứ trưởng Bộ Thương mại Mai Văn Dâu cho
biết Bộ vừa hoàn tất việc rà soát và xếp loại các mặt hàng theo tiêu chí hàng có giá trị xuất khẩu
lớn và hàng có khả năng đạt mức tăng trưởng kim ngạch cao, nhằm khoanh vùng và phát triển
có trọng điểm. Theo kết quả xếp loại sơ bộ, nhóm hàng có giá trị xuất khẩu lớn gồm dầu thô,
hàng dệt may, giày dép và thủy hải sản. Nhóm hàng có khả năng đạt mức tăng trưởng kim ngạch
cao gồm các mặt hàng xe đạp và phụ tùng xe đạp, máy tính và linh kiện điện tử, dây điện và dây
cáp điện, các sản phẩm nhựa, đồ gỗ. Kết quả xuất khẩu của hai nhóm hàng này trong 6 tháng
đầu năm cho thấy, tốc độ tăng trưởng và kim ngạch xuất khẩu nhìn chung đều được duy trì ở
mức cao và tương đối ổn định. Cụ thể, nhóm hàng có giá trị xuất khẩu lớn luôn chiếm tới gần
60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và có tốc độ tăng trưởng trung bình 14,8% so với
cùng kỳ năm 2003. Nhóm hàng có khả năng đạt mức tăng trưởng kim ngạch cao cũng chiếm tới
11% tổng kim ngạch xuất khẩu và có tốc độ tăng trưởng trung bình 49,7% so với cùng kỳ năm
2003, trong đó riêng các sản phẩm đồ gỗ đạt mức tăng trưởng kỷ lục là 88,9%.
Theo các chuyên gia thương mại, dựa trên kết quả và diễn biến tình hình xuất khẩu trên, cộng
với thực lực hiện nay của các nhà sản xuất trong nước có thể nhận định rằng, trong các tháng
tới, các doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng về nguồn hàng, từ đó có thể tăng thêm khối lượng
xuất khẩu hai nhóm hàng này để tăng kim ngạch. Đặc biệt đối với nhóm hàng có khả năng đạt
tăng trưởng kim ngạch cao, nhờ có nguồn hàng và thị trường khá dồi dào, nên chắc chắn có thể
duy trì mức tăng trưởng cao như hiện nay trong thời gian tới. Tuy nhiên, ông Dâu cũng khẳng
định, phát triển có trọng điểm không có nghĩa là chỉ tập trung phát triển riêng hai nhóm này mà
quên đi tính đồng đều ở các mặt hàng khác. Theo ông Dâu, đối với các mặt hàng mới, có kim
ngạch xuất khẩu chưa lớn, nhưng cũng bắt đầu có tốc độ tăng trưởng nhanh do có thị trường và
có tính cạnh tranh chuyên biệt, Bộ Thương mại sẽ có cơ chế hỗ trợ mạnh hơn so với các mặt
hàng khác để có thể nhanh chóng mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng quy mô xuất khẩu.
Về các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng này, ông Dâu cho biết, tăng cường xúc tiến
thương mại để giữ mức tăng trưởng ổn định vẫn là giải pháp hàng đầu. Theo ông, một trong
những yếu tố quyết định tính hiệu quả và thiết thực của hoạt động xúc tiến thương mại năm nay
so với các năm trước là phát triển có trọng điểm, trong đó đặc biệt chú trọng gắn các hoạt động
xúc tiến thương mại với chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đã được Chính phủ phê
duyệt và nhất là đối với các mặt hàng xuất khẩu thuộc hai nhóm hàng đã được xếp loại. Riêng

với mặt hàng dệt may, nhằm tháo gỡ khó khăn và tìm hướng xuất khẩu trong thời gian tới, Bộ
trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển vừa gửi thư cho Hiệp hội Dệt may Việt Nam đề xuất
và thảo luận 2 phương án phân chia hạn ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp theo hướng
vừa có thể tiếp tục xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ một cách có hiệu quả, mặt khác
vẫn đảm bảo duy trì lợi ích chung của toàn ngành dệt may và công ăn việc làm cho người lao
động. Bộ Thương mại đang nỗ lực thương lượng với Liên minh châu Âu (EU) về việc dỡ bỏ hạn
ngạch hàng dệt may cho Việt Nam từ năm 2005./.
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc
tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một
quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch
(xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân
thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương
mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân
bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi
cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị
dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang
giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các
khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý
luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán
quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
Mục lục
[ẩn]
• 1 Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại
• 2 Tác động của cán cân thương mại đến GDP
o 2.1 Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng
o 2.2 Số nhân trong nền kinh tế mở
• 3 Xem thêm
• 4 Tham khảo
[sửa] Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại

• Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn.
Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên
(MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu.
Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng
dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối
giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá
cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng
lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so
với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật
Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
• Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác
vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu
phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế
trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
• Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng
đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường
quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng
hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ
hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất
lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng
giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong
khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ
Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc
có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm
chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén
tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập
khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối
đoái thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ
được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản
xuất tại Việt Nam.

[sửa] Tác động của cán cân thương mại đến GDP
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất khẩu
ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi
tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế.
[sửa] Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng
Bảng dưới đây trình bày một nền kinh tế với các bộ phận cấu thành ban đầu như một nền
kinh tế đóng, sau đó bổ sung xuất khẩu, nhập khẩu cho nền kinh tế mở. Cột 1 là mức
GDP ban đầu trong nền kinh tế đóng. Cột 2 là cầu trong nước bao gồm tổng tiêu dùng
(C), đầu tư (I) và mua hàng hóa, dịch vụ của chính phủ (G). Cột 3 là xuất khẩu và vì xuất
khẩu phụ thuộc tình hình kinh tế của các nước bạn hàng nên giả định nó không thay đổi.
Cột 4 là nhập khẩu, nhập khẩu chủ yếu phụ thuộc GDP nên giả định nó luôn bằng 10%
GDP. Giá trị xuất khẩu ròng tại cột 5 bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, nó mang giá trị
dương nếu xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu và ngược lại, sẽ mang giá trị âm. Sau khi cộng
giá trị đóng góp của xuất khẩu ròng vào cầu nội địa để tạo thành tổng chi tiêu và chính là
tổng cầu ta được giá trị ghi tại cột 6. Nền kinh tế mở đạt mức cân bằng khi tổng chi tiêu
bằng GDP nghĩa là đường tổng chi tiêu cắt đường phân giác OO'(ứng với mức GDP ban
đầu là 35 tỷ USD). Đó chính là điểm E trên đồ thị bên phải. Ở điểm này cầu nội địa chỉ
có 31,5 tỷ USD nhưng cầu về xuất khẩu ròng (khoảng cách giữa đường C+G+I+X và
đường C+G+I) là 3,5 nên tổng chi tiêu là 35 tỷ USD và đúng bằng GDP. Như vậy nền
kinh tế mở có thể đạt mức sản lượng cân bằng ở mức xuất khẩu ròng khác 0. Tại điểm có
mức xuất khẩu ròng bằng 0 (đường C+G+I cắt đường C+G+I+X), tổng cầu trong nước
bằng với tổng cầu và đều bằng 63 tỷ USD. Về phía bên trái điểm này, cầu xuất khẩu ròng
luôn dương, tổng cầu nội địa nhỏ hơn tổng chi tiêu và ở bên phải, cầu xuất khẩu ròng
luôn âm, tổng cầu nội địa lớn hơn tổng chi tiêu.
Cân bằng trong nền kinh tế mở
GDP
ban đầu
Cầu trong nước
(C+I+G)
Xuất

khẩu (e)
Nhập
khẩu (m)
Xuất khẩu ròng
(X = e - m)
Tổng chi tiêu
(C+I+G+X)
75 67,5 7 7,5 -0,5 67
70 63 7 7 0 63
65 58,5 7 6,5 0,5 59
60 54 7 6 1 55
55 49,5 7 5,5 1,5 51
50 45 7 5 2 47
45 40,5 7 4,5 2,5 43
40 36 7 4 3 39
35 31,5 7 3,5 3,5 35
30 27 7 3 4 31
[sửa] Số nhân trong nền kinh tế mở
Trong đồ thị trên, độ dốc của đường tổng chi tiêu C+I+G+X nhỏ hơn độ dốc của đường
cầu nội địa C+G+I, điều đó là do sự "rò rỉ" qua nhập khẩu. Giả sử nền kinh tế có xu
hướng tiêu dùng cận biên MPC là 0,75 thì khi GDP tăng 100 USD, chi cho tiêu dùng tăng
75 USD. Nhưng cũng theo giả định trong ví dụ này, xu hướng nhập khẩu biên MPZ là
0,10 (nhập khẩu luôn bằng 10% GDP) nên chi tiêu cho nhập khẩu cũng tăng 10 USD. Do
đó chi tiêu cho hàng hóa sản xuất trong nước chỉ còn tăng 65 USD mà thôi. Chính vì thế
độ dốc của đường chi tiêu giảm từ 0,75 xuống còn có 0,65. Tác động của "rò rỉ" qua nhập
khẩu có tác động mạnh đến số nhân của nền kinh tế. Trong nền kinh tế đóng, số nhân là
1/(1-MPC) còn trong nền kinh tế mở, do sự rò rỉ qua nhập khẩu, số nhân chỉ còn 1/(1-
(MPC-MPZ)). Khi không có ngoại thương, với MPC bằng 0,75 thì số nhân là 1/(1-0,75)
= 4; khi có ngoại thương số nhân chỉ còn 1/(1-(0,75-0,10)) = 2.857. Những nền kinh tế
nhỏ hầu hết đều rất mở, do vậy tác động của nhập khẩu đến số nhân của nền kinh tế đặc

biệt quan trọng. Từ ví dụ trên có thể dễ dàng suy ra nếu xu hướng nhập khẩu biên là 0,75
thì số nhân là 1 nghĩa là hiệu ứng số nhân đã bị triệt tiêu hoàn toàn bởi rò rỉ qua nhập
khẩu.
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc
gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với
người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong
nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ
được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú
ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen).
Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn năm
1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
1. Cán cân thương mại hàng hóa
1. Xuất khẩu
2. Nhập khẩu
2. Cán cân thương mại phi hàng hóa
1. Cán cân dịch vụ
1. Vận tải
2. Du lịch
3. Các dịch vụ khác
2. Cán cân thu nhập
1. Kiều hối
2. Thu nhập từ đầu tư
3. Các chuyển khoản
Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung
vào trong tính toán này.
Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất
trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản
ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ
lớn.

Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu ròng thì
bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản vãng lai
còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán cân thanh
toán.
Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết
kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều
hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn
chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo
cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của
GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành
mạnh.
» 10 lợi ích của hệ thống thương mại WTO
(10/28/2006 3:47:56 PM)
Hệ thống GATT/WTO là một chủ thể kiến
tạo niềm tin quan trọng. Các cuộc chiến
tranh thương mại những năm 1930 là
bằng chứng cho thấy rằng chủ nghĩa bảo
hộ có thể dễ dàng đẩy các nước vào một
tình thế trong đó không có kể thắng mà
chỉ toàn người thua.
1. Hệ thống này giúp gìn giữ hoà bình
Hoà bình phần nào là một thành quả của hai nguyên tắc cơ bản nhất của hệ thống thương mại:
giúp thương mại được thuận buồm xuôi gió và đưa đến cho các nước một lối thoát bình đẳng
và mang tính xây dựng để giải quyết những bất đồng về các vấn đề thương mại. Đó cũng là một
kết quả của sự hợp tác và lòng tin quốc tế do hệ thống này tạo ra và duy trì.
Lịch sử bị vấy bẩn bởi những tranh chấp thương mại dẫn đến chiến tranh. Một trong những ví
dụ sống động nhất là cuộc chiến tranh thương mại những năm 1930, khi các nước cạnh tranh
với nhau nhằm tăng thêm các hàng rào mậu dịch để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước và để
trả đũa rào cản của các nước khác. Điều này càng làm cho cuộc đại suy thoái thêm tồi tệ và

cuối cùng góp phần làm bùng nổ Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Hai bước phát triển ngay Chiến tranh Thế giới thứ 2 đã giúp tránh được nguy cơ những căng
thẳng thương mại thời kỳ trước chiến tranh xuất hiện trở lại. Thứ nhất, ở châu Âu, hợp tác quốc
tế phát triển trong các ngành công nghiệp than, sắt và thép. Thứ hai, trên phạm vi toàn cầu,
Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) đã hình thành.
Cả 2 bước phát triển trên đều tỏ ra thành công, thành công đến mức hiện nay chúng được mở
rộng rất mạnh - một trở thành Liên minh châu Âu và một trở thành Tổ chức Thương mại Thế
giới.
Hệ thống GATT/WTO là một chủ thể kiến tạo niềm tin quan trọng. Các cuộc chiến tranh thương
mại những năm 1930 là bằng chứng cho thấy rằng chủ nghĩa bảo hộ có thể dễ dàng đẩy các
nước vào một tình thế trong đó không có kể thắng mà chỉ toàn người thua. Quan điểm bảo hộ
thiển cận cho rằng việc bảo vệ một số khu vực nhất định chống lại hàng nhập khẩu là rất có lợi.
Những quan điểm này lại lờ đi chuyện các nước khác sẽ phản ứng như thế nào. Thực tế dài
hạn hơn cho thấy rằng một bước bảo hộ của một quốc gia có thể dễ dàng dẫn đến hành động
trả đũa từ các quốc gia khác, dẫn đến mất mát niềm tin vào thương mại từ do hơn và làm cho
tất cả, bao gồm cả các khu vực được bảo hộ ngay từ đầu - sa lầy vào rắc rối kinh tế nghiêm
trọng.
Niềm tin là chìa khoá giúp tránh được viễn cảnh không có kẻ thắng ấy. Khi các chính phủ đều
tin tưởng rằng các nước khác sẽ không tăng cường các hàng rào mậu dịch thì chính họ cũng sẽ
không có ý định làm như vậy. Hệ thống thương mại WTO đóng vai trò sống còn trong việc tạo ra
và củng cố niềm tin đó. Đặc biệt quan trọng là những cuộc thương lượng đưa đến những thoả
thuận trên cơ sở nhất trí ý kiến và tập trung vào việc tuân thủ các nguyên tắc.
2. Giải quyết các mâu thuẫn thương mại một cách xây dựng
Do thương mại tăng lên về khối lượng, số lượng sản phẩm được trao đổi, và số lượng các
nước và công ty tham gia thương mại, nên có thêm nhiều cơ hội để những tranh chấp thương
mại nảy sinh. Hệ thống WTO giúp giải quyết các tranh chấp này một cách hoà bình và mang
tính xây dựng.
Nếu để mặc chúng thì những tranh chấp này có thể dẫn đến những xung đột nghiêm trọng. Một
trong những nguyên tắc của WTO là các thành viên có nghĩa vụ phải đưa những tranh chấp của
mình tới WTO và không được đơn phương giải quyết. Khi họ đưa ra các tranh chấp ra giải

quyết tại WTO, thủ tục giải quyết của WTO là tập trung chú ý của họ vào các nguyên tắc. Một
khi nguyên tắc được thiết lập, các nước phải chú trọng nỗ lực tuân thủ nguyên tắc, và có lẽ sau
đó tái thương lượng về các nguyên tắc - chứ không phải là tuyên chiến với nhau. Gần 200 tranh
chấp đã được đưa ra giải quyết ở WTO kể từ khi tổ chức này thành lập. Nếu thiếu một phương
tiện giải quyết các tranh chấp này một cách xây dựng và đồng bộ, một số tranh chấp đã có thể
dẫn đến những cuộc xung đột chính trị nghiêm trọng hơn.
3. Một hệ thống dựa trên những nguyên tắc chứ không phải là sức mạnh để làm cho
cuộc sống dễ dàng hơn với tất cả mọi người
WTO không thể tuyên bố sẽ làm cho tất cả các nước đều bình đẳng. Nhưng WTO thực sự làm
giảm bớt một số bất bình đẳng, giúp các nước nhỏ hơn có nhiều tiếng nói hơn. Đồng thời cũng
giải thoát cho các nước lớn khỏi sự phức tạp trong việc thoả thuận các hiệp định thương mại
với các đối tác của mình.
Các quyết định và hiệp định của WTO được thực hiện bằng nhất trí ý kiến. Các hiệp định này áp
dụng cho mọi người. Các nước giàu cũng như nước nghèo đều có thể bị chất vấn nếu họ vi
phạm một hiệp ước, và họ có quyền chất vấn các nước khác trong quy trình giải quyết tranh
chấp của WTO. Thiếu một cơ chế đa phương kiểu hệ thống WTO, các nước mạnh hơn sẽ càng
được tự do đơn phương áp đặt ý muốn của mình cho các nước yếu hơn. Các nước lớn hơn
cũng được hưởng những lợi ích tương xứng. Các cường quốc kinh tế có thể sử dụng diễn đàn
duy nhất của WTO để thương lượng với tất cả hay với hầu hết các đối tác thương mại của họ
cùng một lúc.
Trên thực tế, có riêng một hệ thống nguyên tắc áp dụng với tất cả các nước thành viên, điều đó
đã đơn giản hoá rất nhiều toàn bộ cơ chế thương mại.
4. Thương mại tự do hơn giúp giảm chi phí cuộc sống
Hệ thống toàn cầu WTO đã giảm bớt các hàng rào mậu dịch thông qua thương lượng và áp
dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí sản xuất giảm, giá hàng hoá thành
phẩm và dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí cuộc sống thấp hơn.
Cho đến nay, các hàng rào mậu dịch đã giảm đi rất nhiều so với trước đây. Các hàng rào này
còn tiếp tục được giảm và tất cả chúng ta đều có lợi.
5. Đem đến cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn, và phạm vi chất lượng rộng hơn để
lựa chọn

Hiện nay chúng ta có thể có được tất cả các hàng hoá bởi chúng ta có thể nhập khẩu chúng.
Nhập khẩu cho phép chúng ta có nhiều lựa chọn hơn - cả hàng hoá và dịch vụ lẫn phạm vi chất
lượng. Thậm chí chất lượng của hàng sản xuất nội địa có thể nâng lên do chính sự cạnh tranh
từ hàng nhập khẩu. Nhiều lựa chọn hơn không đơn giản là vấn đề người tiêu dùng mua hàng
thành phẩm của nước ngoài. Hàng nhập khẩu còn được sử dụng làm nguyên liệu, linh kiện và
thiết bị cho sản xuất trong nước.
Điều này mở rộng phạm vi của các thành phẩm và dịch vụ do các nhà sản xuất trong nước làm
và nó làm tăng phạm vi những công nghệ mà họ có thể sử dụng. Chẳng hạn, khi thiết bị điện
thoại di động trở nên phổ biến, các dịch vụ phát triển mạnh, thậm chí ngay tại nước không hề
sản xuất thiết bị. Đôi khi, sự thành công của một sản phẩm hay dịch vụ nhập khẩu tại thị trường
trong nước cũng có thể khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh, làm gia tăng lựa
chọn nhãn hàng hoá sẵn có cho người tiêu dùng cũng như tăng phạm vi hàng hoá và dịch vụ
sản xuất trong nước. Nếu thương mại cho hép chung ta nhập khẩu nhiều hơn, nó cũng cho hép
những người khác mua nhiều hàng sản xấut của chúng ta hơn. Nó làm tăng thu nhập của
chúng ta, cung cấp cho cũng ta những phương tiện dể hưởng sự lựa chọn gia tăng đó.
6. Thương mại làm tăng thu nhập
Giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương mại tăng trưởng, điều này làm tăng thu nhập -
cả thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân.
Dự tính của WTO về tác động của các thoả thuận thương mại tại vòng đàm phán Uruguay 1994
là thu nhập của thế giới có thêm từ 109 tỷ USD đến 510 tỷ USD.
Thương mại cũng làm nảy sinh những thách thức khi các nhà sản xuất trong nước phải đối mặt
với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Nhưng thực tế rằng có nguồn thu nhập bổ sung có
nghĩa là sẵn có nhiều nguồn lực để các chính phủ tái phân phối lợi nhuận từ những người được
lợi nhiều nhất, chẳng hạn để giúp các công ty và công nhân thích ứng bằng cách trở nên năng
suất và có khả năng cạnh tranh hơn trong lĩnh vực mà họ đã và đang làm, hoặc bằng cách
chuyển sang các hoạt động mới.
7. Thương mại kích thích tăng trưởng kinh tế và đó có thể là tin tốt lành cho vấn đề việc
làm
Trên thực tế đã có bằng chứng căn cứ trên sự việc cho thấy rằng việc giảm các rào cản thương
mại là điều kiện tốt cho công ăn việc làm. Nhưng bức tranh này rất phức tạp do nhiều yếu tố.

Tuy nhiên, bảo hộ cũng không phải là cách để giải quyết các vấn đề việc làm.
Có ít nhất hai luận điểm được chỉ ra về vấn đề này. Thứ nhất, sẽ có những nhân tố khác xuất
hiện. Chẳng hạn, tiến bộ công nghệ cũng có tác động mạnh đến việc làm và năng suất lao
động, làm lợi cho một số loại công việc song lại làm tổn thương một số khác. Thứ hai, trong khi
thương mại rõ ràng là làm tăng thu nhập quốc dân (và sự thịnh vượng), điều này không phải
luôn đựơc hiểu là tạo ra công ăn việc làm mới cho những người bị mất việc do sự cạnh tranh
của hàng nhập khẩu.
Có nhiều tình huống cho thấy rằng cơ hội đã được nắm bắt - đó là những trường hợp thương
mại tự do hơn có lợi cho việc làm. Uỷ ban EU tính toán rằng việc thiết lập thị trường duy nhất
của nó có nghĩa là có thêm khoảng từ 300.000 đến 900.000 việc làm nữa so với lúc không có thị
trường duy nhất. Thực tế cũng cho thấy, chế độ bảo hộ đã làm hại công ăn việc làm như thế
nào. Ví dụ điển hình là ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ. Các hàng rào mậu dịch được thiết lập
để bảo vệ việc làm ở nước này bằng cách hạn chế nhập khẩu từ Nhật Bản lại dẫn đến việc làm
cho xe hơi ở Mỹ đắt thêm, lượng xe hơi vì thế được bán ít đi và việc làm giảm.
8. Các nguyên tắc cơ bản làm cho hệ thống có hiệu quả hơn, và giảm bớt chi phí
Thương mại cho phép thực hiện phân công lao động giữa các nước. Nó cho phép sử dụng một
cách phù hợp và hiệu quả các nguồn lực vào sản xuất. Nhưng hệ thống thương mại WTO còn
đem lại nhiều hơn như thế. Nó giúp làm tăn hiệu quả và thậm chí còn giảm bớt chi phí nhiều
hơn bởi những nguyên tắc quan trọng được thiết lập trong hệ thống.
Không phân biệt đối xử chỉ là một trong những nguyên tắc của hệ thống thương mại WTO.
Những nguyên tắc khác gồm có:
* Minh bạch. Thông tin rõ rằng về các chính sách, nguyên tắc và quy định.
* Tin chắc vào các điều kiện thương mại. Những cam kết cắt giảm các hàng rào thương mại và
làm tăng khả năng tiếp cận các thị trường của một số nước cho các nước khác có sự ràng buộc
pháp lý.
* Đơn giản hoá và chuẩn hoá các thủ tục hải quan, xoá bỏ tình trạng quan liêu, tập trung hoá cơ
sở dữ liệu thông tin và các biện pháp khác được thiết lập nhằm đơn giản hoá thương mại theo
phương châm 'kích thích thương mại'.
Tất cả những nguyên tắc này làm cho thương mại đơn giản hơn, giảm bớt phí tổn cho các công
ty, tăng niềm tin vào tương lai. Đổi lại, điều đó cũng có nghĩa là có nhiều việc làm hơn, người

tiêu dùng có hàng hoá và dịch vụ tốt hơn.
9. Hệ thống này bảo vệ các chính phủ khỏi những quyền lợi hẹp hòi
Hệ thống GATT/WTO phát triển trong nửa cuối của thế kỷ XX giúp cho các chính phủ có một
nhãn quan cân bằng hơn về chính sách thương mại. Các chính phủ vững vàng hơn trong việc
tự bảo vệ mình tránh khỏi những vận động ngoài hành lang của những nhóm có quyền lợi hẹp
hòi bằng việc tập trung vào những cân đối vì lợi ích của tất cả mọi người trong nền kinh tế.
Một trong những bài học nổi bật của chủ nghĩa bảo hộ nổi bật trong những thập kỷ đầu thế kỷ
XX là có thể gây ra thiệt hại nếu những quyền lợi cục bọ hẹp hòi chiếm ưu thế về ảnh hưởng
chính trị. Kết quả là một chính sách ngày càng hạn chế mà đã dẫn đến một cuộc chiến tranh
thương mại không có ai thắng chỉ toàn kẻ bại. Các chính phủ phải được vũ trang để chống lại
sức ép của những nhóm quyền lợi hẹp hòi, và hệ thống thương mại WTO có thể giúp được điều
này.
Hệ thống GATT/WTO bao trùm một phạm vi rất rộng. Vì vậy, nếu trong một cuộc thương lượng
thương mại GATT/WTO có một nhóm áp lực vận động chính phủ của mình phải coi nhóm là một
trường hợp đặc biệt cần được bảo hộ thì chính phủ có thể chống lại sức ép bảo hộ bằng cách
lập luận rằng chính phủ cần phải có một thoả thuận trên phạm vi rộng để bảo đảm rằng mọi khu
vực trong nền kinh tế đều có lợi.
10. Hệ thống khuyến khích chính phủ hoạt động tốt
Theo các nguyên tắc của WTO, khi đã có cam kết tự do hoá một khu vực thương mại nào đó,
thì khó có thể đảo ngược được. Các nguyên tắc cũng không khuyến khích những chính sách
thiếu thận trọng. Đối với giới kinh doanh, điều này có nghĩa là độ chắc chắn cao hơn và rõ ràng
hơn về các điều kiện thương mại. Đối với các chính phủ, điều này thường đồng nghĩa với kỷ
luật tốt.
Các cam kết bao gồm những cam kết không sa vào những chính sách thiếu thận trọng. Chủ
nghĩa bảo hộ nhìn chung không phải là một giải pháp khôn ngoan bởi những thiệt hại do nó gây
ra trong nước và trên trường quốc tế.
Một hình thức hàng rào thương mại đặc biệt gây thêm thiệt hại vì chúng tạo cơ hội cho tham
nhũng và những mô hình chính phủ xấu xa khác.
Mộ loại rào cản thương mại mà các nguyên tắc của WTO cố gắng giải quyết là hạn ngạch. Do
hạn ngạch hạn chế cung nên đẩy giá cả tăng lên một cách giả tạo, đồng thời tạo ra một số lợi

nhuận lớn khác thường. Các nhà kinh tế gọi đó là 'thuế hạn ngạch'. Lợi nhuận này có thể được
dùng để gây ảnh hưởng đối với các chính sách, vì cũng có nhiều tiền hơn để thực hiện các
cuộc vận động ngoài hành lang. Nói cách khác, hạn ngạch là một biện pháp hạn chế thương
mại đặc biệt tồi tê. Thông qua các nguyên tắc của WTO các chính phủ đã nhất trí rằng họ không
khuyến khích sử dụng hạn ngạch.
Tuy nhiên, nhiều loại hạn ngạch khác nhau vẫn được áp dụng ở hầu hết các nước, và nhiều
chính phủ lập luận rằng hạn ngạch rất cần thiết. Song họ bị các hiệp định của WTO ràng buộc
và có nhữn cam kết giảm bớt hay loại bỏ nhiều loại hạn ngạch, đặc biệt là đối với ngành dệt.
Nhiều lĩnh vực khác của các hiệp định WTO cũng có thể giúp giảm bớt tệ tham nhũng và chính
phủ xấu xa. Sự minh bạch, các tiêu chí rõ ràng hơn về các quy định đối với sự an toàn và chuẩn
mực của sản phẩm, và sự không phân biệt đối xử cũng giúp giảm bớt tình trạng gian dối và việc
ra quyết định mang tính độc đoán.
Thực sự các chính phủ đã dùng WTO như là một sức ép bên ngoài đáng được hoan nghênh đối
với các chính sách của họ.
Trang ngoài MFOnews:
+ Tổ chức Thương mại Thế (WTO)
» Hậu WTO: Bốn thách thức cho các nhà sản xuất Việt Nam
(10/30/2006 8:50:43 AM)
Các nhà sản xuất VN sẽ phải đối mặt với
những thách thức gì sau khi VN gia nhập
WTO? Chúng tôi cho rằng có bốn thách
thức đang chờ đón họ trong những năm
tới.
Thách thức thứ nhất: các nhà sản xuất sẽ phải đối mặt nhiều hơn với các vụ kiện bán phá giá
của nước ngoài đối với sản phẩm xuất khẩu của mình, và do đó phải xây dựng các kế hoạch
phòng bị. Gia nhập WTO không có nghĩa là sẽ giảm được rủi ro vướng vào tranh chấp thương
mại với các nước đối tác, ít nhất trong vòng 12-15 năm, là thời gian VN bị coi là có nền kinh tế
phi thị trường và dễ bị các nước đối tác tận dụng để áp đặt biện pháp chống bán phá giá và các
biện pháp tự vệ đặc biệt cũng như tự vệ đối với từng loại hàng hóa.
Vì nhiều nước đang phát triển cũng đang phải phụ thuộc vào xuất khẩu các hàng hóa có giá trị

thặng dư thấp, là những hàng hóa mà VN có lợi thế so sánh tương đối, nên các nhà quản lý
phải xây dựng các kế hoạch phòng bị cho các tranh chấp thương mại với các nước này.
Kế hoạch phòng bị thường bao gồm bốn bước chính: (i) nắm vững các thủ tục và luật pháp liên
quan về kiện bán phá giá và các tranh chấp thương mại khác với các nước đối tác đang phát
triển trong khuôn khổ giải quyết tranh chấp của WTO; (ii) xây dựng các giải pháp phòng ngừa
tranh chấp thương mại; (iii) duy trì các luồng tài chính và sản xuất trong khi doanh nghiệp đang
bận rộn tham gia giải quyết tranh chấp thương mại hoặc điều tra chống bán phá giá của nước
ngoài; (iv) hợp tác với chính quyền địa phương và trung ương trong các cuộc điều tra và vận
động hành lang để giành được sự ủng hộ của họ.
Thách thức thứ hai: gia nhập WTO sẽ buộc các nhà sản xuất nâng cấp sản phẩm của mình
trên bậc thang giá trị gia tăng và đa dạng hóa thị trường của họ. Việc này sẽ giúp các doanh
nghiệp giảm thiểu nguy cơ bị vướng vào các tranh chấp thương mại (nếu chỉ dừng lại ở những
mặt hàng có giá trị thặng dư thấp, sử dụng nhiều lao động thì sẽ đối mặt với rủi ro bị kiện phá
giá lớn hơn vì đây cũng chính là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước đang phát
triển), giảm thiểu tác động có thể có của các tranh chấp thương mại và cải thiện tính cạnh tranh
của mình, giảm khả năng bị lấn lướt bởi sản phẩm được sản xuất hoặc nhập khẩu bởi các
doanh nghiệp nước ngoài và chi nhánh, vốn có tính cạnh tranh cao hơn. Nguy cơ này nảy sinh
từ việc biểu thuế nhập khẩu các mặt hàng vào VN sẽ bị cắt giảm đáng kể và việc mở cửa thị
trường phân phối ở VN cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Nếu là doanh nghiệp hoàn toàn nội địa thì cần thực hiện việc này thông qua ba phương hướng
sau: (i) nâng cấp và địa phương hóa dây chuyền giá trị gia tăng sản phẩm của mình trong bối
cảnh có năng lực về vốn và nghiên cứu - triển khai hạn chế; (ii) phát triển thương hiệu riêng của
mình; và (iii) phát triển thị trường riêng cho sản phẩm của mình, hoặc là trong nước hoặc là
quốc tế. Nếu là doanh nghiệp liên doanh, cần thuyết phục đại bản doanh chuyển giao công
nghệ và sản phẩm mới nhất cho liên doanh và phải bảo vệ bí mật về qui trình và công nghệ sản
xuất.
Thách thức thứ ba: gia nhập WTO sẽ buộc các nhà sản xuất thúc đẩy quá trình địa phương
hóa nhân sự cấp cao. Trên thực tế, gia nhập WTO sẽ không chỉ thúc đẩy quá trình địa phương
hóa nhân sự cấp cao mà còn làm tăng tầm quan trọng của việc có được chiến lược địa phương
hóa đúng đắn - lựa chọn chiến lược địa phương hóa thích hợp và tốc độ thực thi chiến lược đó.

Đối với các giám đốc điều hành hoặc giám đốc nhân sự, mục tiêu là phải duy trì được một quan
hệ làm việc hòa nhập giữa quản lý người nước ngoài và quản lý người bản địa, thu được sự
trung thành và động cơ làm việc đúng đắn của cán bộ quản lý cấp trung gian hiện có, tránh để
họ bị chèo kéo bởi các đối thủ. Do sự cạnh tranh để có được đội ngũ nhân sự cấp cao giàu kinh
nghiệm nên tiền lương có xu hướng bị đội lên quá mức. Các doanh nghiệp cũng phải lưu ý rằng
địa phương hóa (nội địa hóa) nhân sự cấp cao không nhất thiết làm giảm (đáng kể) chi phí nhân
sự.
Thách thức thứ tư: gia nhập WTO sẽ buộc các nhà sản xuất phải nhận thức được tầm quan
trọng của việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Các nhà sản xuất phải cân đối được
việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế (ví dụ, tiêu chuẩn ISO, vấn đề lao động trẻ em ) trong khi
vẫn duy trì được tính cạnh tranh của sản phẩm. Điều này không chỉ có nghĩa là phải đào tạo
công nhân tuân thủ các thông lệ làm việc mới trong khi giữ chi phí ở mức thấp, mà còn đòi hỏi
phải thực thi các chính sách bổ trợ tương ứng của chính phủ, các chính sách về công nhân
ngoại tỉnh.
Ngoài chuyện thi hành các tiêu chuẩn quốc tế thường có nghĩa là chi phí sẽ rất tốn kém cho các
nhà sản xuất VN (đôi khi đủ lớn để làm mất đi lợi thế lao động giá rẻ tại VN), một số nước nhập
khẩu có thể sử dụng các tiêu chuẩn này làm hàng rào phi thuế quan để bảo vệ ngành công
nghiệp trong nước của họ. _ặc biệt là trường hợp của rào cản công nghệ (TBT) hay còn gọi là
“tiêu chuẩn xanh”, theo đó mỗi nước nhập khẩu được phép có tiêu chuẩn và qui chế riêng và
theo đuổi các “biện pháp cần thiết” để áp đặt chúng. Chi phí giao dịch để áp dụng những tiêu
chuẩn quốc gia này thậm chí còn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế.
Các nhà sản xuất VN sẽ phải đối mặt với bốn thách thức này trong bối cảnh hạn hẹp về thời
gian và nguồn lực. Cần lưu ý rằng bốn thách thức này là có liên quan và ảnh hưởng lẫn nhau,
và vì thế không thể chỉ tập trung giải quyết một thách thức mà xem nhẹ những cái còn lại. Ví dụ,
chính sách phát triển sản phẩm và chính sách địa phương hóa nhân lực có thể không bổ trợ
cho nhau.
Mục đích của chính sách địa phương hóa nhân lực là cắt giảm chi phí nhân lực, trong khi chính
sách phát triển sản phẩm đòi hỏi nguồn nhân lực lành nghề thường là được đào tạo ở nước
ngoài để đảm đương việc nghiên cứu - triển khai (R&D) và thiết kế. Đây là lý do một số doanh
nghiệp thích tuyển dụng Việt kiều, một kiểu “địa phương hóa cái đã được quốc tế hóa”, tất nhiên

là chi phí tiền lương phải trả cao hơn.
(Bài viết của TS. Phan Minh Ngoc- Khoa Kinh tế, Đại học Kyushu, Nhật Bản)
Thông tin liên quan:
+ Việt Nam: Thành viên thứ 150 của WTO (16/10)

×