BÀI DỰ THI
TÌM HIỂU “60 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ”
(07/5/1954 - 07/5/2014)
Câu 1: Vì sao Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết
chiến chiến lược?
Trả lời:
* Vài nét về vị trí chiến lược của vùng Tây Bắc và Điện Biên Phủ:
- Vùng Tây Bắc:
+ Tây Bắc là một dải đất ở phía Tây Bắc bộ Việt Nam. Phần lớn đất đai là
núi cao, rừng rậm; núi xen kẽ cao nguyên và thung lũng mà đỉnh Phan Xi Păng trên
dãy Hoàng Liên Sơn là “nóc nhà” của Tây Bắc với độ cao 3.142m. Các con sơng
như: Sơng Mã, sơng Đà, sơng Thao với dịng nước chảy xiết đã chia Tây Bắc thành
nhiều khu vực. Đường vào Tây Bắc vừa ít lại phải qua nhiều sông, suối, núi cao
hiểm trở nên đi lại cực kỳ khó khăn.
+ Tây Bắc là một địa bàn chiến lược quan trọng của Bắc Bộ Việt Nam nói
riêng, của Bắc Đơng Dương nói chung. Phía Tây tiếp giáp với hai tỉnh Phơng Xa Lì
và Sầm Nưa của Lào, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Phía Đơng là căn cứ
địa Việt Bắc. Phía Nam là tỉnh Hịa Bình, nối liền với các tỉnh thuộc Liên khu III và
liên khu IV. Do vị trí địa lý của Tây Bắc có đặc thù như vậy đã khiến cả ta và Pháp
đều rất chú trọng đến địa bàn chiến lược này.
+ Đối với ta, làm chủ được Tây Bắc không những bảo vệ được vững chắc khu
đầu não kháng chiến Việt Bắc, tạo thành thế liên hoàn nối liền một dải hậu phương
kháng chiến rộng lớn, mà cịn có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao lưu
quốc tế, đặc biệt là tăng cường thêm tình đồn kết Việt - Lào để chống kẻ thù chung.
+ Đối với thực dân Pháp, khống chế được khu vực này, chúng sẽ mở rộng
được địa bàn hoạt động nhằm uy hiếp, khống chế bên sườn và sau lưng ta, chia cắt
liên lạc và sự chi viện của ta (giữa Việt Bắc và Liên khu III, Liên khu IV), đồng thời
từ đây có thể che chở cho Thượng Lào cùng cố đô Luông Pha Băng.
- Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn thuộc tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh
Điện Biên), nằm ở giữa vùng núi rừng Tây Bắc, có lịng chảo Mường Thanh
(Mường Then - Mường Trời) dài gần 20km, rộng từ 6 đến 8 km, cách Hà Nội
khoảng 300km, cách Luông Pha Băng (Lào) khoảng 200km đường chim bay, cách
biên giới các nước Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan từ 150 đến 200 km, cách Việt
Bắc, khu IV từ 300km đến 500km đường bộ. Thung lũng này nằm gần biên giới Việt
- Lào, là một đầu mối giao thơng quan trọng, có tuyến đường đi Lào, có con sơng
Nậm Rốm chảy theo hướng Bắc - Nam đổ xuống sơng Nậm Hu, có sân bay Mường
Thanh được xây dựng từ năm 1889. Dân số Điện Biên Phủ lúc đó có khoảng 2 vạn
người thuộc 11 dân tộc khác nhau: Kinh, Thái, H’Mông, Nùng, Mường, Tày, Lào,
Xá, Puộc, Hoa, Pú Noi...
Đế quốc Pháp - Mỹ đánh giá và coi Điện Biên Phủ ở vào “một vị trí chiến
lược quan trọng, chẳng những đối với tồn bộ chiến trường Đơng Dương, mà cịn
Trang 1
đối với miền Đơng Nam Á” (Bộ Quốc phịng - Viện Lịch sử quân sự. Lịch sử cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Tập V, Nxb Sự thật, H. 1992.
Tr.70). Nó là “ngã tư chiến lược quan trọng”, nó như “cái bàn xoay và có thể xoay đi
bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc (Na Va. Đông Dương hấp hối.
Nxb Plông, Pari, 1958 (tiếng Việt). Nó như “cái chìa khóa” bảo vệ Thượng Lào, từ
đó có thể đánh chiếm lại các vùng đã bị mất ở Tây Bắc trong những năm 1950 1953 và tạo điều kiện để đánh tiêu diệt quân chủ lực của ta tại đây. Đồng thời là một
căn cứ không quân - lục quân lợi hại, phục vụ cho chính sách xâm lược của Mỹ ở
Đông Nam châu Á.
Kế hoạch tác chiến của Nava hy vọng trong vòng 18 tháng sẽ giành lại thế
chủ động chiến lược, chuyển bại thành thắng... Ngày 3/12/1953 Nava ra huấn lệnh
cho quân đội Pháp tập trung lực lượng phòng ngự ở Tây Bắc vào căn cứ không quân
- lục quân ở Điện Biên Phủ và quyết giữ căn cứ này với bất cứ giá nào.
- Tây Bắc với địa hình phức tạp rất khó khăn cho hoạt động quân sự của
địch nhưng lại rất thuận lợi cho chiến tranh nhân dân của ta. Bởi vậy sau ba chiến
dịch, vùng Trung du và đồng bằng (chiến dịch Trung du, chiến dịch đường số 18 và
chiến dịch Hà Nam Ninh), Đảng ta quyết định chọn hướng rừng núi Tây Bắc để tiến
cơng. Tại Hội nghị Bộ Chính trị bàn về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953 - 1954,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng
chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay khơng thay đổi,
nhưng trong hoạt động thì có thể thay đổi. Pháp dùng binh là phải thiên biến vạn
hố”.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng
tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ của địch ở đây, giải phóng Tây Bắc
và tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang của Lào giải phóng Bắc Lào, đồng thời tạo
điều kiện để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch trên chiến trường Đông Dương. Điện
Biên Phủ trở thành trung tâm điểm của kế hoạch Đông Xuân 1953 - 1954 của ta, là
trận “quyết chiến chiến lược” lớn nhất giữa ta và Pháp.
Trong thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào ngày 22/12/1953. Hồ Chủ
tịch nêu rõ: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về qn
sự mà cả về chính trị, khơng những đối với trong nước mà cịn cả đối với quốc tế. Vì
vậy, toàn dân, toàn quân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”.
Câu 2: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những
quyết định gì khó khăn nhất?
Trả lời:
Trước khi nhận nhiệm vụ ở Điện Biên Phủ, Bác Hồ đã gặp Võ Nguyên
Giáp hỏi đi xa như vậy có gặp khó khăn gì khơng? Đại tướng cho hay cơng việc ở
chiến trường đã có các anh em đi trước giúp đỡ phần nào. Chỉ lo một điều Điện Biên
Phủ cách Việt Bắc hơn 500 km nếu có gì khó khăn sợ khơng kịp xin chỉ thị của Bác.
Bác Hồ đã đưa ra câu nói “tướng quân tại ngoại”, nghĩa là “mọi việc trao cho chú
toàn quyền quyết định”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp dù được trao toàn quyền quyết định nhưng khi thấy thực
tế ở chiến trường khơng đúng với dự tính, Ơng đã kiên trì thuyết phục mọi người
Trang 2
chuyển sang hướng chiến lược khác, chứ không áp đặt quyền của một vị Tổng tư
lệnh đối với tướng lãnh và quân sĩ trước chiến dịch lớn một mất một còn. Hơn nữa,
thuyết phục được các chuyên gia Trung Quốc đồng ý với kế hoạch mới, để họ không
tự ái mà vẫn vui vẻ giúp đỡ ta là một vấn đề cực kỳ tế nhị.
Đại tướng đã triệu tập hội nghị Quân ủy tại mặt trận, trình bày và phân tích những
những vấn đề mà Ơng đang trăn trở. Đại tướng cho rằng, phải xây dựng phương án
tác chiến đánh để giành chiến thắng chứ không thể đánh liều. Nếu khơng chuyển
phương án tác chiến thì chúng ta chắc chắn là đánh khơng thắng mà có thể gặp tổn
thất lớn. Hội nghị này đã phát huy hết tinh thần dân chủ trong Đảng ủy mặt trận, mọi
người cuối cùng đã nhất trí 100% với quyết định đổi phương án đánh của Đại
tướng.
Gặp cố vấn Trung Quốc Vi Quốc Thanh, Đại tướng đưa ra những lý do rất thuyết
phục. Thứ nhất, bộ đội Việt Nam mới có khả năng đánh một tiểu đồn hay một tiểu
đồn tăng cường trú ở cơng sự vững chắc trong một đêm, nhưng chưa có khả năng
tiêu diệt một lúc 49 cứ điểm trong tập đoàn cứ điểm lớn mạnh trong ba ngày hai
đêm. Thứ hai, đây là lần đầu tiên bộ đội Việt Nam có lựu pháo, pháo cao xạ… và
cũng là lần đầu ta hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, nhưng chưa qua diễn tập, nên
dễ xảy ra lúng túng, hiệp đồng không ăn khớp, khi áp dụng chiến thuật đánh nhanh
thắng nhanh.
Như vậy, chỉ vài giờ trước khi nổ súng theo kế hoạch "Đánh nhanh, thắng nhanh"
của cố vấn Trung Quốc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thuyết phục được các tướng
lĩnh của ta và ban cố vấn Trung Quốc vui vẻ chấp thuận đổi sang kế hoạch "Đánh
chắc, thắng chắc" và hỗn cuộc tấn cơng lại để chuẩn bị phương án tấn cơng mới.
Như vậy, có thể thấy, ở những thời khắc lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cực
kỳ cẩn trọng đưa ra những quyết định vô cùng sáng suốt, lấy sự tồn vong của dân tộc
lên hàng đầu trong mọi tính tốn.
Câu 3: Hãy cho biết Trong chiến dịch Điện Biên Phủ có những đơn vị nào của ta
trực tiếp tham gia và mật danh của những đơn vị này là gì? Sở chỉ huy chiến dịch
của ta đặt ở những nơi nào trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
Trả lời:
1. Có 4 đại đồn bộ binh và 1 đại đồn cơng binh – pháo binh trực tiếp tham gia
chiến dịch Điện Biên Phủ:
- Đại đoàn 308 (lấy mật danh là Đại đoàn Việt Bắc), gồm Trung đoàn 36 (Sa Pa),
Trung đoàn 88 (Tam Đảo), Trung Đoàn 102 (Ba Vì).
- Đại đồn 312 (lấy mật danh là Đại đồn Bến Tre), gồm Trung đoàn 141 (Đầm
Hà), Trung đoàn 165 (Đơng Triều) và Trung đồn 209 (Hịn Gai).
- Đại đồn 316 (lấy mật danh là Đại đồn Biên Hịa), gồm Trung đồn 98 (Ba
Đồn), Trung đồn 174 (Sóc Trăng) và Trung đoàn 176.
- Đại đoàn 304 (lấy mật danh là Đại đồn Nam Định), có 2 trung đồn tham chiến
ở Điện Biên Phủ: Trung đoàn 57 (Nho Quan) và Trung đồn 9 (Ninh Bình).
- Đại đồn cơng pháo 351 (lấy mật danh là Long Châu), gồm 4 trung đoàn: Trung
đoàn 45 (Tất Thắng) gồm 2 tiểu đoàn lựu pháo 105 ly; Trung đoàn 675 gồm 2 tiểu
đoàn sơn pháo 75 ly; Trung đồn 367 (Hương Thủy) và Trung đồn cơng binh 151
gồm 2 tiểu đoàn
Trang 3
2. Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy
mặt trận đã lần lượt làm việc ở 3 Sở chỉ huy:
a) Sở chỉ huy đầu tiên được đặt tại hang Thẩm Púa ở phía Nam cầu Bản Pó
(Km14, 680 trên đường Tuần Giáo đi Mường Thanh).
b) Sở chỉ huy thứ hai được thiết lập từ sáng 18-01-1954 trong một khu rừng gần
suối Huổi He thuộc bản Nà Tấu. Vị trí này nằm trên đường Tuần Giáo đi Mường
Thanh, đến Km 62 thì rẽ phải, đi khoảng 2.5 km là đến. Bộ chỉ huy chiến dịch
chuyển vào đây cho gần mặt trận và gần các đơn vị để tiện chỉ huy đánh trong 3 đêm
2 ngày.
c) Sở chỉ huy thứ ba và cũng là Sở chỉ huy chính thức của chiến dịch Điện Biên
Phủ được thiết lập ở khu rừng Mường Phăng, cách Mường Thanh 15 km theo đường
chim bay. Sở chỉ huy này hoạt động trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến dịch
cho đến ngày toàn thắng (từ 31-01 đến 15-5-1954).
Câu 4 Hãy nêu diễn biến, kết quả các đợt tiến công trong chiến dịch Điện Biên Phủ
và Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ.
Trả lời: Chiến dịch Điện Biên Phủ được diễn ra trong 56 ngày đêm ác liệt và được
chia thành 3 đợt tấn công:
a. Diễn biến, kết quả các đợt tiến công trong chiến dịch Điện Biên Phủ:
Đợt tiến công thứ nhất bắt đầu từ ngày 13/3 đến ngày 17/3/1954. Nhiệm vụ
đợt này là tiêu diệt các vị trí vịng ngồi của địch, ở phía Bắc và Đông Bắc gồm Him
Lam, Độc Lập và Bản Kéo.
Đúng 17h ngày 13/3/1954, đại đội lựu pháo 806 bắn những loạt đạn đầu tiên
vào trung tâm đề kháng Him Lam mở màn cho chiến dịch. Trung tâm đề kháng Him
Lam là một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch. Him Lam thuộc phân khu
trung tâm, cách Mường Thanh 2,5km - Him Lam có nhiệm vụ che chở cho phân khu
trung tâm và ngăn chặn bộ đội ta đánh vào phân khu Bắc. Tại đây Nava bố trí một
tiểu đoàn lê dương thiện chiến chiếm giữ gồm 3 cứ điểm yểm hộ lẫn nhau có trận địa
phịng ngự vững chắc với nhiều hỏa điểm lợi hại.
Cuộc chiến đấu diễn ra rất quyết liệt, kéo dài hơn 5h30’, đến 22h30’ ta làm
chủ hoàn toàn cứ điểm Him Lam, tiêu diệt và bắt sống gần 500 tên địch, thu nhiều
vũ khí, đạn dược. Lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” đã được cắm lên cứ điểm Him
Lam.
Trong trận mở màn, xuất hiện gương chiến đấu dũng cảm của Phan Đình Giót, anh
đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai tại mỏm 2 để tạo điều kiện cho bộ đội xung phong
tiêu diệt địch.
Thất thủ ngay tại trận mở màn, Đại tá Pirốt chỉ huy pháo binh của thực dân
Pháp tại Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh Việt Nam, đã tự sát.
Phát huy truyền thống đánh thắng trận mở màn, 3h30’ ngày 15/3/1954 ta
tấn công đồi Độc Lập. Cứ điểm Độc Lập nằm trên quả đồi dài 700m, rộng 150m,
cách Mường Thanh 4km, do một tiểu đoàn Bắc Phi tăng cường chốt giữ. Vị trí Độc
Lập có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta từ hướng Bắc đánh xuống. Sau 3 giờ chiến đấu,
bộ đội ta hoàn toàn làm chủ đồi Độc Lập.
Chiến thắng vẻ vang trên có sự đóng góp xứng đáng của bộ đội pháo cao
xạ. 8h ngày 14/3, đại đội 815 tiểu đoàn 383, trung đoàn 367 bắn rơi tại chỗ 1 máy
Trang 4
bay trinh sát Moran của Pháp - Đơn vị đã được tặng thưởng Huân chương quân công
hạng 3.
Sau gần 5 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt nhanh gọn 2 cụm cứ điểm kiên cố vào
bậc nhất của địch, đồng thời làm tan rã một tiểu đồn địch, bức hàng ln cứ điểm
Bản Kéo, tiêu diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay mở toang cánh
cửa phía Bắc vào Trung tâm tập đoàn cứ điểm.
Để đảm bảo chắc thắng trong đợt tấn công thứ hai, Đảng ủy và Bộ chỉ huy
mặt trận quyết định phải xây dựng trận địa tấn công và bao vây và xác định đây là
nhiệm vụ trung tâm trong công tác chuẩn bị của đợt 2.
Hệ thống trận địa tấn công và bao vây: Bao gồm đường giao thông hào
trục sâu 1,7m, rộng 1,2m chạy xung quanh phân khu Mường Thanh, cắt đứt phân
khu này và phân khu nam, giao thông hào nhánh sâu 1,7m, rộng 0,5m từ đường hào
trục tỏa các hướng sát tới trận địa của địch.
17h ngày 30/3/1954 đợt tấn công thứ 2 bắt đầu và kéo dài hơn 20 ngày
đêm ác liệt (30/3 - 26/4/1954). Nhiệm vụ đợt tấn cơng này là đánh chiếm các ngọn
đồi phía đơng, đánh chiếm sân bay triệt đường tiếp tế và tiếp viện, thu hẹp phạm vi
chiếm đóng và vùng trời của phân khu Trung tâm.
Cuộc chiến đấu tại C1 diễn ra quyết liệt ngay từ những ngày đầu. Sau 45
phút chiến đấu, trung đoàn 98, đại đoàn 316 đánh chiếm đồi C1. Được tăng viện,
ngày 9 tháng 4 địch cho quân phản kích. Cuộc chiến đấu diễn ra 4 ngày đêm liên tục,
cuối cùng mỗi bên chiếm một nửa.
Đồi A1 là điểm cao quan trọng nhất trong 5 ngọn đồi phía Đơng, nó cũng
là điểm cao cuối cùng che chở cho phân khu trung tâm.
Từ 30/3 - 4/4 bộ đội ta 3 lần tổ chức tấn công, địch dựa vào hệ thống hầm ngầm
ngoan cố chống cự, tổ chức nhiều cuộc phản cơng có xe tăng và pháo binh yểm hộ,
cuối cùng mỗi bên chiếm một nửa đồi A1.
Tại đồi E, khẩu đội Phùng Văn Khầu chiến đấu thông minh, sáng tạo, tiêu
diệt nhiều hỏa điểm địch, sau này đồng chí được tuyên dương Anh hùng lực lượng
vũ trang.
Ngay trong đợt 2, các vị trí 106, 105, 206.... của thực dân Pháp đã bị bộ
đội ta đánh chiếm.
Ngay từ hạ tuần tháng 3/1954, bộ đội cao xạ và bộ đội pháo binh hoạt
động mạnh, máy bay địch không hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh được, phải
bay cao thả dù, nhiều dù hàng bay sang trận địa phòng ngự của ta. Từ trung tuần
tháng 4/1954 phong trào thi đua “Săn tây bắn tỉa” của bộ đội ta càng làm cho địch
hoang mang, tuyệt vọng. Đối với địch, Điện Biên Phủ đã trở thành địa ngục trần
gian, cái chết đến với chúng bất cứ lúc nào.
Được sự chi viện của hậu phương về cả tinh thần và vật chất, các chiến sỹ
Điện Biên Phủ lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của chiến dịch.
Bộ chỉ huy mặt trận quyết định mở đợt tấn công thứ 3. Đợt tấn công cuối
cùng bắt đầu vào đêm 1/5/1954. Nhiệm vụ đợt chiến đấu này được xác định cụ thể
là: Đánh chiếm và tiêu diệt các cứ điểm còn lại của địch, uy hiếp tung thâm chớp
thời cơ tiến hành tổng cơng kích.
Phối hợp chặt chẽ với bộ binh, pháo binh và cao xạ hoạt động mạnh, làm
Trang 5
cho địch tiếp tục hoảng loạn.
Các đại đoàn bộ binh nhanh chóng đánh chiếm C1, A1, các vị trí ở dưới
chân các ngọn đồi phía đơng, tiến đánh khu trung tâm Mường Thanh. Chớp thời cơ,
15h ngày 7/5/1954, quân ta được lệnh mở cuộc tổng cơng kích vào tập đồn cứ
điểm.
17h30 phút ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm sở chỉ huy địch, Thiếu
tướng Đờ Cát và bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống. Lá cờ Quyết chiến
Quyết thắng của quân đội ta đã tung bay trên nóc hầm sở chỉ huy địch, binh lính địch
ở các cứ điểm còn lại lũ lượt kéo cờ trắng ra hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn
thắng.
b. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ:
- Quân và dân ta đã làm phá hủy hoàn toàn kế hoạch Nava, đánh bại ý chí xâm lược
của thực dân Pháp.
- Chúng ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch thuộc các đơn vị thiện
chiến nhất của thực dân Pháp ở Đơng Dương, phá hủy nhiều vũ khí và phương tiện
chiến tranh, giải phóng được nhiều vùng đất đai rộng lớn, có ý nghĩa về mặt chiến
lược.
- Mở ra một cục diện chính trị mới, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị
Giơnevơ 1954 bàn về việc lập lại hịa bình ở Đơng Dương.
- Đây khơng chỉ là chiến thắng của dân tộc Việt Nam, mà còn là thắng lợi của các
dân tộc nhỏ trên thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực
dân.
Câu 5:
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng và nhà nước đã phong danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân cho bao nhiêu đồng chí? Bạn hãy nêu chiến
công của 4 anh hùng liệt sĩ tại mặt trận Điện Biên Phủ: Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn,
Phan Đình Giót và Trần Can?
Trả lời:
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã có 18 cán bộ, chiến sĩ lập cơng xuất sắc
được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (trong
đó có 4 liệt sĩ) đó là:
1 - Anh hùng Trần Can (Liệt sĩ).
2 - Anh hùng Bùi Đình Cừ.
3 - Anh hùng Dương Quảng Châu.
4 - Anh hùng Tô Vĩnh Diện (Liệt sĩ).
5 - Anh hùng Bế Văn Đàn (Liệt sĩ).
6 - Anh hùng Phan Đình Giót (Liệt sĩ).
7 - Anh hùng Đặng Đình Hồ.
8 - Anh hùng Trần Đình Hùng.
9 - Anh hùng Phùng Văn Khầu.
10 - Anh hùng Đinh Văn Mẫu.
11 - Anh hùng Chu Văn Mùi.
12 - Anh hùng Đặng Đức Song.
13 - Anh hùng Phan Tư.
Trang 6
14 - Anh hùng Nguyễn Văn Ty.
15 - Anh hùng Lưu Viết Thoảng.
16 - Anh hùng Lộc Văn Trọng.
17 - Anh hùng Hồng Văn Nơ.
18 - Anh hùng Nguyễn Ngọc Bảo.
a. Chiến công của Tô Vĩnh Diện :
Tô Vĩnh Diện (1924-1953), Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng Vũ Trang Nhân dân (Truy
phong; 7/5/1955), khi hy sinh, anh là Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc Đại
đội 827, Tiểu đồn 394, Trung đồn 367.Hn chương Qn cơng hạng Nhì, Huân
chương Chiến công hạng Nhất
Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, ở xã Nơng Trường, huyện
Nơng Cống, tỉnh Thanh Hoá. Lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở,
anh phải chịu bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa
phương. Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ đội.
Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh
lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong
quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí tập kết để
tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng
nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an tồn.
Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh xung phong
lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như lúc nghỉ dọc
đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm
tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng cái dốc rồi phổ biến
cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xẩy ra.
Kéo pháo vào đã gian khổ, hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt, anh đã đi sát
từng người, động viên giải thích nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết tâm cùng
nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.
Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp và cong rất nguy hiểm. Tô Vĩnh
Diện cùng đồng đội Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt, pháo lao
nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một
trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, anh Ty bị hất xuống suối.
Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tơ Vĩnh Diện hơ đồng đội: “Thà hy sinh, quyết
bảo vệ pháo” và anh buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình chèn vào bánh
pháo, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ pháo dừng lại.
Tấm gương hy sinh vơ cùng anh dũng của đồng chí Tơ Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ
toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu
thắng lợi.
b. Chiến công của Bế Văn Đàn.
Đồng chí Bế Văn Đàn, (1931 – 1954), dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh (nay là xã
Triệu Ẩu), huyện Phục Hoà, tỉnh Cao Bằng. Xuất thân trong một gia đình nghèo có
truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm, lớn lên đồng chí tham gia
hoạt động du kích. Tháng l năm 1948 đồng chí xung phong vào bộ đội và tham gia
nhiều chiến dịch, đồng chí ln nêu cao tinh thần dũng cảm, tích cực vượt qua mọi
Trang 7
khó khăn ác liệt, kiên quyết chấp hành mọi chỉ thị mệnh lệnh nghiêm túc, chính xác
kịp thời, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Cuộc kháng chiến chống thực đân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng ta quyết
định mở chiến dịch Đông Xuân năm 1953 - 1954, đơn vị hành quân đi chiến dịch,
đồng chí Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao
nhiệm vụ bao vây giữ địch ở Mường Pồn. Lúc đó, khi thấy lực lượng ta ít, địch tập
trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều
bị quân ta đánh bật. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt. Địch liều chết
xông lên. Ta kiên quyết ngăn chặn, chốt giữ. Cần có lệnh cho đại đội quyết tâm giữ
ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, để các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện
các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù đồng chí vừa đi cơng tác về nhưng khi thấy
chỉ huy thơng báo đồng chí đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ. Mặc cho bom
rơi, đạn nổ, đồng chí đã dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc của địch, xuống truyền
đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trong khi đó, trận chiến đấu diễn ra
ngày càng ác liệt hơn, đồng chí được lệnh ở lại đại đội chiến đấu. Địch phản kích lần
thứ ba, chúng điên cuồng mở đường tiến, đại đội bị thương vong nhiều, chỉ còn 17
người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu.
Một khẩu trung liên của đơn vị khơng bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên
của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì khơng có chỗ đặt súng, tình thế hết sức khẩn
trương, không ngần ngại Bế Văn Đàn chạy lại cầm 2 khẩu trung liên đặt lên vai
mình và hơ bạn bắn. Đồng chí Pù cịn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói: ''Kẻ thù trước
mặt, đồng chí có thương tơi thì bắn chết chúng nó đi''. Đồng chí Pù nghiến răng nổ
súng vào đội hình qn địch quật ngã hàng chục tên. Địch hoảng hốt bỏ chạy, đợt
phản kích này của chúng bị bẻ gãy. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, đồng chí
Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và đã anh dũng hy sinh, hai tay vẫn cịn ghì chặt
súng trên vai mình. Tấm gương dũng cảm của đồng chí đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên
toàn mặt trận hăng hái thi đua giết giặc lập cơng, góp phần làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu
Đồng chí Bế Văn Đàn lúc hy sinh là tiểu đội phó, Đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tấm gương chiến đấu dũng cảm, chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp
trên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Do đó, trong đại hội mừng cơng của
đơn vị, đồng chí Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất và
được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đồn. Với những thành tích đặc biệt
xuất sắc, ngày 31/8/1955, đồng chí được Quốc hội truy tặng danh hiệu anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân và Huân chương qn cơng hạng nhì.
Đồng chí Bế Văn Đàn là một người anh hùng liệt sĩ cùng hàng ngàn các anh
hùng liệt sĩ đã ngã xuống lúc tuổi đơi mươi, góp phần làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ ''nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng'' và đến Đại thắng mùa xuân năm
1975 lịch sử. Với những cống hiến đó, đồng chí khơng những là một tấm gương,
một niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Cao Bằng mà còn là niềm tự hào của nhân
dân cả nước.
c. Chiến công của Phan Đình Giót.
Phan Đình Giót (1920-1954)
Trang 8
(1920-1954) Phan Đình Giót - sinh nǎm 1920 ở làng Tam Quang, huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Nhà nghèo, cha mất sớm, hai mẹ con đùm bọc nuôi nhau trong
cảnh bóc lột áp bức của địa chủ. Nǎm 1950. Phan Đình Giót xung phong đi bộ đội.
Anh tham gia nhiều chiến dịch lớn: Trung Du, Hịa Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ hai lần bị thương nặng vắn tiếp tục chiến đấu và đã hy sinh oanh liệt trong trận đánh
mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đó là trận tiêu diệt cứ điểm Him Lam - tư thế hy sinh của anh - lấy thân mình
bịt lỗ châu mai giặc - mãi mãi là hình tượng sáng ngời khí thế tiến công của người
chiến sĩ cách mạng: Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, dành cho Tổ quốc tất cả tuổi
trẻ và cuộc sống của mình...
d. Chiến cơng của Trần Can:
Trần Can sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Sơn Thành, huyện Yên
Thành, tỉnh Nghệ An. Ông nhập ngũ tháng 1 năm 1951. Khi hy sinh ông là Đại đội
phó bộ binh thuộc Trung đồn 209, Đại đồn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Từ hồi còn nhỏ, Trần Can rất ham thích vào bộ đội để được cầm súng giết
giặc cứu nước. Lớn lên, đã ba lần anh xung phong tình nguyện xin đi bộ đội, nhưng
vì sức yếu nên đến lần thứ tư mới được chấp nhận.
Từ khi vào bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, chỉ huy hết sức linh
hoạt. Trong mọi trường hợp khó khăn ác liệt, anh đều kiên quyết dẫn đầu đơn vị
vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đã hai lần bị thương nặng anh vẫn tiếp tục
chiến đấu, chỉ huy đơn vị kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tấm gương Trần Can
đã thiết thực cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công sơi nổi trong tồn đơn vị.
Trong trận đánh đồi Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can được
giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ “Quyết chiến
quyết thắng” của Hồ Chủ tịch giao cho quân đội lên đồn giặc. Khi nổ súng, mặc cho
hoả lực địch bắn ra dữ dội, anh dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên, chọc
thẳng vào sở chỉ huy như một mũi dao nhọn cắm vào giữa tim gan địch, rồi nhẩy lên
lơ cốt cắm cờ. Sau đó, chỉ huy tiểu đội diệt bọn địch còn lại trong hầm ngầm, bắt 25
tên, thu nhiều súng.
Trong trận đánh điểm cao 507, Trần Can đã dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông lên áp
đảo địch, chiếm mỏm cột cờ. Đich bắn pháo dữ dội và cho quân địch chiếm lại. Ta
với địch giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết liệt. Anh đã cùng đồng đội
kiên quyết giữ vững và tiến cơng đánh bại 4 đợt phản kích của chúng. Địch xơng lên
trong đợt cơng kích thứ năm, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi xung phong. Trần
Can nhặt lựu đạn ném lại và chỉ huy đơn vị nhảy lên bờ hào đánh giáp lá cà với địch.
Cán bộ đại đội bị thương vong hết, bản thân Trần Can cũng bị thương, nhưng vẫn
quyết tâm thay thế cán bộ đại đội chỉ huy bộ đội chiến đấu suốt đêm. Sáng hôm sau,
anh tập trung thương binh nhẹ lại, động viên bộ đội, chấn chỉnh tổ chức, củng cố
trận địa. Địch lại phản kích dữ dội, mong đánh bật quân ta, giành lại cửa ngõ tiến
vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị đánh tan đợt pháo kích của chúng, kiên
quyết giữ vững trận địa, tạo thế cho đơn vị tiến vào trung tâm Mường Thanh. Trần
Can đã hy sinh anh dũng sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, ngày kết thúc chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ.
Trang 9
Câu 6:
Thiếu tá Mơ-rit-xơ Bi-gia đã nói “ …Tơi đã thấy tất cả những điều này và tơi
có thể nói với tất cả các vị rằng họ đã trở thành những người lính bộ binh vĩ đại nhất
thế giới …”Anh (Chị) hãy giải thích vì sao? Cho biết câu nói ấy được trích trong
trong tác phẩm nào và nơi xuất bản tác phẩm đó?
Trả lời:
* Thiếu tá Mơ-rít-xơ Bi-gia, người đã có một thời kỳ làm thư ký và từng tham
gia kháng chiến chống sự chiếm đóng của phát xít Đức, đã có kinh nghiệm chiến
trường chín năm liền ở Đông Dương, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ từ lúc xây
dựng cứ điểm đến khi đầu hàng Việt Minh, ông đã chứng kiến sức chiến đấu kiên
cường, dẻo dai và vĩ đại của bộ đội ta qua ký ức của mình.
- Thiếu tá, Tiểu đồn trưởng Mơ-rít-xơ Bi-gia kể lại: “Chúng tơi được cấp trên
cho biết là ở đó khơng có qn Việt Minh. Nhưng chính xác là đã có hai đại đội.
Một vài lính của tơi đã bị bắn chết khi cịn lơ lửng trên khơng trung, số khác thì bị
đâm chết khi chạm đất. Cuộc chiến đấu ác liệt suốt cả ngày. Bốn mươi lính của tơi
đã chết”.
- Tướng Giáp đã ra lệnh thành lập hai đội quân, một đội dân công gồm 200.000
đàn ông, đàn bà và thanh niên làm nhiệm vụ tiếp tế vũ khí, lương thực, thực phẩm và
một đội quân chính quy 50.000 người.
- Quân Pháp đã sớm cảm nhận được sức ép của Việt Minh. Như tướng Nava viết:
“Khi chiếm Điện Biên Phủ, tơi chỉ tính phải đối mặt với hai Sư đoàn, nhưng cuối
cùng là hai Sư rưỡi, rồi ba… Cho tới ngày 20 tháng 12 tôi mới biết được rằng chúng
tơi phải đương đầu với bốn Sư đồn. Vào thời điểm đó đã quá muộn để rút khỏi
Điện Biên Phủ.
- Thời điểm tấn cơng của tướng Giáp theo dự đốn là 17 giờ ngày 13/3 đã đến
nhưng khơng có gì xảy ra. Đại tá Lăng-gơ-le nhớ lại: “Nhưng rồi, gần như là cùng
một lúc, 200 khẩu pháo của tướng Giáp đã nã không lúc nào ngớt vào khu trung tâm
nằm trên cánh đồng bằng phẳng không một vật che chắn trong một tam giác mỗi
chiều 8 kilômét”. Loạt đạn đầu tiên đã giết chết viên chỉ huy pháo binh của khu
trung tâm.
- Trong những giờ đầu tiên, chỉ trên một quả đồi, 500 lính Pháp đã bỏ mạng. Vào
lúc hồng hơn, cả một Sư đồn bộ binh Việt Minh đã xung phong lên cứ điểm Bê-atờ-ri-sơ (Him Lam), gần khu trung tâm nhất. Tới nửa đêm, vị trí này đã trở thành
một nấm mồ. Chỉ có 200 trong số 700 lính đồn trú ở đây thốt chết. Viên chỉ huy
pháo binh, đại tá Sác-lơ Pi-rốt đã tự sát bằng một quả lựu đạn.
- Người pháp đã sáng dần ra. Thiếu tá Mơ-rít-xơ Bi-gia nói: “Tơi thấy lính của tơi
biến mất hết người này đến người khác. Tiểu đoàn 800 người nhảy dù cùng tơi chỉ
cịn lại 700, 600, 400, 300, rồi khoảng 180 và cuối cùng chỉ còn lại 80 người sống
sót”.
- Thiếu tá Mơ-rít-xơ Bi-gia đã bày tỏ sự kính trọng của mình đối với Việt Minh:
“Tơi đã thấy họ khởi sự từ những khẩu súng bất kì như súng săn và sau đó, tháng
này qua tháng khác, họ được tổ chức thành những nhóm nhỏ, rồi từ các nhóm nhỏ
thành trung đội, từ trung đội lên đại đội, từ đại đội lên tiểu đoàn và lữ đoàn và cuối
Trang 10
cùng là thành các sư đồn đủ qn. Tơi đã thấy tất cả những điều này và tơi có thể
nói với các vị rằng họ đã trở thành những người lính bộ binh vĩ đại nhất trên thế
giới. Những người lính dẻo dai này có thể đi bộ 50 cây số trong đêm bằng sức của
một bát cơm, trong những đôi giày ba-ta và hát vang trên đường ra trận. Theo quan
điểm của tơi, họ trở thành những người lính bộ binh ngoại lệ và họ đã đánh bại được
chúng ta”.
* Câu nói ấy được trích trong tác phẩm “Việt Nam – Cuộc chiến 10.000 ngày”
của Michael Maclear, do Nhà xuất bản Thèmes Methuen (Mỹ) xuất bản năm 1991.
Câu 7: những suy nghĩ và tình cảm của Anh (chị) về chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ? Để giữ vững và phát huy tinh thần chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, theo Anh
(chị) hiện nay chúng ta phải làm gì? (Bài viết khơng q 1000 từ)
Trả lời:
Trang 11