Tải bản đầy đủ (.doc) (232 trang)

Con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya (từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1957)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 232 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÝ TƯỜNG VÂN
CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH
GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA MALAYA
TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1957
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH LỊCH SỬ
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÝ TƯỜNG VÂN
CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH
GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA MALAYA
TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1957
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới cận đại và hiện đại
Mã số: 62.22.50.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TSKH. Trần Khánh
2. TS. Vũ Công Quý
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan: Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả và số liệu được nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận
của Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả Luận án


Lý Tường Vân
Lời cảm ơn


Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TSKH. Trần
Khánh, TS. Vũ Công Quý - hai người thầy trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện
Luận án và GS. Vũ Dương Ninh - người thầy không chỉ ủng hộ ý tưởng khoa học
của tôi ngay từ những ngày đầu tôi lựa chọn đề tài này mà còn chia sẻ với tôi
các tư liệu nghiên cứu liên quan đến Luận án, cùng nhiều thầy cô giáo khác đã
cho tôi những góp ý quí báu về chuyên môn.
Chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp ở Khoa Lịch
sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện Nghiên cứu Đông Nam
Á - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Khoa Sử học - Học viện Khoa học
Xã hội đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Viện Nghiên cứu Châu Á (Asia
Research Institute) - Đại học Quốc gia Singapore (National University of
Singapore) đã cho tôi cơ hội được đến học tập và nghiên cứu tại Singapore và
Malaysia. Tại hai đất nước này, những cơ quan tôi đến làm việc như Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á (Institute of Southeast Asian Studies), Lưu trữ Quốc
gia Singapore (National Archives of Singapore), Thư viện Quốc gia Singapore,
Thư viện Đại học Quốc gia Singapore và Lưu trữ Quốc gia Malaysia (Arkib
Negara - National Archives of Malaysia)… đã luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho tôi, giúp tôi hoàn thành bản Luận án này.
Quĩ Sumitomo là nơi tôi được hợp tác trong các năm 2011-2012, không
chỉ cho phép tôi được trao đổi về chuyên môn khi thực hiện Đề tài “The
Japanese occupation of Malaya (1941-1945) and its impact on the development
of Malay political consciousness” mà nguồn tài trợ của Quĩ đã cho tôi điều kiện
tài chính để tôi có thể thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu thực địa của mình tại
Malaysia và Singapore.
Tôi gửi tới gia đình và bạn bè lời biết ơn sâu sắc nhất về mọi sự cảm
thông, sẻ chia và khích lệ.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ……………………………………………… i
DANH MỤC BẢN ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU ………………………………… ii
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………… 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ………………
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước …………………………………
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài …………………………………
Nhận xét
10
10
14
25
Chương 2: MALAYA DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THỰC DÂN CỦA ANH
(CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX)
27
2.1. Từ Vương quốc Hồi giáo Malacca đến thuộc địa Malaya của Anh 27
2.1.1. Hồi quốc Malacca và những thế kỉ đầu tiếp xúc với phương Tây (1400-1786)
……………………………………………………………
27
2.1.2. Malaya trở thành thuộc địa của Anh (1786-1914) ………… 31
2.1.2.1. Thành lập Khu định cư Eo biển (Straits Settlements) ……………… 32
2.1.2.2. Quá trình mở rộng can thiệp vào các tiểu quốc Malay và củng cố chế độ cai
trị ở Malaya …………………………………… 33
2.2. Tác động của chính sách thực dân của Anh ở Malaya………………. 40
2.2.1. Biến đổi cơ cấu kinh tế với vai trò chủ thể của ngoại kiều ……………… 40
2.2.2. Hình thành xã hội đa tộc người và các nguyên nhân mâu thuẫn tộc người 43
2.2.3. Sự phát triển của đội ngũ trí thức người Malay ………………………. 47
2.2.4. Sự phát triển của báo chí bản địa ……………………………………… 53
Tiểu kết chương 2 …………………………………………………………. 56
Chương 3: PHONG TRÀO DÂN TỘC CỦA NGƯỜI MALAY TRONG NHỮNG NĂM
GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI ……………… 58

3.1. Những yếu tố tác động ………………………………………………… 59
3.2. Phong trào cải cách dưới sự dẫn đường của đội ngũ trí thức tôn giáo 64
3.3. Nhóm trí thức chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Anh và phong trào đấu
tranh vì “Quyền đặc biệt” của người Malay .………… …… 69
3.4. Phong trào dân tộc dưới sự lãnh đạo của nhóm trí thức cấp tiến … 75
Tiểu kết chương 3 …………………………………………………………… 83
Chương 4: CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA MALAYA (TỪ
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II ĐẾN NĂM 1957)
8
5
4.1. Tác động của giai đoạn Nhật Bản chiếm đóng Malaya (1942-1945) … 85
4.1.1. Tầm quan trọng của Malaya trong chiến lược Đại Đông Á của Nhật Bản …. 85
4.1.2. Chính sách Quân sự hóa và Nhật Bản hóa xã hội Malaya …………… 86
4.1.2.1. Chính sách Quân sự hóa xã hội Malaya ……………………………… 86
4.1.2.2. Nhật Bản hóa xã hội Malaya thông qua các chính sách văn hóa, giáo dục
……………………………………………………………… 88
4.1.3. Sự chuyển biến ý thức chính trị của người Malay …………………. 90
4.2. Malaya ngay sau Chiến tranh thế giới II: Chính sách của Anh và tình
trạng phân cực của nền chính trị Malaya ………………… 96
4.2.1. Bối cảnh quốc tế thời hậu chiến ………………… 96
4.2.2. Từ “Liên hiệp Malaya” đến “Liên bang Malaya” và vai trò của Tổ chức Dân tộc
Thống nhất Malay ………………………………………… 97
4.2.3. Đảng Cộng sản Malaya và “Tình trạng Khẩn cấp” ………………… 107
4.2.4. Đảng Dân tộc Malay và sự kết thúc lý tưởng “Indonesia Raya” …… 110
4.3. Đảng Liên minh đấu tranh giành độc lập dân tộc 115
4.3.1. Quan điểm mới trong chính sách thuộc địa Malaya của chính quyền Anh từ cuối
thập niên 1940 .……………………………… 115
4.3.2. Từ những thử nghiệm với ý tưởng “phi cộng đồng” đến sự hình thành Liên minh
UMNO - MCA - MIC ……………………………………… 119
4.3.2.1. Cuộc thử nghiệm trên quan điểm của người Anh với “Ủy ban Liên lạc các

cộng đồng” ………………………………………………… 121
4.3.2.2. Cuộc thử nghiệm trên quan điểm của người Malay với “Tổ chức Dân tộc
thống nhất Malay” và “Đảng Malaya Độc lập” ………… 122
4.3.2.3. Hình thành Liên minh UMNO - MCA - MIC … 123
4.3.3. Đảng Liên minh đàm phán độc lập ………………………………… 130
4.4. Một số nhận xét ……………………………………………………… 137
4.4.1. Về phhía thực dân Anh ………………………………………………. 137
4.4.2. Về phía người Malay/Malaya…………………………………………. 138
4.4.3. Về sự lựa chọn khác nhau các con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc 140
KẾT LUẬN 146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 167
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
API - Angkatan Pemuda Insaf (Youth for
Justice Corps)
Đội quân thanh niên vì công lý
BMA - British Military Administration Chính quyền quân sự Anh
CLC - Communities Liaison Committee Ủy ban Liên lạc các cộng đồng
EIC - British East India Company Công ty Đông Ấn Anh
FMS (Federation of Malay States) Liên bang các bang Malay
HĐLPLB Hội đồng Lập pháp Liên bang
IMP - Independence of Malaya Party Đảng Malaya Độc lập
KMM - Kesatuan Malayu Muda (The Union
of Malay Youths)
Liên hiệp Thanh niên Malay
KMS - Kesatuan Melayu Singapura Hiệp hội người Malay Singapore
KMT - Koumintang Malaya Quốc Dân Đảng (Malaya)
MCA - Malayan Chinese Association) Hiệp hội người Hoa Malaya
MCP - Malayan Communist Party Đảng Cộng sản Malaya

MIC - Malayan Indian Congress Đại hội Ấn kiều Malaya
MMA - Malayan Military Administration Chính quyền quân sự Malaya
MNP - Malay National Party Đảng Dân tộc Malay
MPAJA - Malayan People’s Anti-Japanese
Army
Quân đội nhân dân Malaya kháng
Nhật
NAM – National Archives of Malaya Lưu trữ Quốc gia Malaya
NAS - National Archives of Singapore Lưu trữ Quốc gia Singapore
PETA - Pembela Tanahair (Defenders of the
Motherland)
Đội quân bảo vệ đất mẹ
PNI - Parti Nasional Indonesia Đảng Dân tộc Indonesia
SITC - Sultan Idris Training College Trường Cao đẳng Sư phạm Sultan
Idris
SS - Straits Settlements Khu định cư Eo biển
UMNO - United Malays National
Organization
Tổ chức Dân tộc Thống nhất
Malay
UMS - Un-Federated Malay States Các bang Malay ngoài Liên bang
VOC - Vereenigde Oostindische Compagnie Công ty Đông Ấn Hà Lan
DANH MỤC BẢN ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Trang
Bản đồ Liên bang Malaysia ngày nay iii
Bản đồ Malaya thời kì thuộc Anh iv
Eo Malacca trên tuyến đường buôn bán Quốc tế 168
Quá trình bành trướng thuộc địa của Anh ở bán đảo Malaya (1786 - 1914) 169
Bảng 2.1: Số liệu Người Hoa ở Malaya 170
Bảng 2.2: Dân số Malaya thuộc Anh năm 1931 171

Bảng 2.3: Tương quan dân số giữa các cộng đồng tộc người ở UMS 172
Bảng 2.4: Tỉ lệ người Malay và người Hoa, người Ấn ở UMS (%) 172
Bảng 2.5: Số liệu phản ánh tình hình kinh tế ở các bang UMS 173
Bảng 2.6: Số lượng trường Malay ở Liên bang các bang Malay (1901 - 1931) 173
Bảng 2.7: Tổng số học sinh được tuyển vào các trường Anh ở FMS 174
Bản đồ Liên bang Malaysia ngày nay
Bản đồ Malaya thời kì thuộc Anh
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình lịch sử của Malaya/Malaysia dường như chịu ảnh hưởng bởi yếu
tố địa lý mạnh hơn bất cứ yếu tố nào khác, đặc biệt dưới thời kì cận đại của lịch
sử thế giới. Với eo Malacca giữ vị trí địa chiến lược trên con đường hàng hải từ
Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, vương quốc Malacca nhanh chóng được
hình thành và phát triển thành một trung tâm thương mại xuất nhập khẩu hàng
đầu thế giới với các nguồn thương phẩm đặc biệt hấp dẫn. Tuy nhiên, chính sự
hấp dẫn đó lại là lý do khiến cho bán đảo Malaya được ví như một “cánh cửa
quay”
1
của những cuộc “đến” rồi “đi” của nhiều thực dân trong suốt hơn 4 thế
kỉ. Có thể so sánh điều này với một số quốc gia khu vực: Trong khi Inđônêsia chỉ
là thuộc địa của Hà Lan, Đông Dương luôn là thuộc địa của Pháp, Mianma và Ấn
Độ là các thuộc địa của Anh trong nhiều thế kỉ, Philippin trở thành thuộc địa của
Mĩ cho đến khi độc lập hoàn toàn sau 300 năm dưới ách thống trị của Tây Ban
Nha, thì trường hợp Malaya có thể được xem như là một ngoại lệ. Bồ Đào Nha là
thực dân châu Âu đầu tiên bước vào “cánh cửa” này vào năm 1511, cai trị
Malacca trong suốt 130 năm. Hà Lan thay thế Bồ Đào Nha ở Malacca từ năm
1641. Năm 1795, nhân cơ hội được tạm quyền sở hữu Malacca, Anh đã tiến lên
loại bỏ hoàn toàn quyền lực Hà Lan ra khỏi bán đảo. Hiệp ước Anh - Hà Lan năm
1824 phân “thế giới Malay” ra thành Inđônêsia thuộc Hà Lan và bán đảo Malaya
thuộc Anh. Hơn 130 năm tiếp theo, Malaya tồn tại dưới cái tên “Malaya thuộc

Anh” - “British Malaya”.
Nhận thức đầu tiên về Malaysia là nhận thức như thế về lịch sử đầy biến
động của vùng bán đảo ở thời kì cận đại, nhưng khi bắt tay vào nghiên cứu đất
nước này từ năm 2002, tôi lại lựa chọn những vấn đề hiện đại: cho Luận văn
Thạc sĩ là Chính sách Kinh tế mới và vấn đề hòa hợp dân tộc ở Malaysia (1971-
1990), cho hai đề tài nghiên cứu khoa học (cấp Trường là Vấn đề Hồi giáo trong
chính sách dân tộc của Malaysia (1957-2000) và cấp Đại học Quốc gia vẫn với
vấn đề nghiên cứu trên nhưng thời gian nghiên cứu được kéo dài từ 1957 đến
2010). Mặc dù luôn nhận được sự đánh giá cao đối với các kết quả nghiên cứu
nhưng bản thân tôi vẫn chưa thực sự thỏa mãn bởi cảm giác chưa đi đến tận cùng
của vấn đề khi giải quyết mối liên hệ giữa xã hội Malaysia hiện đại với xã hội
1
“revolving door” - từ dùng của Henri P. Frei trong “Malaya in World War II - The Revolving Door of
Colonialism” />Malaya truyền thống, di sản từ quá khứ, nhất là quá khứ thuộc địa đã tác động ở
mức độ nào đối với xã hội đương đại Malaysia.
2
Đó là lý do ban đầu nhất đưa tôi
ngược trở lại tiến trình lịch sử của Malaysia, lựa chọn giai đoạn “thuộc Anh” của
Malaysia làm vấn đề nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ của mình.
Mặt khác, trong các nội dung của giai đoạn thuộc địa, tôi lại lựa chọn vấn
đề con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc - một vấn đề bấy lâu nay không dễ
lý giải ngay cả với chính người Malaya và do đó vấn đề này ở Việt Nam vẫn
chưa được nhìn nhận, đánh giá đúng với bản chất của nó mà thường bị gộp vào
với các phong trào có nhiều điểm tương đồng. Hơn thế, “Ý chí luận” một thời
khiến chúng ta máy móc khi cho rằng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể giành độc
lập thực sự khi nó thông qua con đường đấu tranh bạo lực do giai cấp vô sản lãnh
đạo. Sẽ bị cho là không triệt để hoặc tiếp tục phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản nếu
phong trào dân tộc diễn ra dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản và đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Nay, quan điểm của chúng ta đang ngày càng khách
quan hơn. Trên cơ sở đó, phải thừa nhận rằng giải phóng dân tộc gắn với cách

mạng vô sản là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với bối cảnh Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX, nhưng đó không phải là con đường chung cho tất cả các dân tộc thuộc địa.
Con đường đi đến độc lập của Malaya như đã được thừa nhận bấy lâu nay là con
đường dân chủ tư sản, con đường đấu tranh ôn hòa. Nhưng đó mới chỉ là xét về
hình thức, xét về mặt bản chất, xã hội Malaya có rất nhiều lý do chi phối quá
trình lựa chọn và tiến hành con đường đấu tranh của mình nhưng lại chưa được
làm sáng tỏ. Bởi vậy, vấn đề này nên được nghiên cứu, lý giải.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh cả nhân loại tiến bộ đang lấy thập kỉ 2011-2020 là thập kỉ
quốc tế thứ ba loại trừ chủ nghĩa thực dân
3
theo tuyên bố của Ủy ban Chính trị
2
Chính Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohammad trong The Malay Dilemma (tạm dịch là Thế tiến thoái
lương nan của người Malay) được xuất bản ngay sau cuộc xung đột giữa hai dân tộc Malay - Hoa lớn
nhất trong lịch sử Malaysia tháng 5/1969, ông đã đổ lỗi cho các chính sách thực dân của Anh trong thời kì
thuộc địa là căn nguyên của tình trạng xã hội hiện tại của Malaysia.
3
Khóa họp này thông qua 12 Nghị quyết về Phi thực dân hóa, kêu gọi các nước thành viên Liên Hợp Quốc
tăng cường các biện pháp tập thể, thúc đẩy các bên có liên quan nỗ lực hành động để kết thúc tiến trình phi
thực dân hoá đối với các vùng lãnh thổ còn lại trên thế giới hiện vẫn là thuộc địa hay nằm dưới quyền ủy trị của
các nước khác.

Như vậy, dù đã qua hơn hai thập kỉ quốc tế nỗ lực thực hiện phi thực dân hóa nhưng tiến trình
xem ra vẫn rất trì trệ nếu so sánh với khoảng thời gian gần 5 thập kỉ trước (từ năm 1961 đến năm 2009) với
khoảng 750 triệu người trên 80 vùng lãnh thổ một thời là thuộc địa đã giành được độc lập, được hưởng các
quyền tự do và tự quyết chính đáng. Theo www.vietnamplus.vn/Home/LHQ-thong-qua-12-nghi-quyet-ve-
chu-nghia-thuc-dan/201010/64078.vnplus và www.vietnamplus.vn/Home/Can-ket-thuc-nhanh-qua-trinh-
phi-thuc-dan-hoa/200910/20057.vnplus
và Phi thực dân hóa tại phiên họp thứ 65 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm

2010, đứng từ góc độ lịch sử có thể nhận thấy tầm quan trọng của việc đặt lại
những vấn đề liên quan đến chủ nghĩa thực dân, quá trình thực dân hóa, phi thực
dân hóa, hay vấn đề đấu tranh giành độc lập dân tộc - những vấn đề tưởng như là
rất cũ nhưng đến nay vẫn có tính thời sự và ý nghĩa khoa học. Cũng khoảng năm
2007, 2008 Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam trong chương trình biên soạn bộ Lịch sử Đông Nam Á đã triển khai Đề tài
“Đông Nam Á trong thời kì thuộc địa và phong trào đấu tranh giành độc lập (từ
cuối thế kỉ XVI đến năm 1945)”. Nhìn chung, các tác giả và các nhà thẩm định
đề tài đều có chung một nhận định: thời kỳ thuộc địa của Đông Nam Á là thời kì
hết sức quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử khu vực bởi nó không chỉ gắn
với các mối quan hệ quốc tế trong quá khứ, hiện tại và tương lai mà nó còn gắn
với nhiều vấn đề có tầm ảnh hưởng lớn, thậm chí tác động và chi phối trực tiếp
đến đặc điểm và khuynh hướng phát triển của từng quốc gia trong khu vực.
Hơn nữa, trong thời kì thuộc địa của Đông Nam Á, Malaya lại được coi là
một trường hợp khá đặc biệt bởi vì người ta vẫn thường cho rằng, trước Chiến
tranh thế giới II “người Malay là tộc người ít quan tâm đến chính trị nhất trong số
các tộc người ở Đông Nam Á”. [34, tr.1182] Ở Malaya hoàn toàn không có khái
niệm “người Malaya” mà chỉ có “người Malay”, “người Hoa” và “người Ấn
Độ”, ngay bản thân “người Malay” cũng không thể tồn tại với tư cách là một
cộng đồng thống nhất, do đó cũng không tồn tại khái niệm “quốc gia Malaya”
mà chỉ có các tiểu quốc của người Malay (sau này là các bang Malay), mà nếu có
(vào cuối thập niên 1930) thì nó cũng chỉ được hiểu là “quốc gia của người
Malay”. Tình hình đó đưa đến một cảm quan chung là “chẳng có gì thực sự đáng
chú ý xảy ra ở Malaya cho đến tận năm 1945” hay phong trào dân tộc của người
Malay trước Chiến tranh thế giới II “mới chỉ ở giai đoạn phôi thai”. [172, tr.xvi]
Tuy nhiên, chỉ chưa đầy một năm sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, người
ta lại thấy “Anh đang phải đối mặt với sức mạnh đoàn kết toàn diện chưa từng
thấy của người Malay”. [87, tr.18-19] Lại tiếp tục được coi là đặc biệt nếu so
sánh với một số thuộc địa khác ở Đông Nam Á. Trong công trình chuyên khảo A
Modern History of Southeast Asia: Decolinization, Nationalism and Separatism,

Clive Christie chỉ ra rằng, trong số các quốc gia Đông Nam Á lục địa, 3 nước chủ
yếu Thái Lan, Mianma, Việt Nam ngay từ thời kì tiền thuộc địa mặc dù đều chịu
ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo từ bên ngoài nhưng cả ba đều có ý thức độc lập
mãnh liệt. Mianma và Việt Nam cùng được thừa hưởng một quốc gia hùng mạnh
và một bản sắc dân tộc, tôn giáo rõ ràng - những yếu tố cần thiết để tạo nên nền
tảng cho các phong trào dân tộc hiện đại hình thành ở Mianma và Việt Nam vào
đầu thế kỉ XX. [87, tr.7] Tuy nhiên, cả hai nước này - một là thuộc địa của Anh,
một là thuộc địa của Pháp - đều phải tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, thậm chí
với Việt Nam là rất lâu dài và gian khổ mới có thể tiến đến nền độc lập và toàn
vẹn lãnh thổ. Ở vùng Đông Nam Á hải đảo, ý thức độc lập dân tộc của Inđônêsia
đã xuất hiện ngay từ thập niên đầu tiên của thế kỉ XX và luôn là mục tiêu cao
nhất của tất cả các phong trào dù dưới ảnh hưởng của trào lưu vô sản hay dân chủ
tư sản. Mặc dù vậy, Inđônêsia vẫn phải trải qua một chặng đường dài gần nửa thế
kỉ mới đạt được nền độc lập. Với trường hợp Malaya, tính đến thời điểm ngay
sau Chiến tranh thế giới II kết thúc, độc lập dân tộc chưa bao giờ là mối quan tâm
sâu sắc của người bản địa Malay dù dưới sự thống trị của bất kì thực dân nào -
Bồ Đào Nha, Hà Lan hay Anh (ngoại trừ tư tưởng cấp tiến của nhóm trí thức
bình dân Malay từ cuối những năm 1930). Vậy mà, “Quá trình tiến đến độc lập
của Liên bang Malaya chưa kể đến những tiến bộ kinh tế sau đó, là nhanh nhất so
với bất cứ lãnh thổ phụ thuộc nào ở thời kì hậu chiến” [34, tr.1247]. Thực tế đó
khiến người ta phải kinh ngạc “Tại sao người Malay có thể giành được độc lập
nhanh đến như vậy” vào năm 1957? [163, tr.133-134] Cũng có nhiều câu hỏi
được đặt ra với cá nhân tôi: Có phải Malaya đã có được nền độc lập từ con số 0:
không khát vọng độc lập, không đoàn kết lực lượng dân tộc, nghĩa là nền độc lập
của Malaya năm 1957 đơn giản chỉ là sự “trao trả” của thực dân Anh như bấy lâu
nay nó vẫn được thừa nhận? Hoặc đã có một “phép màu” chuyển biến chỉ diễn ra
trong vòng 12 năm? Hay Malaya phải trải qua một chặng đường chuyển biến dài
hơn thế nhưng lại không dễ quan sát hoặc chưa quan sát được? Việc nghiên
cứu, phân tích để làm sáng tỏ những vấn đề vừa nêu bằng hiện thực của lịch sử
xã hội Malaya sẽ làm nên ý nghĩa khoa học của đề tài Luận án.

Cũng quan trọng không kém khi chúng tôi quyết định chọn đề tài “Con
đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya từ cuối thế kỉ XIX đến năm
1957” vì thực tế ở Việt Nam cho đến nay còn rất thiếu vắng những công trình
nghiên cứu về Malaysia nói chung, càng thiếu vắng những nghiên cứu chuyên
sâu các vấn đề liên quan đến lịch sử chính trị của Malaysia. Chúng tôi hy vọng
đề tài này sẽ bù đắp phần nào khoảng trống nghiên cứu đó.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu về con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya,
chúng tôi mong muốn đưa đến nhận thức toàn diện hơn về một nội dung trọng
tâm của thời kì có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử của mỗi quốc gia-dân
tộc cũng như của cả khu vực. Bằng cách tiếp cận lịch sử và xã hội học lịch sử,
chúng tôi muốn làm sáng tỏ quá trình định hình một con đường trong cuộc đấu
tranh giành độc lập của Malaya. Đề tài luận giải con đường mà Malaya đã lựa
chọn là con đường không hoàn toàn dựa trên một học thuyết chính trị quốc tế cụ
thể nào mà được căn cứ trên các đặc tính quốc gia, dân tộc, tôn giáo của đất nước
Malaya. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu trường hợp Malaya, đề tài muốn góp thêm
vào sự đa dạng các con đường đi đến độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa và
phụ thuộc ở khu vực và trên thế giới.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Trong trường hợp Malaya, để lý giải con đường đấu tranh giành độc lập dân
tộc rất cần phải xem xét những yếu tố chi phối tình cảm dân tộc, sự hình thành,
phát triển của ý thức quốc gia-dân tộc không chỉ của các cộng đồng nhập cư mà
của cả người bản địa Malay, do đó cũng chi phối sự phát triển của chủ nghĩa dân
tộc Malay/Malaya và đương nhiên chi phối sự lựa chọn hay cách thức tiến hành
con đường đấu tranh giành độc lập ở đất nước này. Các yếu tố đó gồm đặc tính
đa cộng đồng (cộng đồng bản địa và các cộng đồng nhập cư), sự tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa cộng đồng, yếu tố đa đảng phái chính trị và đặc tính tâm lý
dân tộc-tôn giáo của người Malay Hồi giáo.
- Về sử dụng thuật ngữ: Luận án sử dụng “Malaya” hay “Malaysia” trong phần

Mở đầu và Tổng quan theo đúng tên gọi của đất nước trong từng giai đoạn lịch
sử để tiện cho việc theo dõi. Trong phần nội dung, Luận án sử dụng “Malaya” là
tên gọi của đất nước trong suốt thời kì thuộc Anh. Thuật ngữ “người Malay” chỉ
cộng đồng người Malay bản địa để phân biệt với hai cộng đồng nhập cư là
“người Hoa” và “người Ấn Độ”. Luận án sử dụng thuật ngữ “người Malaya” với
nghĩa bao gồm toàn bộ người dân sinh sống ở đất nước Malaya.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: “Malaya thuộc Anh” có giới hạn địa lý là toàn bộ phần phía
Tây của lãnh thổ Malaysia ngày nay.
- Về thời gian: Khung thời gian nghiên cứu của đề tài Luận án là từ cuối thế kỉ
XIX - khi thực dân Anh hoàn thành về cơ bản quá trình bành trướng thuộc địa ở
bán đảo Malaya đến năm 1957 là năm Malaya tuyên bố độc lập.
- Về phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Đề tài phân tích quá trình định hình một con đường đấu tranh giành độc lập
của Malaya thông qua sự vận động, phát triển của các yếu tố đặc thù trong xã hội
Malaya như đã nêu ở trên, qua đó chỉ ra khả năng tối ưu của con đường được lựa
chọn trong việc đáp ứng các yêu cầu thực tiễn của đất nước Malaya và của hoàn
cảnh lịch sử. Trong quá trình đó, một số vấn đề và nội dung có liên quan được
đặt trong mối liên hệ với Inđônêsia - quốc gia trong cùng “thế giới Malay”, “thế
giới Hồi giáo” và có nhiều tác động trực tiếp với Malaya. Vấn đề so sánh giữa
các con đường đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa đòi hỏi phải hết
sức thận trọng vì như học giả D.G. Hall trong phần nghiên cứu về phong trào dân
tộc ở Đông Nam Á đã cho rằng “khó có thể so sánh giữa các phong trào khác
nhau và khái quát hóa sẽ rất nguy hiểm” [34, tr.1043]. Chúng tôi cũng cho rằng
không đơn giản chỉ là trả lời các câu hỏi chủ nghĩa thực dân là ai, chính sách cai
trị như thế nào, trên cơ sở đó các dân tộc thuộc địa đã lựa chọn con đường đấu
tranh ra sao, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các lực lượng dân
tộc, sự chi phối của các yếu tố tộc người, truyền thống lịch sử-văn hóa, tôn
giáo… cũng là những lý do quan trọng góp phần vào sự định hình con đường đấu
tranh và cách thức tiến hành con đường đấu tranh giành độc lập. Bởi vậy trong

khuôn khổ của Luận án này, chúng tôi bước đầu phân tích những yếu tố trên đối
với sự lựa chọn khác nhau các con đường đấu tranh giành độc lập của một số
trường hợp rất điển hình chứ chưa phải là tất cả. Những nghiên cứu toàn diện
hơn đối với vấn đề này chắc chắn sẽ là hướng nghiên cứu trong tương lai của tác
giả Luận án.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trước hết, phương pháp nghiên cứu tư liệu là phương pháp không thể thiếu
trong nghiên cứu lịch sử. Phương pháp này được triển khai để thu thập và xử lý
nguồn tài liệu lưu trữ, phân tích các tài liệu tham khảo liên quan đến đề tài Luận
án. Thông qua việc tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu, các bước phân tích tài liệu
được tiến hành để nhận diện quan điểm của người nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu, nội dung vấn đề nghiên cứu (đã nghiên cứu đến đâu, đâu là “khoảng
trống” cần được nghiên cứu thêm…).
Thứ hai, vì đây là một đề tài lịch sử nên phương pháp lịch sử được tôn trọng
và được sử dụng để phân tích mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử (cả đồng đại và
lịch đại). Nghiên cứu và luận giải các vấn đề thông qua các sự kiện cụ thể trong
quá trình lịch sử cũng đòi hỏi phải tuân theo trật tự logic chặt chẽ và mang tính
liên kết. Để hỗ trợ cho việc phân tích các nội dung nghiên cứu, chúng tôi có sử
dụng một số phương pháp bổ trợ như phương pháp thống kê, so sánh. Ngoài ra,
phương pháp nghiên cứu liên ngành dân tộc học và xã hội học văn hóa cũng
được sử dụng trong một số phân tích về chính sách cách ly tộc người, tình trạng
tộc người, mâu thuẫn tộc người hay chủ nghĩa cộng đồng… ở Malaya.
Thứ ba, để nghiên cứu con đường đấu tranh giành độc lập của Malaya,
chúng tôi không thể không dựa trên cách tiếp cận hệ thống bởi phải đặt Malaya
trong bối cảnh chung khu vực và quốc tế, phải đặt Malaya trong “thế giới
Malay”, “thế giới Hồi giáo”, lại vừa phải xem xét đối tượng này trong “chính nó”
chúng tôi mới có điều kiện để nhận diện và phân tích mọi khía cạnh của vấn đề
nghiên cứu và trả lời các câu hỏi nghiên cứu đã nêu. Như thế, phương pháp cấu
trúc cũng được vận dụng trong nghiên cứu đề tài Luận án.
5. Nguồn tài liệu

Nguồn tài liệu gốc chúng tôi tiếp cận và khai thác từ các cơ quan Lưu trữ
quốc gia của Malaysia và Singapo. Đó là những tài liệu chính thức được công bố
bởi Bộ Thuộc địa, Bộ Quốc phòng, Chính quyền Hoàng gia Anh, bên cạnh đó là
những tài liệu được công bố bởi chính quyền Liên hiệp Malaya (1946-1948), và
chính quyền Liên bang Malaya (1948-1957). Nguồn tài liệu này gồm các báo cáo
(Official Report), các kế hoạch/dự thảo kế hoạch (Proposal), dự luật (Bill), bài
phát biểu (Speech) hoặc điện tín (Telegram), tài liệu về các cá nhân và các tổ
chức chính trị (Papers). Chúng tôi cũng sử dụng những tư liệu lưu trữ được xuất
bản dưới dạng Documentary Collection. Qua đó, tác giả có điều kiện được tham
khảo khối tài liệu lưu trữ của Lưu trữ Quốc gia Anh trong Bitish documents on
the end of Empire: Malaya [173] do A.J. Stockwell tập hợp và biên soạn.
Ngoài nguồn tài liệu lưu trữ, các tài liệu khác được sử dụng trong Luận án
gồm các sách chuyên khảo, chuyên luận, luận án tiến sĩ, các bài nghiên cứu đăng
trên các tạp chí chuyên ngành ở hai khối ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Bên
cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng một số tờ báo bằng tiếng Anh ở Malaya như
Malay Mail, Straits Times và Syonan Sinbun.
6. Đóng góp của đề tài Luận án
- Luận án phân tích sự chuyển biến ý thức chính trị của người Malay qua các
lần tác động (lần thứ nhất của chính sách thực dân của Anh và lần thứ hai của
giai đoạn chiếm đóng của phát xít Nhật), đồng thời làm rõ sự phát triển của nội
dung dân tộc chủ nghĩa trong các phong trào dân tộc của người Malay ở giai
đoạn trước và sau Chiến tranh thế giới II.
- Phân tích quá trình phát triển ý thức quốc gia-dân tộc Malaya trong bối
cảnh chịu sự chi phối sâu sắc của chủ nghĩa cộng đồng, qua đó làm rõ vai trò
chính trị của các Đảng cộng đồng của người Malay và người Hoa trong trạng thái
phân cực của nền chính trị Malaya. Sự phát triển ý thức quốc gia-dân tộc Malaya
chính là nền tảng của sự hợp tác giữa các Đảng cộng đồng và giữa quần chúng
của các cộng đồng. Đó cũng đồng thời quá trình định hình dần một con đường
trong cuộc đấu tranh giành độc lập của người Malaya.
- Phân tích con đường hướng đến nền độc lập của Malaya sau Chiến tranh thế

giới II luôn được đặt trong các mối quan hệ: ở cấp độ quốc tế là cục diện 2 cực
và chiến tranh lạnh; ở cấp độ quốc gia là sự suy giảm vị thế quốc tế của Anh và
những điều chỉnh chính sách để thích nghi với những chuyển biến mới ở thuộc
địa Malaya; ở cấp độ địa phương (bản thân thuộc địa) là sự trưởng thành vượt
bậc về chính trị của người Malaya được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Liên
minh với UMNO làm nòng cốt và sự đóng góp rất có ý nghĩa của hai Đảng thành
viên (của cộng đồng người Hoa là Hiệp hội người Hoa Malaya - MCA và của
cộng đồng người Ấn Độ là Đại hội Ấn kiều Malaya - MIC).
- Khẳng định con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc mà Malaya là con
đường không hoàn toàn dựa trên một học thuyết chính trị quốc tế cụ thể nào mà
căn cứ trên các đặc tính quốc gia, dân tộc, tôn giáo của đất nước Malaya. Nền
độc lập của Malaya do đó không phải là “món quà” do thực dân Anh trao tặng
như nó vẫn thường được hiểu mà là thành quả đầy ý nghĩa của sự đoàn kết, thống
nhất giữa các đảng phái chính trị và giữa các cộng đồng dân tộc ở Malaya.
7. Bố cục của Luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận án gồm 4 chương chính:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề. Qua việc hệ thống hóa
tư liệu nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước liên quan đến đề tài Luận án,
chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá tư liệu trên các phương diện về cách tiếp
cận, phương pháp nghiên cứu, nội dung nghiên cứu, những giá trị tham khảo đối
với đề tài Luận án, khoảng trống trong các nghiên cứu… trên cơ sở đó xây dựng
những luận cứ chặt chẽ cho việc đi sâu phân tích những vấn đề nghiên cứu mà
Luận án đặt ra.
Chương 2. Malaya dưới tác động của chính sách thực dân của Anh (cuối
thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX). Bắt đầu với phần 2.1. “Từ Vương quốc Hồi giáo
Malacca đến thuộc địa Malaya của Anh”, chúng tôi làm rõ: sự khởi đầu vững
chắc của Malaya từ thời vương quốc Malacca và những thế kỉ đầu tiếp xúc với
thực dân phương Tây, quá trình can thiệp, mở rộng can thiệp, tiến đến xác lập
chế độ cai trị của Anh ở Malaya. Phần 2.2. “Tác động của chính sách thực dân
của Anh ở Malaya” phân tích bốn tác động mà chúng tôi cho là có mối liên quan

trực tiếp nhất đến sự hình thành và phát triển của phong trào dân tộc của người
Malay cũng như liên quan tới quá trình lựa chọn con đường đấu tranh giành độc
lập dân tộc của Malaya. Bốn tác động đó gồm: biến đổi cơ cấu kinh tế với vai trò
chủ thể của ngoại kiều, hình thành xã hội đa tộc người và các nguyên nhân mâu
thuẫn tộc người, sự phát triển của đội ngũ trí thức người Malay và báo chí bản
địa.
Chương 3. Phong trào dân tộc của người Malay trong những năm giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới: phân tích các nhân tố khách quan và chủ quan tác động
tới phong trào dân tộc của người Malay, phân tích ba phong trào dưới sự lãnh
đạo của ba nhóm trí thức là sản phẩm của ba dòng giáo dục gồm đội ngũ trí thức
tôn giáo, đội ngũ trí thức chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Anh và đội ngũ trí
thức được đào tạo bởi nền giáo dục bản địa. Chúng tôi cố gắng chỉ ra những các
yếu tố đã chi phối nội dung dân tộc chủ nghĩa của các phong trào (như yếu tố tôn
giáo và đặc tính tâm lý dân tộc-tôn giáo, yếu tố đa cộng đồng và chủ nghĩa cộng
đồng) tạo điều kiện nhận diện chiều hướng phát triển chính trị, cũng là cơ sở để
định hình con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya ở giai đoạn sau.
Chương 4. Con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya (từ sau
Chiến tranh thế giới II đến năm 1957) được luận giải theo 2 hướng: (1). Về phía
người Malay là sự chuyển biến ý thức chính trị dưới tác động của giai đoạn Nhật
Bản chiếm đóng, là sự khẳng định vai trò của UMNO trong cuộc cạnh tranh với
các lực lượng chính trị-xã hội ở Malaya giai đoạn hậu chiến, đồng nghĩa với việc
khẳng định một con đường đấu tranh có khả năng tối ưu nhất trong việc đáp ứng
các yêu cầu của lịch sử và tình hình thực tiễn của đất nước để tiến tới mục tiêu
độc lập; (2). Về phía thực dân Anh là quá trình điều chỉnh chính sách để thích
ứng với những hoàn cảnh mới sau Thế chiến II, song điều đáng nói là, sự điều
chỉnh chính sách của Anh chịu tác động rất lớn từ một UMNO ngày càng trưởng
thành và sức mạnh chính trị của Đảng Liên minh được củng cố bởi các Đảng
cộng đồng của người Malay, người Hoa và người Ấn. Kết quả của sự đoàn kết
thống nhất giữa các Đảng cộng đồng và quần chúng của các cộng đồng đã đem
lại thành quả là nền độc lập cho Malaya vào tháng 8/1957.

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Malaysia đã được thiết lập ngay trong
những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ của Việt Nam và
đang diễn ra ngày càng tốt đẹp trên tất cả các lĩnh vực nhất là từ sau khi Việt
Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu
Malaysia chỉ thực sự bắt đầu từ thập niên 1990 ở Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
nhưng văn học và ngôn ngữ lại được xem là thế mạnh của nghiên cứu Malaysia.
4
Tại các cơ sở đào tạo bộ môn Đông Nam Á học cũng cho thấy một thực tế: hơn
một thập niên trở lại đây, mặc dù số lượng luận văn, luận án về Malaysia (chủ
yếu là luận văn) có tăng lên, song chủ yếu lại tập trung vào các vấn đề kinh tế-xã
hội, ngôn ngữ (tiếng Malay), tôn giáo (Đạo Hồi) mà ít có những đề tài lịch sử,
hoặc tiếp cận lịch sử Malaysia từ phương diện chính trị, xã hội. Đi tiên phong
trong số những công trình viết riêng về Malaysia là Malaysia trên đuờng phát
triển của Phạm Đức Thành (1993) được xem như một cuốn sách phổ cập kiến
thức. Sau đó 5 năm, tập thể tác giả Viện nghiên cứu Đông Nam Á cho xuất bản
cuốn Liên bang Malaysia - Lịch sử, văn hoá và những vấn đề hiện đại [49]. Tuy
nhiên, như chính các tác giả thừa nhận, “đây mới chỉ là những thông tin khái
lược và mới chỉ là những nhận thức bước đầu về đất nước, con người, lịch sử,
văn hóa, kinh tế xã hội và đường lối đối ngoại của Malaysia” [49, tr.10] Điều
quan trọng là nội dung về cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya dù
được đề cập rất ít nhưng lại chưa phản ánh đúng thực tiễn lịch sử và quan điểm
có phần thiên kiến.
5
Sự xuất hiện của Luận án Tiến sĩ Sử học của Phạm Thị Vinh
năm 2001 Hồi giáo trong nền chính trị, văn hoá, xã hội Malaysia (1957-1987)
[47] và gần đây nhất là khảo luận của chính nữ tác giả này Islam ở Malaysia
(2008) thực sự là dấu hiệu phát triển mới trong nghiên cứu Malaysia - đi sâu

khảo cứu một lĩnh vực rất cụ thể là lĩnh vực tôn giáo dựa trên cách tiếp cận lịch
sử. Cũng theo hướng nghiên cứu chuyên sâu đó nhưng với cách tiếp cận xã hội
học lịch sử là công trình Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái Lan
6
. Cái nhìn lịch sử
4
Nguyễn Đức Ninh (2003), “Thành tựu nghiên cứu Malaixia” trong Phạm Đức Thành, cb., Viện Nghiên
cứu Đông Nam Á: 30 năm xây dựng và trưởng thành (1973-2003), NXB. KHXH. Hà Nội, tr. 345-353.
5
Chẳng hạn, trang 65 viết: “Cuộc đấu tranh do Đảng Cộng sản Malaya tiến hành dù không thành công nhưng
cũng có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Malaya, góp phần không
nhỏ vào việc làm suy yếu hệ thống thuộc địa của thực dân Anh nói chung và ách thống trị thực dân ở Malaya
nói riêng. Đứng trước xu thế hướng tới độc lập ngày càng mạnh mẽ của nhân dân Malaya, thực dân Anh không
còn con đường nào khác là trao trả độc lập cho đất nước này”.
6
Lê Thị Thanh Hương cb. (2009), Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái Lan, NXB. KHXH., Hà Nội.
ở khía cạnh xã hội dân sự Malaysia thời kì thuộc địa được coi là tiền đề của xã
hội dân sự hậu thuộc địa và xã hội hiện đại ngày nay là nội dung chúng tôi có thể
kế thừa.
Một số công trình lịch sử Đông Nam Á với cách tiếp cận khu vực, trong đó
Malaya được đặt trong “chỉnh thể khu vực Đông Nam Á” được tác giả Luận án
quan tâm khảo cứu. Hai công trình tiêu biểu theo hướng nghiên cứu này gần đây
có Lịch sử Đông Nam Á, tập IV Đông Nam Á trong thời kì thuộc địa và phong
trào đấu tranh giành độc lập dân tộc từ thế kỉ XVI đến năm 1945 [37] do
PGS.TSKH. Trần Khánh chủ biên
7
có giá trị tham khảo trực tiếp đối với đề tài
Luận án; Được xuất bản vào năm 2005 là cuốn Lịch sử Đông Nam Á do GS.
Lương Ninh chủ biên [41]. Qua những “lát cắt” của lịch sử có thể thấy rõ quá
trình thực dân hóa vùng bán đảo Malaya của chủ nghĩa thực dân Anh và sau đó là

giai đoạn chiếm đóng của chủ nghĩa quân phiệt Nhật cùng những hệ quả kinh tế,
chuyển biến xã hội và sự ra đời của các lực lượng chính trị-xã hội mới của
Malaya. Điều đáng nói là tất cả những nội dung trên đều được các tác giả xem
xét không chỉ trong bối cảnh chung của khu vực mà còn được xem xét trong sự
chi phối của các mối quan hệ quốc tế qua các giai đoạn lịch sử. Trước đó, hai
công trình được dịch từ tiếng Anh là Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E. Hall [34]
và Lịch sử Đông Nam Á hiện đại của Clive J. Christie [33] có ý nghĩa rất lớn đối
với nghiên cứu Đông Nam Á với tư cách là một khu vực ở Việt Nam. Mặc dù đôi
chỗ còn mang quan điểm thực dân trong nhận thức cũng như trong luận giải một
số vấn đề, song phải thừa nhận rằng sự xuất hiện của hai công trình này bằng
tiếng Việt làm phong phú thêm cách tiếp cận nghiên cứu Đông Nam Á mới của
các bộ sử Đông Nam Á thật sự bề thế ở Việt Nam như hai công trình đã đề cập ở
trên.
8
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng hai tài liệu này, để trích dẫn một số luận
7
Khi Viện Nghiên cứu Đông Nam Á triển khai triển khai biên soạn bộ Lịch sử Đông Nam Á, vào năm
2007 tác giả Luận án được phân công viết 2 chuyên đề liên quan đến phong trào dân tộc theo khuynh
hướng dân chủ tư sản ở Malaya và Inđônêsia. Đây thực sự là cơ hội quí cho tác giả trong quá trình thực
hiện luận án.
8
Trước khi có những công trình được biên soạn theo cách tiếp cận khu vực ở Việt Nam, trong thập niên 1990
với xu thế hội nhập và nhu cầu tìm hiểu các quốc gia láng giềng đã đưa đến sự xuất hiện của nhiều công trình
trong đó từng nước trong khu vực Đông Nam Á được trình bày một cách độc lập, riêng lẻ và rất khái quát: Về
lịch sử Đông Nam Á hiện đại của Nguyễn Khánh Toàn (1983), Các nước Đông Nam Á - Lịch sử và hiện
tại của Viện Đông Nam Á (1990), Đông Nam Á trên đường phát triển (1993), Lịch sử các quốc gia Đông
Nam Á từ thế kỷ XIX đến thập niên 90 của Huỳnh Văn Tòng (1997)… Ở một khía cạnh khác, như GS.
Lương Ninh đã chia sẻ qua bài viết “Đông Nam Á - Sử liệu và vấn đề”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5
(110), tr.8-14: Lần đầu khi biên soạn Lịch sử Đông Nam Á, năm 1983 (Nxb. Đại học và THCN), tôi “biên soạn
riêng từng nước và đến chủ nghĩa thực dân thì chỉ kể vài trận đánh là coi như đã chiếm xong. Nếu như thế thì

chỉ nên gọi tên sách là ‘Sơ giản lịch sử các nước Đông Nam Á’, thực tế cũng không phải là các nước mà là một
điểm quan trọng, chúng tôi luôn trở về với bản gốc bằng tiếng Anh
9
vì đôi chỗ
bản dịch tiếng Việt không thể chuyển tải hết được tinh thần của các nhà nghiên
cứu. Cũng là tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài, Lịch sử phát triển Đông Nam Á
của Mary Sommers Heidhues [40], tuy không dày dặn như công trình của Hall,
cũng không chuyên sâu như công trình của Christie nhưng vẫn phản ánh được
nhiều phương diện của lịch sử khu vực. Nhìn chung, trong những công trình này,
nhiều trang tư liệu về Malaya đã được các tác giả phân tích, lý giải từ cách tiếp
cận khu vực nên vừa mang màu sắc riêng của Malaya cũng vừa mang những đặc
điểm chung của khu vực. Trong số những tài liệu liên quan đến chủ nghĩa tư bản
Anh, chúng tôi đặc biệt lưu tâm đến công trình Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ 1500
đến 2000 của Michel Beaud [39] phân tích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói
chung và chủ nghĩa tư bản Anh nói riêng trên khía cạnh lịch sử kinh tế thời kì
cận-hiện đại, trong đó xâm lược thuộc địa được coi là phương thức tối quan trọng
để phát triển kinh tế đặc biệt ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các Luận án Tiến sĩ
ngành Lịch sử của Lê Thanh Thủy “Quá trình xâm nhập Đông Nam Á của công
ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XIX” nghiên cứu quá trình
viễn chinh Đông Nam Á và vai trò của Công ty đối với việc hình thành đế chế
Anh ở phương Đông và Luận án của Trần Thị Thanh Vân “Chính sách thực dân
của Anh ở Ấn Độ từ thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XX” cung cấp cho chúng tôi
những hiểu biết tốt hơn về chính sách cai trị của Anh ở một thuộc địa khác là Ấn
Độ.
Chuyên luận Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỉ XX - Một cách
tiếp cận [32] của tác giả Đỗ Thanh Bình bao quát những nét chung cả về lý luận
lẫn thực tiễn của các phong trào ở châu Á, châu Phi, và Châu Mĩ Latinh.
10
Không
chỉ dừng lại ở việc phân tích quá trình thực dân hóa của các nước thực dân,

phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa và phụ thuộc, mà chuyên luận còn
dành một chương trình bày về sự phát triển của các nước sau độc lập, lý giải sự
số nước”. Giáo sư cũng thừa nhận, “Đó là hạn chế của ‘thời đại’, của bản thân tôi về hiểu biết và về lý luận của
25 năm trước”. 25 năm sau, vẫn con người ấy, nhưng với cách nhìn mới, với quan điểm và phương pháp
nghiên cứu mới, công trình do Giáo sư làm chủ biên xuất bản năm 2005 có thể coi là một bước tiến dài trong
nghiên cứu Đông Nam Á ở Việt Nam.
9
Của D.G. Hall là History of South-East Asia và của C. Christie là A modern history of Southeast Asia:
decolonization, nationalism and separatism.
10
Từ năm 1999, tác giả đã cho xuất bản công trình Con đường cứu nước trong đấu tranh giải phóng dân
tộc ở một số nước châu Á (từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945). Sau đó là chuyên đề “Các con đường cứu
nước trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á” được in trong Vũ Dương Ninh cb.
(2001), Một số chuyên đề lịch sử thế giới, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
lựa chọn con đường phát triển và công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Phần phụ lục của chuyên luận tương đối hữu ích với đề tài Luận án bởi những
nghiên cứu so sánh giữa chính sách thuộc địa của Anh và của Pháp, hệ quả của
các chính sách ấy được nhìn từ hai phía: thực dân và các thuộc địa. Quan điểm
của tác giả trong chuyên luận này được chúng tôi chia sẻ là “Mỗi dân tộc đều có
thể lựa chọn con đường riêng cho mình, không có một mô hình nào làm kiểu mẫu
để áp đặt cho các dân tộc khác” hay “Con đường đi đến độc lập của các dân tộc
không giống nhau… mỗi con đường ấy đều có công sức góp chung làm sụp đổ
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.” [32, tr.44]
Với nguồn tư liệu là các bài nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài trước hết phải đề cập đến
loạt bài viết có tính tranh luận học thuật, chẳng hạn như: “Vấn đề xác định thời
điểm thiết lập chủ nghĩa thực dân phương Tây ở Đông Nam Á” của Trần Khánh
[36], “Bối cảnh Đông Nam Á trước sự xâm nhập và thôn tính thuộc địa của
phương Tây” của Nguyễn Văn Kim và Trần Khánh [38] hay “Những vấn đề đặt
ra đối với biên soạn lịch sử phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á thời

cận-hiện đại” của Đỗ Thanh Bình và bài “Cần đổi mới nhận thức và biên soạn
giáo trình lịch sử thế giới cận đại” của Nguyễn Văn Hồng.
11
Chúng tôi cũng dành
sự chú ý đặc biệt đến các bài nghiên cứu “Vài nét cơ bản của quan hệ quốc tế ở
Đông Nam Á từ giữa thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ XX” [42], “Chính sách thống trị
của thực dân Anh ở Miến Điện trong những năm cuối thế kỉ XIX - nửa đầu thế kỉ
XX và tác động của nó tới phong trào giải phóng dân tộc” [46], đặc biệt là bài
“Nhìn lại cuộc đấu tranh giành độc lập của Đông Nam Á thế kỉ XX” của tác giả
Vũ Dương Ninh [43]. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của Giáo sư: “Các
nước Đông Nam Á dù chọn con đường nào thì cuối cùng cũng đã thành công
trong việc thành lập nhà nước độc lập và đạt nhiều thành tựu trong công cuộc xây
dựng đất nước. Điều đó cho thấy không nên coi con đường nào là duy nhất đúng
mà tất cả phụ thuộc vào tầm nhìn và năng lực lãnh đạo biết chọn lựa con đường
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng nước.” [43, tr.20] Nhìn chung, các bài
viết trên đây tuy vẫn không phải là những trang tư liệu trực tiếp về Malaya
11
Bài viết của GS. Đỗ Thanh Bình trong Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5 (110), tr.33-39 bàn về cách tiếp cận và
sự phân kì trong biên soạn lịch sử phong trào giải phóng dân tộc. Bài của PGS. Nguyễn Văn Hồng trong
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11 (140), tr.12-15 nêu lên sự cần thiết phải đổi mới tư duy nhận thức về sứ mạng
lịch sử của chủ nghĩa thực dân đối với châu Á lạc hậu, về vai trò của trí thức trong đấu tranh giành độc lập.
nhưng đề cập đến vấn đề nghiên cứu là phong trào đấu tranh giành độc lập dân
tộc được nhìn trên bình diện khu vực, đặc biệt có một số vấn đề được nhìn nhận
lại, nhìn nhận mới bằng những quan điểm khoa học mới đã tạo điều kiện cho
chúng tôi mạch lạc hơn trong ý tưởng cũng như triển khai các luận giải cho vấn
đề nghiên cứu của mình.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
Ngành Malaya học ở Anh được khởi động bởi những nghiên cứu đầu tiên là
về ngôn ngữ - tiếng Malay - được mở ra từ thế kỉ XVII. Sự khởi đầu này hoàn
toàn trùng với thời điểm người Anh bắt đầu quan tâm đến thương mại ở “thế giới

Malay”. Bài viết của nhà nghiên cứu ngôn ngữ Malay - Russell Jones [160] tái
hiện bức tranh chi tiết về thành tựu nghiên cứu tiếng Malay ở Anh từ đầu thế kỉ
XVII. Sự hiểu biết ngôn ngữ bản địa mở ra một chân trời khám phá mới về con
người, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng và phong tục tập quán của xứ sở
Malaya - nơi mà càng ngày lợi ích kinh tế tư bản chủ nghĩa của thực dân Anh
càng được thắt chặt. Từ giữa thế kỉ XVIII, sau khi giành thắng lợi tuyệt đối trong
việc nắm quyền kiểm soát Ấn Độ, Anh bắt đầu chuyển thế chủ động thương mại
thành sức mạnh chính trị và tiến lên ở Đông Nam Á. Trong bối cảnh của “cơn
kịch phát thực dân hóa”
12
nửa sau thế kỉ XIX, mối quan tâm của đế quốc Anh đến
Malaya trên khía cạnh chính trị đặc biệt được đẩy mạnh. Quá trình “thực dân
bằng mậu dịch” của Công ty Đông Ấn chính thức kết thúc vào năm 1858 để
chính sách thuộc địa trong thời đại mới trở thành công cuộc của Hoàng gia và là
vấn đề tối quan trọng của Nghị viện Anh.
Để phục vụ nghiên cứu Malaya thời kì thuộc địa trước hết phải kể đến khối
tài liệu được viết bởi các nhà nghiên cứu đồng thời là các nhà quản lý người Anh.
Vì trách nhiệm của mình, những ghi chép/nghiên cứu đó có giá trị khoa học nhất
định, mặc dù không thể không thừa nhận rằng những tư liệu này bị bao trùm bởi
tư tưởng và quan điểm thực dân. Các công trình, bài viết được xuất bản trong
nửa đầu thế kỉ XIX là của thế hệ các viên chức người Anh đầu tiên như: T.
Stamford Raffles, người có công khai phá và đưa đến sự phát triển kì diệu của
Singapo với On the Malayu Union (1816) hay công trình của T. John Newbold
Political and statistical account of the British Settlements in the Strait of
12
Từ dùng của Michel Beaud [39, tr.241]

×