Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng báo cáo chiến lược sử dụng tài nguyên đất đai, thử nghiệm kết quả nghiên cứu ở vùng tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 137 trang )

Mục lục
Trang
Đặt vấn đề
Phần 1 - Tổng quan lý thuyết chung về dự báo phát triển kinh tế - xã hội
1.1. Một số vấn đề lý luận về dự báo phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Một số khái niệm: Sự nhìn trớc, Sự tiên đoán, Dự báo
1.1.2. Qúa trình hình thành khoa học dự báo
1.1.3. Cơ sở phơng pháp luận của dự báo phát triển kinh tế - xã hội
1.1.4. Phân loại các dự báo phát triển kinh tế - xã hội
1.1.5. Các nguyên tắc cơ bản và trình tự xây dựng dự báo
1.2. Các phơng pháp chung dự báo phát triển kinh tế - xã hội
1.3. Vai trò của dự báo trong hoàn thiện kế hoạch hoá và quản lý
nền kinh tế quốc dân
Phần 2 - Nghiên cứu đối tợng và thực tiễn dự báo sử dụng đất ở nớc ta
2.1. Đặc điểm của đối tợng dự báo sử dụng đất
2.1.1. Tài nguyên đất đai - đối tợng dự báo và vai trò của nó
2.1.2. Đặc điểm của đối tợng dự báo sử dụng tài nguyên đất đai cả nớc
2.2. Thực tiễn công tác xây dựng tài liệu tiền kế hoạch (dự báo) sử
dụng tài nguyên đất đai ở nớc ta
2.2.1. Dự báo sử dụng đất trong các tài liệu tiền kế hoạch mang tính
tổng thể
2.2.2. Dự báo sử dụng đất trong quy hoạch, kế hoạch hoá việc sử
dụng đất đai
2.3. Quan hệ giữa dự báo chiến lợc sử dụng tài nguyên đất đai với
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Phần 3 - Cơ sở khoa học và phơng pháp luận dự báo sử dụng tài
nguyên đất đai
3.1. Cơ sở lý luận dự báo sử dụng tài nguyên đất đai


3.1.1. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng dự báo sử dụng tài nguyên
đất đai
3.1.2. Các loại hình và nội dung dự báo sử dụng tài nguyên đất đai
3.1.3. Trình tự và thời hạn dự báo sử dụng tài nguyên đất đai
3.1.4. Nền dự báo
3.2. Phơng pháp dự báo sử dụng tài nguyên đất đai
1
4
4
4
6
7
9
12
13

19
23
23
23
25
34
35
38
39
42
42
42
45
48

56
67
3.2.1. Phân loại các phơng pháp dự báo sử dụng đất
3.2.2. Đánh giá các phơng pháp dự báo
3.2.3. Kiểm định độ tin cậy của dự báo
3.3. Khả năng ứng dụng các phơng pháp trong dự báo sử dụng
tài nguyên đất đai
3.3.1. Phơng pháp đánh giá giám định
3.3.2. Phơng pháp dự báo theo suy luận (lô gíc)
3.3.3. Phơng pháp toán học của dự báo
3.3.4. Phơng pháp dự báo theo định mức
3.3.5. Các phơng pháp dự báo đặc thù
Phần 4 - Kết quả thử nghiệm dự báo sử dụng đất vùng Tây Nguyên
4.1. Phơng pháp luận dự báo sử dụng đất của vùng
4.1.1. Xác định loại hình dự báo sử dụng đất
4.1.2. Xác định trình tự và nội dung dự báo sử dụng đất
4.1.3. Lựa chọn các phơng pháp dự báo
4.2. Kết quả dự báo sử dụng đất vùng Tây Nguyên
4.2.1. Khái quát chung vùng Tây Nguyên
4.2.2. Tiềm năng đất đai của vùng
4.2.3. Định hớng phát triển và quan điểm sử dụng đất của vùng
4.2.4. Dự báo các chỉ tiêu sử dụng quỹ đất của vùng
4.2.5. Đánh giá kết quả dự báo và các giải pháp
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
67
68
69
71

71
74
75
85
87
79
91
91
92
93
102
102
103
104
106
115
119







Đặt vấn đề
Dù đang làm công việc hàng ngày, dù suy nghĩ hay mơ ớc, con ngời
luôn quan tâm đến tơng lai (nhân loại đang sống chính là để cho ngày mai).
Một điều rất tự nhiên là trong mọi thời đại, những trí tuệ xuất sắc nhất thờng
cố gắng nhiều vì tơng lai, đoán nhận, báo trớc những gì sẽ xẩy ra. Đất nớc ta
hiện đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trờng định

hớng xã hội chủ nghĩa, sẽ không có ý nghĩa gì nếu không đẩy mạnh và hoàn
thiện các hình thức và phơng pháp quản lý, cũng nh việc kế hoạch hoá và dự
báo các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trong
đó có tài nguyên đất đai.
Đất đai là vấn đề rất nhạy cảm, bức xúc hiện nay, tác động đến nhiều mặt
của đời sống xã hội. Trong Nghị quyết số 26 - NQ/TW của Hội nghị Trung
ơng 7 khoá IX - Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc đã khẳng định: đất đai là
tài sản đặc biệt của quốc gia, là nguồn nội lực quan trọng và nguồn vốn to lớn
của đất nớc . Quan điểm chỉ đạo cũng đặt ra: Khai thác, sử dụng đất đúng
mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực về đất;
đầu t mở rộng diện tích, nâng cao chất lợng và bảo vệ đất canh tác nông
nghiệp, bảo đảm an ninh lơng thực quốc gia và môi trờng sinh thái theo quy
hoạch, kế hoạch của Nhà nớc. Chiến lợc sử dụng tài nguyên đất đai luôn gắn
liền với quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai - là tài liệu dự
báo dài hạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và rất cần thiết, làm định hớng cho
cho việc tổ chức sử dụng và quản lý quỹ đất đai trong một tơng lai xa.
ở nhiều nớc trên thế giới để đáp ứng yêu cầu thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội trong các thời kỳ khác nhau đã xây dựng hệ thống
thống nhất: chiến lợc - quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất nh là công cụ quan
trọng để tổ chức sử dụng và quản lý một cách toàn diện (cả về không gian và
thời gian), hợp lý và có hiệu quả đất đai - nguồn tài nguyên hạn chế và không
tái tạo của mỗi quốc gia.
Thực tiễn nớc ta trong những năm qua cho thấy, ngay từ khi ban hành
Luật đất đai 1993, công tác lập quy hoạch sử dụng đất đai các cấp đã đợc triển
khai trên phạm vi cả nớc. Trong quá trình thực hiện công tác này, đặc biệt là
quy hoạch sử dụng đất đai các cấp vĩ mô (cả nớc, bao gồm cả các vùng và cấp
tỉnh) còn gặp nhiều bất cập trong việc cân đối sử dụng quỹ đất theo định hớng
lâu dài do thiếu các dự báo với tầm nhìn xa hơn (mang tính chiến lợc). Nhu
cầu bức xúc là cần xây dựng dự báo chiến lợc sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất

đai của cả nớc và từng vùng dựa trên cơ sở lý luận và khoa học chắc chắn,

1
nhằm đáp ứng kịp thời việc chỉnh lý định kỳ quy hoạch sử dụng đất đai các cấp
trong giai đoạn mới, góp phần định hớng tổ chức sử dụng và quản lý Nhà nớc
về đất đai ngày càng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả hơn.
Hiện nay, trong hoạt động dự báo nói chung cũng nh trong dự báo của
một số ngành và lĩnh vực đã có nhiều phơng pháp luận, tuy nhiên nếu chỉ vận
dụng cách giải quyết dựa theo kinh nghiệm của các phơng pháp luận đó vào
việc dự báo sử dụng đất là không đủ, bởi vì hoàn cảnh của đối tợng nghiên cứu
thuộc lĩnh vực này luôn thay đổi và biến động. Thêm vào đó, việc tiên đoán, lập
dự báo sử dụng tài nguyên đất đai là một công việc khá phức tạp và hoàn toàn
mới mẽ đối với nớc ta. Để có tầm nhìn đúng với mức độ chính xác cao của các
dự báo về tơng lai sử dụng và quản lý quỹ đất quốc gia cũng nh của các vùng,
nhất thiết phải dựa trên cơ sở phơng pháp luận và những căn cứ khoa học mà
từ trớc đến nay cha đợc đầu t nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống ở
nớc ta.
Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực
tiễn xây dựng dự báo chiến lợc sử dụng tài nguyên đất đai, thử nghiệm kết quả
nghiên cứu ở vùng Tây Nguyên. là một yêu cầu rất cấp thiết, nhằm bớc đầu
hệ thống hoá những nội dung cơ bản của hệ thống dự báo chung, trên cơ sở đó
nghiên cứu đề xuất các vấn đề lý luận và phơng pháp dự báo sử dụng tài
nguyên đất đai nói riêng với mục tiêu cụ thể là:
- Xây dựng cơ sở phơng pháp luận và những căn cứ khoa học lập các dự
báo sử dụng tài nguyên đất đai.
- Xác định khả năng ứng dụng trong thực tiễn xây dựng chiến lợc sử
dụng tài nguyên đất đai đáp ứng yêu cầu của định hớng phát triển kinh tế xã -
hội trong các thời kỳ khác nhau ở phạm vi cấp vùng và cả nớc.
Xuất phát từ mục tiêu đặt ra, nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung
vào các vấn đề chủ yếu sau:

- Hệ thống hoá phơng pháp luận dự báo trên sơ sở nghiên cứu tổng quan
những vấn đề cơ bản về dự báo phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
- Nghiên cứu tài nguyên đất đai nh đối tợng của dự báo trong lĩnh vực
sử dụng đất đai.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và phơng pháp luận xây dựng dự báo chiến
lợc sử dụng tài nguyên đất đai.
- Nghiên cứu ý nghĩa thực tiễn và khả năng ứng dụng các phơng pháp
trong lĩnh vực dự báo sử dụng đất.
- Thử nghiệm dự báo sử dụng tài nguyên đất đai vùng Tây Nguyên.

2
Các phơng pháp chính đợc áp dụng trong quá trình nghiên cứu là:
- Phơng pháp tiếp cận hệ thống.
- Phơng pháp kế thừa.
- Phơng pháp chuyên gia.
- Phơng pháp phân tích tổng hợp.
- Phơng pháp điều tra.
- Phơng pháp nghiên cứu mẫu.
Đề tài đã hoàn thành với các sản phẩm sau:
- Báo cáo chuyên đề 1: Cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng dự báo sử
dụng tài nguyên đất đai (64 trang).
- Báo cáo chuyên đề 2: Phơng pháp luận xây dựng dự báo sử dụng tài
nguyên đất đai (38 trang).
- Báo cáo chuyên đề 3: Kết quả thử nghiệm dự báo sử dụng đất vùng
Tây Nguyên (64 trang và 13 phụ lục).
- Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu cơ sở khoa
học và thực tiễn xây dựng dự báo chiến lợc sử dụng tài nguyên đất đai, thử
nghiệm kết quả nghiên cứu ở vùng Tây Nguyên.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài đợc trình bày trong báo cáo tổng hợp
gồm 121 trang, trong đó có 7 biểu số liệu, 49 công thức, 12 sơ đồ và đồ thị, 3

bản đồ thu nhỏ. Kèm theo là danh mục tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu và 8 phụ lục. Ngoài đặt vấn đề và kết luận, báo cáo kết quả đợc
chia thành 4 phần:
Phần 1: Tổng quan lý thuyết chung về dự báo phát triển kinh tế - xã hội
Phần 2: Nghiên cứu đối tợng và thực tiễn dự báo sử dụng đất ở nớc ta
Phần 3: Cơ sở khoa học và phơng pháp luận dự báo sử dụng tài nguyên đất đai
Phần 4: Kết quả thử nghiệm dự báo sử dụng đất vùng Tây Nguyên
Giá trị của đề tài chính là những căn cứ và cơ sở khoa học để lập các dự
báo liên quan tới sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất đai trong quá trình xây dựng
dự báo chiến lợc sử dụng tài nguyên đất đai quốc gia và các vùng, làm định
hớng thống nhất và có tính khả thi cho việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất các cấp phù hợp với viễn cảnh phát triển kinh tế - xã hội và sử dụng quỹ đất
đai trong tơng lai xa của đất nớc.

3
Phần 1
tổng quan lý thuyết chung
Về dự báo phát triển kinh tế - x hội
1.1. một số vấn đề lý luận về dự báo phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Một số khái niệm: Sự nhìn trớc, Sự tiên đoán, Dự báo
Hoạt động của con ngời luôn thể hiện rất rõ sự vơn tới tơng lai.
Điều này đợc phản ánh trong ngôn ngữ, trong sự hình thành các cụm từ nh
nhìn trớc (hay tiên kiến), tiên đoán (hay đoán trớc), dự báo và
kế hoạch. Những khái niệm này về nội dung có khác nhau, nhng nói
chung cùng nhằm diễn đạt sự hiểu biết của con ngời về tơng lai của quá
trình nào đó trong thế giới hiện thực hoặc sự nhận thức tơng lai về sự kiện
nào đó (và ngay cả khi sự kiện đó đã có mặt từ quá khứ). Trong phạm vi nội
dung nghiên cứu của đề tài chỉ xem xét những đặc điểm cần lu ý khi giải
thích về một số khái niệm nh: sự nhìn trớc, sự tiên đoán và dự báo.
Khái niệm kế hoạch sẽ đợc đề cập đến khi nghiên cứu mối quan hệ giữa

dự báo và kế hoạch.
1. Sự nhìn trớc (Sự tiên kiến)
Sự nhìn trớc một cách khoa học - đó là một phần, một mặt, một giai
đoạn trong hoạt động nhận thức của chủ thể, mà kết quả của nó là sự thu nhận
hiểu biết về các sự kiện tơng lai. Sự nhìn trớc đợc thể hiện nh là khả năng
đã đợc hoàn thiện trong quá trình điều hoà của vật chất sống của não phản ánh
trớc về hiện thực. Nh vậy, có thể coi sự nhìn trớc là:
- Dựa trên tri thức về các quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội, t duy
và là mục đích của nhận thức;
- Là hình thức hoạt động cấu trúc của não nhằm dựng lên bức tranh về
hiện tợng không quan sát đợc ở thực tại;
- Là kiến thức suy luận hay kiến thức xác suất phát triển một cách trực giác;
- Chứa mô hình thông tin về các sự kiện tơng lai;
- Có thể thể hiện nh là một cách nhận thức có khoa học.
2. Sự tiên đoán (Sự đoán trớc)
Sự nhìn trớc định nghĩa theo cách trên sẽ là cùng loại với các khái
niệm sự tiên đoán và dự báo khi chúng ta hiểu sự đoán trớc là sự nhìn
trớc các sự kiện mà đặc trng về lợng của chúng hoặc là không thể xác định
đợc (ở một mức độ phát triển hiện tại của nhận thức) hoặc là khó xác định.

4
3. Dự báo
Do sự cần thiết phải nhận dạng các mệnh đề nh là nhận dạng các dự báo
cho nên khái niệm dự báo đợc mô tả theo cách hơi khác so với sự nhìn trớc
và sự đoán trớc.
Dự báo - là một mệnh đề (đợc diễn đạt bằng những thuật ngữ thuộc hệ
thống ngôn ngữ nào đó) nói về sự kiện không quan sát đợc và (mệnh đề đó)
thoả mãn những điều kiện sau đây:
- Tại thời điểm phát biểu mệnh đề không thể xác định một cách đơn trị
(một cách dứt khoát) tính đúng hoặc sai của nó;

- Chứa sự chỉ dẫn về khoảng không gian hoặc thời gian, đóng và mở mà ở
trong khoảng đó sẽ xảy ra sự kiện đợc dự báo;
- Tại thời điểm phát biểu mệnh đề cần phải quy định những cách thức
kiểm tra phơng pháp dự báo, sự đánh giá chính xác xác suất xuất hiện sự kiện
đợc dự báo, sự kiểm tra việc thể hiện sự kiện đợc dự báo.
Về định nghĩa có thể hiểu: Dự báo là hệ thống những nhận định (phán
đoán, hiểu biết) đủ luận cứ khoa học về tình trạng trong tơng lai của một
sự vật, hiện tợng, sự kiện hoặc về cách thức và thời hạn đạt đợc tình trạng
đó. Chúng mang đặc điểm xác suất (có thể xẩy ra), nhng đủ độ tin cậy (ở
mức tin nào đó).
Để hiểu đúng định nghĩa trên cần chú ý đến những điểm sau:
- Xây dựng dự báo dựa vào những nghiên cứu đặc thù nh: phân tích quá
khứ, hiện tại và tơng lai của sự vật, hiện tợng và sự kiện (nh vậy cơ sở
phơng pháp luận khác hẳn so với những quan điểm khoa học giả hiệu về dự
đoán tơng lai và tất cả những hiểu biết của tôn giáo).
- Mối tơng giao của kết quả (nhận định về tơng lai) với cách thức
và phơng tiện cụ thể để đạt đợc những nhận định đó trên cơ sở lựa chọn
có lý trí, nghĩa là cần chọn một hoặc vài h
ớng (phơng án, quyết định) có
khả năng
- Đặc điểm xác suất của nhận định và phán đoán về tơng lai là do ảnh
hởng của các yếu tố ngẫu nhiên làm sai lệch hoặc thay đổi sự phát triển của
quá trình hình thành đối tợng dự báo.
- Độ tin cậy đợc đặc trng bởi hệ số xác suất thực hiện dự báo trong
khoảng tin cậy cho trớc và phụ thuộc vào các yếu tố sau: thời hạn dự báo (đến
thời điểm nào), mức phức tạp của đối tợng dự báo, tình trạng nghiên cứu của
đối tợng, mức hoàn thiện của phơng pháp đợc sử dụng.

5
1.1.2. Quá trình hình thành khoa học dự báo

Cho đến nay, trong khoa học dự báo vẫn còn nhiều vấn đề cha
hình thành trọn vẹn. Đối tợng của nó là các phơng pháp dự báo. Còn
phạm vi ứng dụng là các hiện tợng xã hội, kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
Khi xem xét khoa học dự báo, trớc hết cần lu ý đến sự hình thành vấn
đề tiên đoán.
Mô hình hệ thống của dự báo có thể diễn đạt nh sau: thoạt tiên xuất hiện
nhu cầu thực tiễn về tiên đoán và vấn đề lý thuyết về khả năng tiên đoán về sự
phát triển của đối tợng cụ thể. Vấn đề này đợc nêu ra trong phạm vi từng
khoa học và đợc phát biểu dới dạng thức của khoa học đó.
Khi khoa học phát triển đến một giai đoạn nhất định, vấn đề tiên đoán
trở thành bức thiết hàng ngày đối với mọi ngành khoa học. Chính ý nghĩa đó
đòi hỏi phải hiểu cho đợc ý kiến cho rằng một trong những chức năng chính
của khoa học là chức năng tiên đoán. Vấn đề tiên đoán có ý nghĩa quan trọng
đối với nhân loại đến mức là nó đã làm nảy sinh thêm một khoa học mới -
khoa học dự báo.
Để có thể hiểu chính xác hơn quá trình hình thành khoa học dự báo cần
lu ý đến một số đặc điểm sau:
1. Trớc hết phải khẳng định chủ nghĩa duy vật là hớng cơ bản
của thời kỳ hiện đại. Trong khi đó, chủ nghĩa duy tâm khi nhận thức về
tơng lai đã và đang phủ nhận khả năng và sự cần thiết phải tiên đoán.
Theo họ, tơng lai chỉ là lĩnh vực của hy vọng chứ không phải là lĩnh
vực nghiên cứu;
2. Chủ nghĩa duy vật trớc Mác về cơ bản đã giải thích đúng các hiện
tợng và quá trình xảy ra trong tự nhiên, phái không tởng cũng đã tiếp cận đến
dự báo khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, khi giải quyết các
vấn đề có liên quan đến lịch sử loài ngời thì chủ nghĩa duy vật trớc Mác đã sa
vào chủ nghĩa duy tâm;
3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ngợc hẳn lại với phái siêu hình cho
phép thực hiện những phép ngoại suy mà về thực chất chúng liên quan với quá
trình phát triển;

4. Nhận thức luận của Lênin và trờng phái hiện đại về phản ánh hiện
thực là cơ sở lý luận chung của khoa học dự báo;
5. Việc bổ sung vào những hệ nhân quả của sự phát minh các quá trình và
các quy luật ngẫu nhiên điều khiển các hệ đó đã mở rộng khả năng dự báo các
hệ thống phức tạp;

6
6. Do tác động của sự phát triển nhanh chóng của khoa học, giá trị thực
tiễn của chức năng tiên đoán của các lý thuyết khoa học đã bắt đầu đợc hiểu
chặt chẽ hơn. Ngày nay dự đoán nhất thiết phải đợc đa vào nội dung của từng
học thuyết;
7. Sự hoàn thiện các vấn đề của lý thuyết hệ thống phù hợp với sự phát
triển của việc phân tích đối tợng dự báo;
8. Các đề tài điều khiển và liên lạc do điều khiển học đặt ra, hoà lẫn vào đề
tài tiên đoán, bởi vì điều kiện cần thiết của quá trình điều khiển là dự báo liên tục;
9. Nguyên tắc phát triển nền kinh tế quốc dân có kế hoạch, các công trình
khoa học và kỹ thuật liên quan chặt chẽ với dự báo. Dự báo có cơ sở khoa học
phải đợc tiến hành trớc kế hoạch.
Về nguyên tắc, khoa học dự báo cũng đợc xây dựng theo sơ đồ cơ bản
của quá trình, nhận thức từ trực quan sinh động đến t duy trừu tợng và từ t
duy trừu tợng đến thực tiễn, tức là từ cụ thể qua trừu tợng đến cụ thể ở mức
độ mới. Trong giai đoạn đầu (từ cụ thể) cần phải hệ thống hoá và nghiên cứu
các cách xây dựng và cấu trúc của các phơng pháp dự báo do các khoa học
riêng lẻ đề xuất. Các phơng pháp và phơng pháp luận cho dự báo sự phát
triển của các đối tợng thuộc các khoa học cụ thể là tài liệu kinh nghiệm mà
sự phân tích và tổng hợp tài liệu đó là cơ sở cho việc hình thành các quy luật.
ở giai đoạn thứ hai (tới trừu tợng) cần phải nêu lên, những giả thuyết và lý
thuyết giải thích các quy luật xây dựng các phơng pháp dự báo, các đặc thù
tơng lai của các đối tợng thuộc những môi trờng khác nhau. Những giả
thuyết và lý thuyết đó sẽ đợc kiểm tra (ở giai đoạn thứ ba) tại các đối tợng

thuộc lĩnh vực đang nghiên cứu.
Tuy nhiên, trớc mắt các hớng xây dựng khoa học dự báo bằng con
đờng kinh nghiệm - quy nạp và con đờng tiên đề - suy diễn có một nhiệm vụ
rất lớn mà nếu không giải quyết thì sẽ chẳng thực hiện nổi con đ
ờng nào cả để
xây dựng một hệ thống các khái niệm có thể cho phép mô tả và giải thích rõ ràng
các sự kiện và các quan hệ giữa chúng. Thật vậy, hệ thống hoá và phân loại t
liệu kinh nghiệm sẽ không có ý nghĩa nếu thiếu hẳn các khái niệm dự báo, kết
quả xây dựng và phát biểu các tiên đề hoặc các nguyên tắc ban đầu của khoa học
dự báo cũng phụ thuộc vào việc xây dựng một hệ thống các khái niệm. Do đó
việc xây dựng hệ thống này là nhiệm vụ trớc nhất của các nhà nghiên cứu.
1.1.3. Cơ sở phơng pháp luận của dự báo phát triển kinh tế - xã hội
Khoa học dự báo đang ở giai đoạn hình thành phơng pháp nghiên cứu và
hệ thống các khái niệm. Còn sự liên hệ với thực tiễn thì đã khá chặt chẽ bởi vì
nhu cầu về dự báo đặc biệt to lớn.

7
Từ định nghĩa về khoa học dự báo cho thấy, đối tợng của nó bao gồm
toàn bộ các vấn đề có liên quan đến việc hoàn thiện các biện pháp xây dựng
phơng pháp dự báo và các nguyên tắc lập các dự báo. Nghiên cứu khoa học dự
báo trớc hết cần giải quyết đợc các vấn đề cơ bản dới đây:
1. Phân loại các dự báo và xác định đối tợng cần dự báo;
2. Quan hệ giữa môi trờng chứa đối tợng cần dự báo và các phơng
pháp dự báo đối tợng đó;
3. Các thông số cơ bản của một dự báo;
4. Thời gian hoàn thành dự báo;
5. Xác định các giai đoạn hoàn thiện cho một dự báo;
6. Phân loại và tổng kết các phơng pháp dự báo hiện có;
7. Thiết lập các yêu cầu về phơng pháp luận đối với việc dự báo về
những hệ quả xã hội của cách mạng khoa học - kỹ thuật.

Về cơ bản, cơ cấu của khoa học dự báo gồm ba bộ phận:
- Phơng pháp dự báo;
- Quá trình hoàn thiện mỗi dự báo;
- Sự đánh giá các dự báo.
Sự tìm hiểu các bộ phận trên sẽ dựa trên lý thuyết chung về các hệ thống
điều khiển học, các ngành toán học khác nhau, triết học, lôgic học, lý thuyết độ
đo và dựa trên nhiều sự kiện do các khoa học cụ thể đạt đợc trong quá trình dự
báo các đối tợng của mình.
Công tác dự báo là quá trình nghiên cứu mà kết quả thu nhận đợc
những số liệu có thể về tình trạng trong tơng lai của đối tợng hoặc hiện
tợng đợc dự báo. Nói khác đi là quá trình (gồm các biện pháp hay hoạt
động) về xây dựng các dự báo dựa trên cơ sở khoa học. Ngành khoa học, môn
học về những quy luật xây dựng các dự báo, học thuyết về phơng pháp,
nguyên tắc và phơng tiện đoán trớc một cách có khoa học đợc gọi là dự
báo học (khoa học dự báo).
Dự báo học có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp của nó. Về nghĩa
rộng dự báo học nghiên cứu những định luật và quy luật chung nhất về lý luận
và thực tiễn của công tác dự báo (ở đây nói về các học thuyết chung nhất của
công tác dự báo). Về nghĩa hẹp - nghiên cứu những quy luật và ph
ơng pháp
xây dựng các dự báo trong từng lĩnh vực riêng nh: cuộc sống, thiên nhiên và
hoạt động xã hội (ở đây nói về những học thuyết riêng với tính hai chiều, theo
hớng dự báo học chung và theo hớng của ngành khoa học cụ thể).

8
Ví dụ: Xây dựng học thuyết dự báo sử dụng tài nguyên đất một mặt dựa
trên những định luật và quy luật dự báo chung nhất (có nghĩa dựa trên dự báo
học ở nghĩa rộng). Mặt khác nó xuất phát từ đặc điểm của đối tợng dự báo - là
đất, từ các phơng pháp cụ thể và cách cải tạo việc sử dụng đất.
Nhiệm vụ chính của dự báo học - là nghiên cứu những vấn đề về nhận

thức và cách suy luận học thuyết dự báo, về các nguyên tắc khoa học phân loại
và xây dựng các dự báo về phơng pháp luận và phơng pháp phán đoán có
khoa học (theo nghĩa rộng). Về nghĩa hẹp - những nhiệm vụ trên liên quan đến
đặc điểm, đối tợng và phơng pháp nghiên cứu của từng ngành khoa học. Điều
đó có nghĩa, nhiệm vụ của công tác dự báo chính là xây dựng những dự báo đủ
luận cứ khoa học về phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân, từng ngành, từng
xí nghiệp và cả cuộc sống bao gồm các vấn đề xã hội, văn hoá, tinh thần,
Cũng nh mọi ngành khoa học cơ sở phơng pháp luận của dự báo học là
hệ thống đặc tính nhìn nhận thế giới quan, những phơng pháp và hình thức
khoa học chung nhất của việc nghiên cứu, những phơng pháp đặc trng cho
nhiệm vụ cần giải quyết.
Xuất phát từ đặc điểm về chất của đối tợng dự báo và những định luật,
quy luật tiến hoá của nó có thể sử dụng mọi luận điểm của học thuyết Mác
Lênin. Nh đã biết triết học nghiên cứu những định luật chung nhất của thiên
nhiên và xã hội. Vì vậy những luận điểm cơ bản của nó nh: từng vật chất và
nhận thức thế giới, mối quan hệ và tác động lẫn nhau của các hiện tợng,
phơng pháp lịch sử, các phạm trù duy vật biện chứng và thuyết nhận thức sẽ là
cơ sở để giải quyết các vấn đề dự báo học chung và riêng. Ngoài ra dự báo học
riêng còn dựa trên những luận điểm khác của học thuyết Mác - Lênin.
Ví dụ: Đối với dự báo về kinh tế những luận điểm sau có ý nghĩa rất quan
trọng: học thuyết tái sản xuất của Mác, những quy luật kinh tế khách quan của
chủ nghĩa xã hội, học thuyết về kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân
Về dự báo xã hội: Những định luật và quy luật về dân số, sự phát triển cá
nhân, các mối quan hệ xã hội,
Trong học thuyết dự báo sử dụng tài nguyên thiên nhiên (trong đó có tài
nguyên đất) cơ sở phơng pháp luận là những nguyên tắc tác động qua lại giữa
xã hội và thiên nhiên, luận điểm về vai trò của đất trong cuộc sống con ngời và
tiến hoá của xã hội, những quy luật khách quan phát triển nông nghiệp mà ở đó
đất giữ vai trò là t liệu sản xuất chính của sản xuất,
1.1.4. Phân loại các dự báo phát triển kinh tế - xã hội

Dự báo có thể đợc phân biệt theo nhiều dấu hiệu khác nhau. Những dấu
hiệu đó có thể là:

9
- Lĩnh vực hoặc đối tợng dự báo.
- Mục đích và nhiệm vụ dự báo.
- Thời hạn dự báo.
- Cơ sở khoa học và đặc điểm của dự báo.
- Phơng pháp đợc sử dụng.
1. Căn cứ theo lĩnh vực hoặc đối tợng của dự báo
Chia 3 nhóm: Dự báo tự nhiên học, khoa học kỹ thuật và xã hội học. Bản
thân chúng đợc chia thành các dạng khác nhau. Có 8 dạng dự báo chính sau
đây: Khoa học - kỹ thuật; Dân số; Tài nguyên thiên nhiên và việc sử dụng chúng;
Khí tợng thuỷ văn; Kinh tế; Xã hội; Chính sách đối ngoại; Sách lợc quân sự.
2. Theo tiêu chuẩn mục đích và nhiệm vụ dự báo
Căn cứ vào câu hỏi xây dựng dự báo để làm gì? Có thể chia ra 2 dạng dự
báo: Dự báo tìm kiếm - xác định những tình trạng có khả năng của đối tợng dự
báo trong tơng lai; Dự báo định mức - xác định cách thức và thời hạn đạt đợc
những tình trạng có khả năng của sự vật hoặc hiện tợng (mục đích của dự báo).
3. Theo thời hạn dự báo
Thời hạn dự báo phụ thuộc vào đặc điểm, mục đích và đối tợng dự báo.
Trong các dự báo kinh tế - xã hội, căn cứ vào đặc điểm và mức độ phát triển của
hiện tợng dự báo có thể chia ra nh sau: Dự báo định kỳ (< 1 năm) - tính cho thời
gian trong suốt quá trình không có sự thay đổi căn bản của đối tợng dự báo; Dự
báo ngắn hạn (< 5 năm) - chỉ có sự thay đổi về lợng; Dự báo trung hạn (5 - 10
năm) - thay đổi cả về lợng và chất, chủ yếu là về chất; Dự báo dài hạn (15 đến 20
- 25 năm) và tơng lai lâu dài (>20 - 25 năm) - thay đổi căn bản về chất đặc trng
cho bối cảnh chung theo các khuynh hớng phát triển của sự vật hoặc hiện tợng.
4. Theo cơ sở khoa học xây dựng dự báo
Có thể chia ra: Dự báo khảo cứu (hình thức) - đợc xây dựng trên cơ sở

sử dụng các nguồn thông tin về các yếu tố (thu thập số liệu và thông tin về đối
tợng dự báo, xử lý và nghiên cứu chúng ); Dự báo trực giác - biểu thị nhận
định của cá nhân hoặc tập thể các nhà chuyên môn về t
ơng lai của đối tợng
dựa vào kinh nghiệm và trực giác (linh cảm) nghề nghiệp.
5. Theo phơng pháp xây dựng dự báo
Trong quá trình phát triển lý luận và thực hiện công tác dự báo sử dụng
nhiều phơng pháp khác nhau, đợc chia thành các phơng pháp cơ bản sau:
Đánh giá giám định; Mô hình suy luận; Mô hình toán chơng trình mục tiêu;
Định mức; Phối hợp.

10
Từ những vấn đề trên ta có thể xây dựng hệ phân loại các dự báo theo sơ
đồ dới đây.







Lĩnh
vực dự
báo
Đối
tợng
dự báo
Thời
hạn dự
báo

Cơ sở
KH dự
báo
Đặc
điểm d


báo
Phơn
g

pháp
dự báo
Dấu hiệu phân loại
- Tài nguyên
thiên nhiên
và sử dụng
- Khí tợng thuỷ
văn
- Dân số học
- Tiến bộ KHKT
- Kinh tế
- Xã hội
- Chính sách đối
ngoại
- Sách lợc
quân sự
- Tài nguyên
đất và sử
dụng

- Tài nguyên
nớc và sử
dụng
- Biến động
dân số
- > 20 loại dự
báo nhỏ khác
- Định kỳ
- Ngắn hạn
- Trung hạn
- Dài hạn
- Tơng lai
xa (lâu dài)
- Khảo cứu
- Trực giác
- Tìm kiếm
- Định mức
- Đánh giá
giám định
- Mô hình
suy luận
- N
g
oại su
y

toán học
- Mô hình
toán
- Định mức

- Chơng
trình mục
tiêu
- Phối hợp

Việc phân loại dự báo trên mang đặc điểm quy ớc. Trong thực tế chúng
không tồn tại độc lập mà liên quan chặt chẽ với nhau và tạo thành các tổ hợp phức tạp.
Ví dụ: Để dự báo khoa học và kỹ thuật cần sử dụng thông tin về phát
triển các ngành kinh tế quốc dân có liên quan; thực hiện dự báo kinh tế không
thể thiếu dự báo khoa học kỹ thuật. Những dự báo này rất quan trọng phục vụ
dự báo sử dụng tài nguyên thiên nhiên, Nh vậy để tiến hành dự báo theo một
hớng chính cần tiến hành dự báo theo các hớng liên quan:
- Hớng dự báo chính (chủ đạo) tạo ra diện dự báo - chính là đối tợng dự báo.
- Các hớng dự báo phụ tạo thành nền dự báo, tập hợp các điều kiện bên
ngoài (đối với đối tợng dự báo) cần thiết để giải quyết nhiệm vụ dự báo.
Khi xây dựng dự báo sử dụng đất, hớng phụ là: dự báo dân số, định
hớng phát triển kinh tế và xã hội. Chúng ảnh hởng đến các thông số của đối
tợng dự báo (cơ cấu diện tích đất nông nghiệp, đất khu dân c, đất xây dựng
công nghiệp, các công trình công cộng, cơ sở hạ tầng ), đến loại biện pháp bảo
vệ và cải tạo đất,

11
1.1.5. Các nguyên tắc cơ bản và trình tự xây dựng dự báo
Những nguyên tắc cơ bản xây dựng dự báo thuộc lý thuyết chung của dự
báo học gồm:
1. Tính hệ thống của công tác dự báo, tính liên kết và phối hợp của các
dự báo (giữa đối tợng dự báo và nền dự báo).
2. Tính thống nhất của các dự báo theo định mức và tìm kiếm có bản chất
và thời hạn dự báo khác nhau.
3. Tính phơng án của công tác dự báo - xây dựng các phơng án dự báo

dựa vào phơng án của nền dự báo.
4. Tính liên tục của công tác dự báo, chỉnh lý các dự báo tuỳ theo mức độ
xuất hiện những thông tin mới về đối tợng dự báo.
5. Tính kiểm định của dự báo (chứng minh dự báo): xác định độ tin, độ
chính xác và độ luận cứ của các dự báo.
6. Những sinh lợi (hiệu quả) của dự báo: tăng hiệu quả kinh tế do sử
dụng dự báo so với chi phí xây dựng dự báo.
Những nguyên tắc trên chủ yếu thể hiện về mặt kỹ thuật xây dựng dự báo
và đánh giá kết quả của công tác dự báo. Cha đề cập đến các yêu cầu kinh tế -
xã hội. Những vấn đề này sẽ là đối tợng nghiên cứu của dự báo học riêng biệt.
Ví dụ: Khi xây dựng các dự báo kinh tế cần tuân thủ nguyên tắc thống kê
cả điều kiện khách quan và các yêu cầu, chỉ thị theo ngành dọc. Khi dự báo sử
dụng đất nguyên tắc quan trọng dựa trên sở hữu nhà nớc (toàn dân) về đất đai,
tính hợp pháp của việc sử dụng đất và các yêu cầu có tính khoa học nh: không
ngừng cải tạo và bảo vệ đất.
Trình tự xây dựng dự báo khác nhau tuỳ thuộc vào các lĩnh vực dự báo,
phơng pháp đợc sử dụng, mục đích và nhiệm vụ đề ra. Có thể chia thành các
bớc chính sau:
1. Thu thập và nghiên cứu những thông tin cần thiết để mô tả đối tợng dự báo.
2. Thu thập các số liệu của nền dự báo (dự báo phụ).
3. Xây dựng các mô hình tìm kiếm và theo định mức, nghiên cứu và thu
nhận các thông số về dự báo.
4. Kiểm định các dự báo.
Nội dung các công việc trong các bớc thực hiện, đợc xác định trên cơ
sở nhiệm vụ dự báo. Trong đó xác định rõ mục đích, nhiệm vụ và trình tự xây
dựng dự báo. Tuỳ thuộc vào ý nghĩa của dự báo và phạm vi của đối tợng dự
báo sẽ lựa chọn cách thức phù hợp tổ chức xây dựng các dự báo.

12
1.2. các phơng pháp chung dự báo phát triển kinh tế - xã hội

Khoa học hiện đại đã đề xuất hàng loạt biện pháp có giá trị cho công tác
dự báo khoa học - kỹ thuật. Có thể chia toàn bộ những phơng pháp mà các
ngành khoa học khác nhau vận dụng để xây dựng dự báo phát triển đối tợng của
mình làm 3 nhóm chính: Các phơng pháp khoa học chung (hoặc là các phơng
tiện lôgic); Các phơng pháp liên khoa học; Các phơng pháp khoa học riêng.
- Các phơng pháp khoa học chung đợc căn cứ trên cơ sở vận dụng theo
một trình tự xác định, các thao tác t duy cho đối tợng dự báo. Kết quả là
thành lập một hệ thống những kết luận đề cập đến mối quan hệ giữa đối tợng
dự báo và các điều kiện mà trong đó đối tợng đang tồn tại. Các phơng pháp
dự báo khoa học chung bao gồm tất cả những phơng pháp do nghiên cứu lôgic
học đề xuất, bao gồm: Quan sát và thí nghiệm; Phân tích và tổng hợp; Dự kiến
và giải quyết; Quy nạp và suy diễn; Tơng tự hoá; Phân loại và hệ thống hoá;
Phơng pháp căn nguyên (tức là phơng pháp nghiên cứu sự xuất hiện, sự hình
thành đối tợng hay còn gọi là Phơng pháp gen ). Những phơng pháp
nêu trên đều đợc mô tả khá đầy đủ trong các tài liệu về lôgic học.
- Các phơng pháp liên khoa học là loại hấp dẫn hơn cả đối với các nhà
nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật khác nhau vì các phơng pháp
đó đợc sử dụng để dự báo một khối lợng lớn các hiện tợng - từ những phát
minh khoa học đến những chỉ tiêu kinh tế khác nhau. Các phơng pháp và hình
thức nghiên cứu đợc sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực khoa học tạo cơ sở
phơng pháp luận chung gồm: phơng pháp hệ thống, hình thức hoá trên cơ sở sử
dụng các phơng pháp toán học, thuyết điều khiển học, mô hình suy luận,
- Phơng pháp đặc thù (phơng pháp khoa học riêng) của dự báo đ
ợc
chia ra làm 3 nhóm: trng cầu ý kiến của các nhà giám định, ngoại suy và mô
hình hoá. Các phơng pháp chính là: đánh giá giám định, mô hình suy luận,
toán học (ngoại suy, mô hình hoá, lý thuyết xác suất và thống kê), định mức.
Ngoài ra còn sử dụng nhiều phơng pháp khác có ý nghĩa riêng do từng loại
dự báo học đảm nhận nghiên cứu. Ví dụ: Trong dự sử dụng tài nguyên đất
phơng pháp định mức có ý nghĩa quan trọng nhờ nó sẽ xác định đợc nhu cầu

đất cho từng ngành và từng xí nghiệp ở giai đọan dự báo, vì vậy việc xây dựng
các định mức có cơ sở khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng đối
với loại dự báo này.
Các phơng pháp thờng đợc áp dụng trong dự báo chung bao gồm:
1. Các phơng pháp dựa trên những đánh giá chuyên gia
*) Phơng pháp Tấn công no đợc phổ biến vào những năm 50 nh
là một hình thức biểu hiện có hệ thống những khả năng sáng tạo. Mục đích của

13
phơng pháp - phát hiện những t tởng mới trên cơ sở trực giác của nhà khoa
học trong quá trình tấn công não.
Tấn công não trực diện có thể do từng ngời hoặc các nhóm tiến hành.
Thực chất của phơng pháp là căn cứ vào giả thiết cho rằng trong một số lớn
các t tởng ít ra cũng phải có một vài t tởng có giá trị. Ngời ta thờng tấn
công não theo những quy tắc cơ bản sau:
- Phát biểu đề tài dới dạng những thuật ngữ cơ bản và chỉ có một tiêu
điểm (tức là quy về một mối);
- Không tuyên bố bất kỳ một t tởng nào là sai lầm và không dừng cuộc
tấn công lại;
-
ủng hộ bất kỳ một t tởng nào, ngay cả những t tởng chỉ có thể có
đợc trong tơng lai xa;
- Thờng xuyên động viên những ngời tham gia để tạo ra các quan hệ
tranh luận tự do.
*) Phơng pháp nhóm xung kích yêu cầu tiến hành tấn công não để
làm rõ sự nhất trí trong một vấn đề nào đó thuộc một nhóm 6 ngời.
* Phơng pháp sáng tạo thao tác đề nghị chỉ riêng ngời chủ trì thiết
kế đợc biết chính xác môi trờng của vấn đề và các biện pháp có thể có nhằm
giải quyết vấn đề đó. Mục đích tấn công trong trờng hợp này tìm lời giải chắc
chắn nhất.

*) Phơng pháp delphi. Có thể dùng một số phơng pháp để dựng nên bức
tranh có căn cứ khoa học về tơng lai của thế giới. Bản chất của một trong những
phơng pháp đó là căn cứ vào việc xử lý thống kê ý kiến của các nhà chuyên môn
về viễn cảnh của lĩnh vực chuyên ngành và các lĩnh vực có liên quan.
Mục đích của phơng pháp Delphi - tìm hiểu ý kiến của các nhà chuyên
môn về vấn đề nào đó trong điều kiện không tổ chức những cuộc tranh luận trực
diện giữa họ với nhau, nhng cho phép mọi ngời có thể cân nhắc lại ý kiến của
mình sau mỗi lần tham khảo câu hỏi và câu trả lời của tập thể. Đặc điểm nổi bật
của phơng pháp Delphi là sự vận dụng rộng rãi những đánh giá về lợng của các
dự báo. Điểm hạn chế cơ bản của việc lấy ý kiến chuyên gia là do có sự hoàn
toàn coi thờng các câu hỏi vì sự phát triển của xã hội và các quan hệ xã hội.
2. Phơng pháp nội suy và ngoại suy
Phép nội suy trong toán học đợc định nghĩa rất rõ ràng: Nếu cho hàm
f(x) và biết đợc các giá trị yj = f(xj) của nó, j = 0,1, n, tại các điểm x
0
, x
1
,
x
n
, thì việc xác định giá trị của hàm số tại các điểm x nằm giữa các điểm xj
đợc gọi là nội suy.

14
Trong quá trình nội suy, điều kiện cơ bản đối với hàm đã cho là:
- Hàm đó phải liên tục và có dạng giải tích.
- Đối với một số loại hàm cụ thể hoặc đạo hàm của chúng phải chỉ rõ những
bất đẳng thức xác định khả năng áp dụng phép nội suy đợc đối với hàm đã cho;
- Hàm cần phải có một số đạo hàm không đồng biến nhanh quá.
Có thể dùng thuật toán về hình thức giống phép nội suy vào việc tiên

đoán những tham số của một đối tợng thuộc bất kỳ khoa học nào. Thí dụ, tiên
đoán của D.I.Menđêlêc về các nguyên tố hoá học mới có thể phát biểu nh là sự
xác định các giá trị của đối tợng tiên đoán tại một số điểm nằm trong đoạn
x
0
, x
n
theo những giá trị cho trớc của các tham số ở tại các điểm x
0
< x < x
n
.
Ngoại suy trong toán học đợc hiểu nh sau: Nếu biết giá trị của hàm tại
các điểm x
0
<x
1
, <x
n
trong khoảng ở {x
0
, x
n
} thì thủ thuật xác định giá trị của
hàm tại điểm x ngoài khoảng {x
0
, x
n
} đợc coi là ngoại suy. Phép ngoại suy
luôn cho những giá trị gần đúng của hàm f(x). Các giá trị này có một sai số nào

đấy thờng đợc tính theo những công thức riêng cho từng loại ngoại suy.
Khá phổ biến là có thể dùng các công thức nội suy cho cả ngoại suy.
Trong các khoa học mà đối tợng của chúng không đợc xác định đến mức độ
đủ chính xác để có thể vận dụng đợc khái niệm hàm thì thuật ngữ ngoại suy
đợc dùng để biểu diễn thuật toán lôgic chuyển các kết luận nhận đợc ở trong
khoảng quan sát (trong một tập hợp con nào đấy) sang các hiện tợng nằm
ngoài khoảng quan sát (sang tập hợp con khác hoặc toàn bộ tập hợp).
Trong ngoại suy có thể phân ra bốn nhóm đờng cong biểu thị các khuynh
hớng khác nhau:
- Nhóm thứ nhất: sự tăng tuyến tính của một thông số nào đó cùng với sự
tắt dần ở cuối giai đoạn đang xét.
- Nhóm thứ hai: chia thành hai nhóm nhỏ: độ tăng cấp số nhân thuần tuý
và các hàm mũ có sự bão hoà. Độ tăng cấp số nhân thuần tuý quan sát thấy ở sự
phát triển của rất nhiều thông số, thuộc các hệ thông dụng, đồ thị biểu diễn các
xu hớng đó là những hàm mũ thuần tuý.
Nhóm thứ hai gồm các hàm mũ có sự bão hoà - những đờng cong logictic
hoặc những đờng cong S - ảnh. Các đờng cong đó có thể đối xứng (các mô
hình Lênxơ và Hatman) hoặc không đối xứng (mô hình Hompetx) mô hình
Hompetx mô tả nhiều hiện tợng kinh tế và đợc biểu diễn bằng công thức sau:
t
-ke
P = Le
-be
(1.1)
Trong đó: P- Thông số đang xét.

15
L- Giới hạn của thông số.
b, k - Các hằng số.
t - Thời gian

- Nhóm thứ ba: Gồm những đờng cong đặc trng cho độ tăng hàm mũ
kép có kèm bão hoà đoạn cuối.
- Nhóm thứ t: Gồm những đờng cong mà lúc đầu tăng chậm về sau
tăng theo hàm mũ rất nhanh và đoạn cuối là bão hoà.
Độ tin cậy và độ chính xác của các dự báo, của các khuyng hớng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật nhận đợc bằng phơng pháp ngoại suy còn có thể tăng
thêm nữa nếu nh vận dụng phơng pháp đó cùng với phơng pháp nào đấy
thành một tổ hợp các phơng pháp (phơng pháp chuyên gia, ).
Nhiều khi, sự vận dụng tuỳ tiện phơng pháp ngoại suy thờng dẫn đến
những nghịch lý và sai lầm. Vì vậy, cần phải hoàn thiện những giới hạn và các
điều kiện rõ ràng khi áp dụng phơng pháp ngoại suy nh là một phơng pháp
dự báo. Sự hoàn thiện này có thể đi theo con đờng phân tích hàng loạt thí dụ
vận dụng phép ngoại suy để dự báo trong thời gian trớc đây và phát hiện
những nguyên tắc chung về phơng pháp luận cho việc áp dụng phép ngoại suy
trong các tình huống khác nhau.
3. Phơng pháp mô hình hoá
Cơ sở của phơng pháp này là khả năng xác định sự tơng quan giữa hiểu
biết về các đối tợng t duy và chính các đối tợng đó. Những hiểu biết của con
ngời về đối tợng đã đợc vật chất hoá ở dạng các mô tả, thể hiện, dùng sơ
đồ, chính là sự phản ánh chính xác hoặc gần đúng đối tợng đó. Hình thức vật
chất hoá sự hiểu biết (về một đối tợng nào đó) chính là mô hình của chính đối
tợng đó. Ph
ơng pháp khảo sát trong đó không nghiên cứu chính các đối tợng
của nhận thức mà chỉ nghiên cứu các mô hình của chúng và sau đó các kết quả
lại đợc chuyển từ mô hình sang đối tợng đợc gọi là mô hình hoá. Dựa vào
đặc điểm của các mô hình có thể phân biệt một số kiểu mô hình hoá nh sau:
- Mô hình hoá vật thể: dựng lại mô hình những đặc trng cơ bản của đối
tợng. Các đặc trng này bao gồm đặc trng vật lý, đặc trng hình học, đặc
trng chức năng và đặc trng động thái.
- Mô hình hoá vật lý: nghiên cứu trên mô hình các quá trình vật lý xẩy ra

trong đối tợng. Trong trờng hợp này áp dụng rộng rãi lý thuyết đồng dạng và
lý thuyết độ đo.
- Mô hình toán - vật thể: mô tả các quá trình vật lý xẩy ra trong đối tợng dới
dạng hệ các công trình vi phân và giải các hệ phơng trình đó trên máy tính điện tử.

16
- Mô hình hoá ký hiệu (bằng ký hiệu toán học hoặc logic học): đó là sự mô
tả đối tợng và các quá trình xảy ra trong đối tợng bằng những nhóm chữ cái (ký
hiệu) thuộc bảng chữ cái nào đó với các phép biến đổi áp dụng trên các nhóm
chữ đó và giải thích các kết quả biến đổi trong lĩnh vực xác định của đối tợng.
- Mô hình hoá thông tin: nếu nh thay cho bảng chữ cái bằng một trong
những ngôn ngữ máy để làm ký hiệu mô hình hoá và các biến đổi do máy tính
điện tử thực hiện thì chúng ta sẽ nhận đợc mô hình thông tin.
Tất cả các kiểu mô hình hoá nói trên đều có thể coi là phơng pháp mô
hình hoá. Nhiệm vụ đợc nêu ở đây là: Hãy xác định xem trong những điều
kiện nào thì mô hình có đợc chức năng dự báo và phải có những hạn chế và
nhợng bộ nào để giải thích kết luận về tính chất của các phần tử thuộc mô hình
và về tơng quan giữa chúng nh là tiên đoán về những tính chất và các tơng
quan giữa các phần tử của đối tợng.
4. Các phơng pháp thuộc lý thuyết xác suất và thống kê
Các phơng pháp mô hình hoá thống kê về cơ bản dựa trên sự tồn tại mối
quan hệ phụ thuộc qua lại giữa các đối tợng của thế giới hiện thực. Khái niệm
tơng quan có giá trị thực tiễn rất lớn trong sự nghiên cứu các quá trình và các
hiện tợng không liên hệ với nhau bằng các mối quan hệ nhân - quả. Thờng có
thể hiểu tơng quan là những thay đổi tơng ứng của một đối tợng xảy ra khi có
sự thay đổi của đối tợng khác có liện hệ với đối tợng thứ nhất. Hoặc thờng có
thể thấy tơng quan giữa hai đại lợng không phải là một cái gì khác mà chính là
sự phản ánh tác động của đại lợng thứ ba lên hai đại lợng ban đầu.
Nếu có liên hệ tơng quan giữa hai sự kiện và muốn căn cứ vào giá trị đã
cho của một sự kiện để nói về sự kiện kia thì thờng dùng các phơng trình hồi

quy. Hồi quy đơn giản đợc biểu diễn bởi phơng trình y = bx + a, trong đó a
và b là các hệ số có thể xác định bằng cách giải hệ phơng trình:
y = bx + na (1.2)
xy = bx
2
+ ax
Nếu muốn nghiên cứu mối liên hệ tơng quan giữa nhiều sự kiện hoặc
nhiều đại lợng thì sử dụng các phơng trình hồi quy tập hợp, trong đó sai số
của đại lợng cần tìm đợc xác định từ tổ hợp tuyến tính của các đại lợng
không phụ thuộc đang xét. Phơng trình hồi quy tập hợp có thể viết nh sau:
y =
1
x
1
+
2
x
2
+
3
x
3
+ (1.3)
Trong đó và là những hằng số (xác định bằng phơng pháp chọn lọc).
Khi đánh giá độ tin cậy của các dự báo lập trên cơ sở tơng quan thống
kê cần đảm bảo 2 yêu cầu:

17
- Kiểm tra t liệu thống kê thu đợc về sự phong phú theo hệ số đại diện cho trớc;
- Đặt cơ sở cho khả năng áp dụng phơng pháp xác suất đợc chọn vào

hiện tợng cần nghiên cứu.
Trong nhiều tài liệu thờng hay gặp những ý kiến về tính chất vô định
của toán học thống kê. Khó mà đồng ý với những tác giả cho rằng các phơng
pháp thống kê là vạn năng. Có thể ủng hộ ý kiến cho rằng: Cần có hàng loạt
giả thiết để làm cơ sở xuất phát cho bất kỳ tiên đoán hoặc dự báo nào. Nếu
những giả thiết đó đúng thì chúng ta sẽ có đợc những dự báo chính xác hoặc
đủ chính xác. Nếu những giả thiết ban đầu mà sai thì dự báo sẽ không chính xác
dù cho những số liệu thu đợc để dự báo có chính xác đến đâu đi chăng nữa
Thống kê học giúp chúng ta tiên đoán, nhng bản thân thống kê học không thể
đảm bảo đợc tính đúng đắn của tiên đoán này. Nhờ thống kê có thể đạt đợc
những kết quả tốt trong công tác dự báo nhng về căn bản, tất cả đều phụ thuộc
vào những giả thiết ban đầu.
Một trong những nhiệm vụ của khoa học dự báo là tiếp tục nghiên cứu
mở rộng khả năng áp dụng các t tởng, các định lý của lý thuyết xác suất và
thống kê toán học làm phơng pháp dự báo.
5. Phơng pháp tơng tự hoá
Dự báo dự theo tơng tự hoá đã đợc sử dụng từ lâu trong các lĩnh vực
đời sống xã hội. Nhng sự hoàn thiện một cách có hệ thống các phơng pháp dự
báo trên cơ sở tơng tự hoá chỉ mới đợc tiến hành cách đây không lâu.
Phơng pháp dự báo phát triển kỹ thuật dựa trên tơng tự với tiến hoá của
thế giới động vật do nhà bác học nổi tiếng Lenx hoàn thiện dựa vào kết quả
nghiên cứu các công trình của nhà sinh vật học R. Pirl. Năm 1924 - 1925 R.Pirl
đã phát hiện ra những quy luật thú vị của độ tăng các tế bào chuột bạch.
Theo dõi sự tơng tự giữa độ tăng của các thông số sinh vật học và độ tăng
của thông tin khoa học Lenx đã đề nghị một công thức xác định thông tin mới:
L
I = (1.4)
1- ae
-bt
Trong đó:

I - Lợng thông tin có tại thời điểm t;
L - Giới hạn trên của thông tin;
t - Thời gian;
a - Hằng số không có bậc;
b - Hằng số (bậc - thời gian).

18
Đồ thị của công thức trên chính là đờng cong S - ảnh. Công thức này
giải thích đúng những hiện tợng trong khoa học nh độ tăng số lợng các nhà
bác học, độ tăng khối lợng xuất bản phẩm
Xây dựng các dự báo khoa học kỹ thuật dựa trên tơng tự hoá nh Lenx
đề xuất là một điều rất hấp dẫn. Nhng những dự báo nhận đợc trong trờng
hợp này không thể coi là đáng tin cậy đợc nếu nh chúng không đợc kiểm tra
bằng những phơng pháp khác nào đấy.
1.3. vai trò của dự báo trong kế hoạch hoá và quản lý nền kinh
tế quốc dân
Trong quản lý nền kinh tế quốc dân bộ phận trung tâm là kế hoạch hoá. ở
mức độ khoa học cao nhất là xây dựng kế hoạch cho 5 năm và xác định các
hớng chính về phát triển kinh tế - xã hội cho 10 năm, đồng thời tăng cờng
công tác xây dựng các dự báo cho 15 - 20 năm hoặc lâu hơn. Công tác dự báo
lại là bộ phận cấu thành quan trọng của công tác kế hoạch hoá.
Để tăng thời hạn kế hoạch cần thiết xây dựng các tài liệu tiền kế hoạch -
đó là các dự báo. Chúng giúp cho cơ quan xây dựng kế hoạch có lợng thông
tin cần thiết về các hớng có thể và hậu quả phát triển, về các biện pháp quan
trọng và phơng tiện đạt đợc nhiệm vụ đặt ra, về nhu cầu vật chất, lao động,
kinh phí, từ đó đa ra khả năng cách giải quyết có hiệu quả nhất, chọn các
thông số đa vào trong kế hoạch, thống nhất các chỉ tiêu phải thực hiện.
Dự báo là giai đọan cần thiết của quá trình xây dựng kế hoạch, là bộ phận
cấu thành của kế hoạch hoá. Dự báo và lập kế hoạch là 2 giai đọan liên kết nhau
của một quá trình quản lý. Dự báo giải quyết những vẫn đề cơ bản sau:

- Xác định xu thế phát triển của đối tợng.
- Chỉ ra những yếu tố cụ thể quyết định đến những xu thế đó, cho biết
những hớng nghiên cứu trong tơng lai.
- Xác định quy luật, đặc điểm, khả năng phát triển của đối tợng theo dự
báo và biện pháp tác động.
Thời hạn, độ lớn của những đặc trng bằng số và các tham số khác trong
dự báo mang tính xác suất và nhất thiết phải xét đến khả năng điều chỉnh. Khả
năng này sẽ có nếu nh quá trình hoàn thiện các dự báo là liên tục.
Đặc thù của các dự báo còn thể hiện ở chỗ hiệu quả của chúng chỉ có
thể đạt đợc trong điều kiện có mặt của một số phơng án dự báo về cùng một
sự kiện. Dự báo nhiều phơng án có khả năng bao quát toàn thể mọi sự thay
đổi có thể có đối với các điều kiện, đối với những tình huống mới v.v Do
đó, dựa vào trình tự xuất hiện những biến đổi nói trên thờng chuyển từ một

19
phơng án này sang phơng án khác nhng giữ nguyên khả năng điều khiển
tối u đối với quá trình.
Công tác dự báo là một khâu của công tác kế hoạch hoá và đợc tiến
hành trớc xây dựng kế hoạch. Các dự báo tạo khả năng hoàn thiện các kế
hoạch nền kinh tế quốc dân, cải tạo toàn bộ cơ chế quản lý cũng nh soạn thảo
sách lợc đúng về chính trị và kinh tế cho giai đoạn lâu dài (trên 10 - 15 năm).
Đôi khi chúng giúp cho việc xác định hớng hợp lý về sử dụng tài nguyên thiên
nhiên, đặc biệt khi nguồn dự trữ của các loại tài nguyên có hạn và khả năng
khôi phục lại chậm.
Công thức thông dụng quản lý (điều khiển) - có nghĩa thấy trớc đã
trở thành cần thiết và quan trọng. Điều này liên quan đến kế hoạch hoá nói
chung cũng nh với bộ phận cấu thành quan trọng của nó - là dự báo. Những
nguyên nhân khách quan đảm bảo xây dựng những tài liệu tiền kế hoạch cho
thời gian lâu dài là:
- Tăng không ngừng nhịp độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng

nhu cầu xã hội trong điều kiện giữ gìn và cải tạo tốt môi trờng thiên nhiên.
- Vai trò các chơng trình tổng hợp dài hạn về khoa học - kỹ thuật,
kinh tế, xã hội, tăng lên, thực hiện chúng thờng vợt quá giới hạn một kế
hoạch 5 năm.
- Nhiệm vụ lớn và phức tạp đợc giải quyết trong tất cả các lĩnh vực của
cuộc sống xã hội đòi hỏi chú ý đến không chỉ những hậu quả trớc mắt và phải
cho cả lâu dài.
- Để xây dựng sự kế tục trong chính sách cần các phơng hớng chiến
lợc cho một vài kế hoạch 5 năm sắp tới.
- Mối liên quan về phơng diện hợp tác với các nớc.
Khác với dự báo, kế hoạch có những khoảng thời gian và các điều kiện
xác định đơn trị đối với việc thực hiện một sự kiện nào đó. Căn cứ vào định
nghĩa kế hoạch nh là một hệ thống đợc quy định trớc về các biện pháp, đợc
xét tr
ớc đến trình tự và thời hạn hoàn thành các công việc, tính không đơn trị
của một chỉ tiêu nào đó dù chỉ rất nhỏ sẽ dẫn đến sự không ổn định của toàn thể
toà nhà kế hoạch.
Từ đó cho thấy, để hạn chế sự rủi ro đến mức thấp nhất cần phải gạt đi
những dự báo mang tính không đơn trị mà chỉ chấp nhận một phơng án dự
báo phù hợp nhất cho việc lập kế hoạch. Nh vậy, dễ dàng nhận thấy vai trò và
quan hệ giữa dự báo và kế hoạch. Trong đó, dự báo - là công việc xây dựng
các mô hình sự kiện nhiều phơng án, công việc này tiến hành trớc kế hoạch,

20

×