CUỘC THI TÌM HIỂU 60 NĂM CHIẾN THẮNG
ĐIỆN BIÊN PHỦ
(7/5/1954-7/5/2014)
Họ và Tên :Mai Thanh Điền
Ngày-tháng-năm sinh:25-04-1994
Nghề nghiệp:Sinh Viên - Giới tính:Nam
Nơi cư trú:Ấp Bình Chánh Đơng-Khánh Bình
-Tân Un-Bình Dương
Đơn vị học tập:ĐH.Thủ Dầu Một
SĐT:0975048225
Email:
1
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Câu1:Vì sao Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh chọn Điện Biên Phủ làm điểm
quyết chiến chiến lược?
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến
lược vì:
Theo đánh giá của Nava và nhiều nhà quân sự Pháp-Mỹ thì Điện Biên Phủ ở
vào “một vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đơng
Dương mà cịn đối với miền Đơng Nam Á,một trục giao thong nối liền các miền
biên giới Lào,Thái Lan,Miến Điện,Trung Quốc,như ‘Cái bàn xoay” có thể xoay đi
bốn phía.
Việt Nam,Lào,Miến Điện,Trung Quốc,như “cái chìa khóa”bảo vệ Thượng
Lào,từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1950-1953
và tạo điều kiện để đánh tiêu diệt quân chủ lực Việt Minh.
Tại hội nghị Bộ chính trị bàn về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954,chủ
tịch Hồ Chí minh nhần mạnh”về hướng hoạt động,lấy Tây Bắc làm hướng
chính,các hướng khác là hướng phối hợp.Hướng chính hiện nay khơng thay
đổi,nhưng hoạt động có thể thay đổi .Phép dùng binh là phải” thiên biến vạn hóa
“.Bộ chính trị cho rằng,Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh,nhưng lại có
thế yếu là bị cơ lập.Nó rất xa hậu phương của địch,mọi tiếp tế vận chuyển đều phải
dựa vào đường không.Đối với ta, ,Điện Biên Phủ cũng là nơi xa hậu phương
lớn.Để tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ ,khó khăn lớn nhất của ta là vấn đề
cung cấp.Quân đội,hậu phương ta phát triển thuận lợi ,có thể khắc phục khó khăn
về đường sá,vận tải tiếp tế.
Ngày 6/12/1953,Bộ chính trị thong qua kế hoạch tác chiến của Tổng Tư Lệnh và
Quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Câu 2:Trong chiến dịch Điện Biên Phủ Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có
quyết định gì khó khăn nhất?
-Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cho rằng thực hiện phương án “Đánh nhanhThắng nhanh”là quá mạo hiểm,Đại tướng trình bày suy nghĩ của mình với những
so sánh về lực lượng giữa ta và địch,khơng thể huy động tồn bộ sức mạnh của ta
tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trong một vài ngày.Khi đi thăm đường kéo pháo,Đại
Tướng cảm thấy băn khoăn .Con đường kéo pháo thì khá dài,nằm rên địa hình
hiểm trở,nhiều dốc,vực sâu rất khó đưa pháo vào trận địa đúng thời gian dự
kiến,việc tiếp đạn khi chiến đấu sẽ rất khó khăn.Nhớ lời Bác dặn trước khi lên
đường và Nghị quyết Trung ươnh hồi đầu năm “chỉ được thắng không được bại,vì
bại thì hết vốn”
2
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định ba khó khăn mà chúng ta sẽ gặp khi tiến
công địch:
+Thứ nhất,bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là Tiểu đồn địch tăng
cường,có cộng sự vững chắc là Nghĩa Lộ,Nà Sản,chúng ta mới đánh vào vị trí Tiểu
đồn,dưới Tiểu đoàn,cộng sự dã chiến nằm trong tập đoàn cứ điểm vẫn có những
trận khơng thành cơng ,bộ đội thương vong nhiều.
+Thứ hai: trận này tuy khơng có máy bay, xe tăng nhưng đánh hiệp đồng binh
chủng bô binh,pháo binh với quy mô lớn lần đầu tiên mà chưa qua diễn tập.Vừa
qua có Trung đồn trưởng xin trả lại pháo vì khơng biết phối hợp như thế nào.
+Thứ ba:bộ đội ta từ trước đến nay mới chỉ quen tác chiến ban đêm,ở những địa
hình dễ ẩn náu.Chủ lực của ta chưa có kinh nghiệm cơng kiên ban ngày trên trận
địa phẳng,với một kẻ địch có ưu thế với máy bay,pháo binh và xe tăng …Trận
đánh sẽ diễn ra trên một cánh đồng dài 15 km và rộng 6-7 km,tất cả những khó
khăn trên đều chưa được giải quyết,khắc phục ngay được.
Sau ki suy tính rất kĩ lưỡng,Đại tướng quyết định cho các đơn vị rút khỏi trận
địa để nghiên cứu một cách khác dù bộ đội có thắc mắc,phải chuyển từ phương
án”Đánh nhanh-Thắng nhanh”sang “Đánh chắc-Tiến Chắc’.Tổng chỉ huy chiến
dịch Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận”Để đảm bảo nguyên tắc cao nhất là
“Đánh thắng chắc”,cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ Đánh nhanh thắng
nhanh sang đánh chắc-tiến chắc.Nay quyết định hỗn cuộc tiến cơng .Ra lệnh cho
bộ đội trên toàn tuyến rút lui về điểm tập kết và kéo pháo ra.Cơng tác chính trị đảm
bảo triệt để,chấp hành mệnh lệnh chiến đấu.Hậu cần chuyển sang chuẩn bị phương
châm mới.Đây là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời Đại tướng
Võ nguyên Giáp.
Câu 3:Hãy cho biết chiến dịch Điện Biên Phủ có những đơn vị nào trực tiếp
của ta tham gia và mật danh của những đơn vị là gì?Sở chỉ huy chiến dịch của
ta đặt ở những nơi nào trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
Có 4 đại đồn bộ binh và 1 đại đồn cơng binh-pháo binh trực tiếp của ta tham gia
Chiến dịch Điện Biên Phủ :
+Đại đoàn 308
(Đại đoàn việt Bắc)
+ Đại đoàn312
(Đại đoàn Bến Tre)
+ Đại đồn 316
(Đại đồn Biên Hịa)
+ Đại đồn 304
(Đại đồn Nam Định)
+ Đại đồn cơng pháo 351
(Long Châu).
3
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Đại đồn 308
Đại đồn 312
4
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Đại đồn cơng pháo 351
Đại đồn 316
5
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành Sở chỉ huy chiến dịch của ta đặt ở
những nơi :
-Sở chỉ huy Thẩm Púa(km14,680,Mường Thanh)
- Sở chỉ huy từ Tuần Giáo đi Mường Thanh ( km62 thì rẽ phải)
- Sở chỉ huy là Sở chỉ huy chính thức của chiến dịch Điện Biên Phủ,được thiết
lặp ở khu rừng Mường Phăng ( 31-01 đến 15-5-1954).
Câu 4: Hãy nêu diễn biến,kết quả,ý nghĩa lịch sử của chiến dịch Điện Biên
Phủ?
Hầm chỉ huy tướng pháp
6
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Diễn biến:
Trận đánh diễn ra trong 56 ngày đêm vì qn Việt Minh có khó khăn trong hậu cần
nên khơng thể tiến công liên tục mà chia thành các đợt tiến công. Sau mỗi đợt lại tổ
chức lại quân số, bổ sung hậu cần.
Đợt 1 từ 13 tháng 3 đến 17 tháng 3, Quân Việt Minh tiêu diệt phân khu Bắc của tập
đoàn cứ điểm. 17 giờ 5 phút chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, trận đánh bắt đầu.
Quân đội Nhân dân Việt Nam sau đợt bắn pháo dữ dội, tiến công một trong các cứ
điểmkiên cố nhất là cụm cứ điểm Him Lam (Béatrice) và sau một đêm đã chiếm
xong cụm cứ điểm này; sau đó đến 17 tháng 3 Việt Minh lần lượt mỗi ngày diệt
một cứ điểm: đồi Độc Lập (Gabrielle), Bản Kéo (Anne Marie 1, 2) và toàn bộ phân
khu Bắc.
Ngay từ những ngày đầu (từ 23 tháng 3) pháo binh của Việt Nam đã loại bỏ khả
năng cất, hạ cánh của sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm, từ đó trở đi các máy
bay Pháp chỉ cịn tiếp tế được cho tập đồn cứ điểm bằng cách thả dù điều này cho
thấy cầu hàng không mà bộ chỉ huy Pháp đặt nhiều kỳ vọng thực tế là rất yếu kém
trước cách đánh áp sát của đối phương.
Nói riêng về đạn pháo, trong q trình chiến đấu tại ĐBP người Pháp đã bắn hết
hơn 110.000 quả đạn lựu pháo cỡ 105mm trở lên. Việt Minh đã bắn 20.000 quả
105mm, trong số này có 5.000 quả là đoạt được từ dù tiếp tế của đối phương.
7
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Ngay từ những ngày đầu của đợt 1 quân Pháp đã nhận thức rõ được những điểm
yếu chết người của mình và tương lai thất bại rõ ràng nhưng họ vẫn tăng cường
cầm cự Điện Biên Phủ đến mức tối đa vì hy vọng khi mùa mưa đến Việt Minh
khơng thể giải quyết vấn đề hậu cần và sẽ bỏ cuộc, Điện Biên Phủ sẽ tránh được
đầu hàng. Sau đó khi mùa mưa không giúp được, bộ chỉ huy Pháp hy vọng cầm cự
càng lâu càng tốt để Hội nghị Genève sẽ nhóm họp vào đầu tháng 5, sẽ có ngừng
bắn trước khi tập đoàn sụp đổ. Nhưng hy vọng này cũng khơng có được, Điện Biên
Phủ đầu hàng một ngày trước khi nhóm họp Hội nghị Genève về vấn đề Đông
Dương.
Đợt 2 từ 30 tháng 3 đến 30 tháng 4, Việt Minh đánh phân khu trung tâm đặc biệt
là dẫy điểm cao quan trọng phía đơng, vây lấn bóp nghẹt tập đồn cứ điểm. Đây là
đợt tiến cơng vào phân khu trung tâm chủ yếu nhằm chiếm dẫy đồi phía đơng
khống chế cánh đồng Mường Thanh (các cụm Dominique và Eliane). Tại đây hai
bên đánh nhau giành đi giật lại các mỏm đồi có tính sống cịn đối với tập đoàn cứ
điểm, đặc biệt là các đồi A1 (Eliane 2), C1 (Eliane 1), D1 (Dominique 2), thương
vong của hai bên rất lớn. Phía Pháp dựa vào hầm ngầm, lơ cốt để cố thủ và đưa
quân từ các điểm khác dùng xe tăng và lính dù, lính lê dương (légionnaire) để phản
kích, các cứ điểm này vì có tính sống còn với quân Pháp đã được quân phòng ngự
chiến đấu ngoan cường, quyết liệt phản kích liên tục để giữ vững và đã chống cự
đến ngày cuối cùng của tập đồn cứ điểm.
Để chống lại các cứ điểm phịng ngự kiên cố của quân Pháp, quân đội Việt Minh
đã áp dụng chiến thuật "vây lấn" rất có hiệu quả bằng hệ thống chiến hào họ đào
các giao thông hào dần dần bao vây và siết chặt, tiếp cận dần vào các vị trí của
Pháp. Các chiến hào này tránh cho qn tiến cơng thương vong vì pháo binh và
khơng qn địch và vào sát được vị trí của quân địch, làm vị trí bàn đạp tấn cơng
rất thuận lợi. Qn Pháp ngay từ ngày đầu tiên của trận đánh đã nhận thức rất rõ sự
nguy hiểm của cách đánh này mà khơng có phương sách nào để khắc chế. Qn
Việt Minh vây lấn đào hào cắt ngang cả sân bay, đào hào đến tận chân lô cốt cố
thủ, khu vực kiểm soát của quân Pháp bị thu hẹp đến mức không thể hẹp hơn.
Cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ càng ngày càng yếu thế cho phía Pháp. Quân
Pháp chỉ cịn trơng đợi vào dù tiếp tế nhưng phạm vi chiếm đóng bị thu hẹp và máy
bay bị hệ thống phịng khơng của Việt Minh đánh mạnh nên dù tiếp tế và cả lính
nhảy dù phần nhiều rơi sang phía đối phương. Mùa mưa lại tới, hầm hố của quân
phòng thủ trở nên lầy lội thương binh không di tản đi được, lính chết khơng có chỗ
chơn, bệnh tật, đường ruột phát sinh, đối phương lại áp sát bắn tỉa, tiếp tế thiếu mà
việc lấy được dù cũng vô cùng khó khăn đi kèm với thương vong: quân Pháp
thường phải đói khát đến đêm mới dám ra lấy dù. Tình cảnh của quân Pháp ngày
càng bi đát và đi đến cùng cực. Điện Biên Phủ cho thấy khi bị bao vây cơ lập thì
một tiền đồn dù mạnh đến đâu rồi cũng sẽ bị tiêu diệt.
8
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Đợt 3 từ 1 tháng 5 đến 7 tháng 5, Việt Minh đánh dứt điểm dẫy đồi phía đơng và
tổng tiến cơng tiêu diệt các vị trí cịn lại. Sau khi lực lượng của Pháp đã trở nên
tuyệt vọng, suy kiệt, bổ sung bằng dù khơng cịn đủ để duy trì sức chiến đấu, và
quân Pháp ở Bắc bộ cũng đã hết lính dù và lính légionnaire có thể ném tiếp xuống
Điện Biên Phủ, quân Việt Minh tổ chức đợt đánh dứt điểm các quả đồi phía đơng.
Để chống lại hệ thống hầm ngầm cố thủ không thể xung phong đánh chiếm được
trên đồi A1 có vị trí quyết định, bộ đội công binh Việt Nam đã đào một hầm ngầm
phía dưới và cho nổ 1 tấn thuốc nổ hất tung hệ thống hầm ngầm cố thủ cuối cùng.
Đến sáng ngày 7 tháng 5 các quả đồi phía đơng này đã thất thủ hồn tồn mà phía
Pháp khơng cịn lực lượng khả dĩ chiếm lại, Quân đội Nhân dân Việt Nam tổng
tiến công trên khắp các mặt trận quân Pháp đã sức tàn lực kiệt quyết định đầu
hàng, Quân đội Nhân dân Việt nam bắt Thiếu tướng chỉ huy Christian de Castries
và toàn ban tham mưu tập đoàn cứ điểm.
Cụm phân khu Nam Hồng Cúm mưu toan chạy sang Lào nhưng bị quân Việt Minh
đuổi theo tất cả đã bị bắt khơng đi thốt. Gần 10.000 số qn Pháp cịn lại tại Điện
Biên Phủ đã bị bắt làm tù b
Kết quả trận đánh
Hầm của tướng giáp tại đồi ông giáp (cách Tx Điện biên 1 tiếng đi xe ô tô)
9
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Xe tăng ta tiến công vào Dinh Độc lập
10
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Thiệt hại về
phía Pháp là 1.747 người chết, 5.240 người bị thương, 1.729 người mất tích và
11.721 bị bắt làm tù binh. Ngồi ra cịn có 2 phi cơng Mỹ chết và 1 bị thương.
Thiệt hại về phía Việt Minh theo Việt Minh là 4.020 người chết, 10.130 người bị
thương, và 792 mất tích. Hiện nay tại ĐBP, có 3 nghĩa trang liệt sỹ trận này là
nghĩa trang phía gần đồi Độc Lập, nghĩa trang gần đồi Him Lam và nghĩa trang
gần đồi A1, lần lượt các nghĩa trang trên có 2.432, 896 và 648 ngôi mộ. Tổng cộng
là 3.976 ngôi. Do một trận lũ lớn vào năm 1954 mà 3.972 mộ là liệt sỹ chưa biết
tên. Chỉ có 4 ngơi được đặt riêng biệt là mộ các anh hùng Bế Văn Đàn, Tơ Vĩnh
Diện, Phan Đình Giót, Trần Can là cịn biết được.
-Một ngày sau khi Pháp để Điện Biên Phủ thất thủ, ngày 8 tháng 5 năm 1954, Hội
nghị Genève bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Sau hội nghị này, Pháp công
nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của các nước Đơng
Dương trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông
Dương.
Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ:
+Đối với nhân dân ta
-Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi trong
lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, như một Bạch
Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa trong thế kỷ XX, một chiến thắng thể hiện
sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại.
-Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược
Đông - Xuân 1953-1954 của quân và dân ta, đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, chấm dứt ách xâm lược
của thực dân Pháp trên đất nước ta cũng như trên bán đảo Đông Dương. Chiến
thắng này đã trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hịa bình ở Đông Dương.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với trận quyết chiến chiến
lược Điện Biên Phủ đã bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám,
mở ra giai đoạn cách mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
-Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào của Đảng ta, nhân
dân ta, quân đội ta, xứng đáng với truyền thống anh hùng của dân tộc ta. Tinh
thần Điện Biên Phủ sống mãi và là sức mạnh, là động lực, là nguồn cổ vũ nhân
dân ta tiến lên giành những thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
11
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
+ Đối với thế giới
-Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một sự kiện chấn động địa cầu, là một
mốc vàng của thời đại, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm
vi thế giới, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ Latin
đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do. Chiến thắng này không chỉ là chiến
thắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược mà còn là chiến thắng của nhân dân Lào và Campuchia chung chiến hào
chống Pháp trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh chống chiến tranh xâm lược, vì hịa
bình và tiến bộ xã hội trên tồn thế giới, trong đó có nhân dân Pháp.
-Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đánh sập thành lũy của chủ nghĩa thực dân
cũ ở vị trí xung yếu nhất, thu hẹp dinh lũy của chúng, làm thất bại ngay từ đầu
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới. Chiến thắng
này không chỉ soi sáng con đường các dân tộc đấu tranh tự giải phóng, mà cịn
chỉ rõ sự thất bại tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên phạm vi
toàn thế giới.
ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975
Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, nhân dân ta đã vĩnh viễn thốt khỏi ách nơ
dịch của các nước đế quốc, đất nước vĩnh viễn thoát khỏi họa bị chia cắt, giải
phóng hồn tồn miền Nam, hồn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trên cả nước, bảo vệ những thành quả bước đầu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự
do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đứng vào hàng ngũ các quốc gia, dân tộc tiên
phong trên thế giới.
Qua Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta được rèn
luyện cả về phẩm chất lẫn tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn vị trí và sức
mạnh của mình trong thời đại mới.
Qua đại thắng mùa Xuân năm 1975, vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng lên
ngang tầm các nước, các dân tộc trên thế giới.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự kiện quan trọng vừa đánh dấu một mốc son
chói lọi trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, lại
cịn có ý nghĩa quốc tế to lớn.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta thắng lợi đã thức tỉnh,
cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới đứng lên dũng cảm đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân cũ và mới
12
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Cuộc chiến đấu đó cịn cống hiến cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới
những bài học kinh nghiệm quý báu, một giá trị tinh thần có sức mạnh to lớn,
đem lại cho họ niềm tin trong cuộc đấu tranh tự giải phóng khỏi xiềng xích của
chủ nghĩa đế quốc. Đúng như Trung ương Đảng Cộng sản Réunion đã khẳng
định: “Nhờ thắng lợi này của nhân dân Việt Nam, từ nay một kỷ nguyên mới đã
mở ra cho phịng trào của các lực lượng giải phóng dân tộc toàn thế giới, mở ra
triển vọng dành nhiều thắng lợi mới cho tự do, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội,
hồ bình và chủ nghĩa xã hội” (1)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã
góp phần bảo đảm hồ bình thế giới. Thất bại ở Việt Nam, buộc đế quốc Mỹ
phải lùi một bước về chiến lược, phải thay đổi phương thức làm bá chủ thế giới,
tránh “một Việt Nam thứ hai”. Với thất bại của Mỹ ở Việt Nam, hoà bình chung
trên thế giới được bảo đảm.
- Đối với thời đại, dân tộc Việt Nam là dân tộc thuộc địa đầu tiên, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, đã đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp và
Mỹ, góp phần quan trọng cùng với lồi người tiến bộ làm sụp đổ chủ nghĩa thực
dân cũ trên phạm vi toàn thế giới và mở đầu việc đánh bại chủ nghĩa thực dân
mới của đế quốc Mỹ.
-Dân tộc Việt Nam đã cùng với nhân dân ba nước Đông Dương đập tan cuộc
phản công lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai,
góp phần làm chuyển biến tương quan lực lượng có lợi cho phong trào cách
mạng thế giới.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mãi mãi
gắn liền với tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh - ngọn cờ tất thắng và linh hồn của
sự nghiệp kháng chiến giành độc lập dân tộc.
13
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Câu 5: Anh (chị) cho biết trong chiến dịch Điện Biên Phủ,Đảng và Nhà nước
đã phong tặng danh hiệu Anh hung Lực lượng vũ trang nhân dân cho bao
nhiêu đồng chí?Bạn hãy nêu chiến cơng cũa 4 anh hung liệt sị tại mặt trận
Điện Biên Phủ: Tô Vĩnh Diện,Bế Văn Đàn,Phan Đình Giót,Trần Can?
Dưới đây là danh sách 23 chiến sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam được phong
hoặc truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì thành tích
chiến đấu của họ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Những người được
truy phong là những người đã thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ, họ trước đó đã
được truy tặng danh hiệu liệt sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Anh hùng
Năm sinh Năm phong, truy phong
Quê quán
Trần Can (liệt sĩ)
1931
7 tháng 5, 1956
Yên Thành, Nghệ An
Dương Quảng Châu
(Dương Ngọc Chiến)
1929
7 tháng 5, 1956
Phú Tiên, Hải Hưng
Bùi Đình Cư
1927
31 tháng 8, 1955
Lâm Thao, Phú Thọ
Tô Vĩnh Diện (liệt sĩ)
1924
7 tháng 5, 1956
Nông Cống, Thanh Hóa
Hồng Khắc Dược
1917
31 tháng 8, 1955
Mỹ Lộc, Nam Định
Bế Văn Đàn (liệt sĩ)
1931
31 tháng 8, 1955
Phục Hóa, Cao Bằng
Phan Đình Giót (liệt sĩ) 1920
31 tháng 8, 1955
Cẩm Xun, Hà Tĩnh
Đặng Đình Hồ
1925
7 tháng 5, 1956
Thanh Chương, Nghệ An
Trần Đình Hùng
1931
7 tháng 5, 1956
Yên Dũng, Bắc Giang
14
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Phùng Văn Khầu
1930
31 tháng 8, 1955
Trùng Khánh, Cao Bằng
Chu Văn Khâm
1925
31 tháng 8, 1955
Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc
Tạ Quốc Luật
1925
16 tháng 12, 2004
Thái Thụy, Thái Bình
Đinh Văn Mẫu
1922
7 tháng 5, 1956
Yên Lập, Phú Thọ
Chu Văn Mùi
1929
31 tháng 8, 1955
Việt Yên, Bắc Giang
Hà Văn Nọa (liệt sĩ)
1928
16 tháng 12, 2004
Ninh Giang, Hải Dương
Hoàng Văn Hồ (liệt sĩ) 1932
26 tháng 4, 2004
Trùng Khánh, Cao Bằng
Đặng Đức Song
1932
7 tháng 5, 1956
Nam Thanh, Hải Dương
Nguyễn Văn Ty
1931
31 tháng 8, 1955
Việt Yên, Bắc Giang
Phan Tư
1931
31 tháng 8, 1955
Yên Thành, Nghệ An
Nguyễn Văn Thuần
1916
31 tháng 8, 1955
Yên Hưng, Quảng Ninh
Lâm Viết Hữu
1926
22 tháng 12, 2009
Hà Nội, Hai Bà Trưng
Lê Văn Dy
1926
6 tháng 7, 2008
Mê Linh, Hà Nội
15
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
*Chiến công của 4 anh hùng liệt sĩ tại mặt trận Điện Biên Phủ:
1. Anh hùng Tô Vĩnh Diện
Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Nơng Trường, huyện Nơng
Cống, tỉnh Thanh Hố. Đồng chí nhập ngũ tháng 7 năm 1949. Khi hy sinh, đồng
chí là Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc Đại đội 827, Tiểu đồn 394, Trung
đồn 367.
Tơ Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa
chủ. Suốt 12 năm đi ở, đồng chí phải chịu bao cảnh áp bức bất cơng. Năm 1946,
đồng chí tham gia dân quân ở địa phương. Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ
đội. Trong học tập cơng tác, đồng chí ln thể hiện tinh thần gương mẫu đi đầu, lôi
cuốn đồng đội noi theo. Trong hành quân chiến đấu, đồng chí đã cùng đồng đội
bền bỉ vượt qua khó khăn, chấp hành nghiêm chỉnh các mệnh lệnh, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ.
Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh
lớn. Đồng chí Tơ Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao
xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí tập
kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí ln luôn gương mẫu làm mọi
việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an tồn.
Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, đồng chí xung
phong lái để bảo đảm an tồn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như lúc
nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự
mình đi kiểm tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng cái dốc
rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xẩy ra.
Kéo pháo vào đã gian khổ, hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt, đồng chí đã đi
sát từng người, động viên giải thích nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết tâm
cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.
Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp và cong rất nguy hiểm. Tơ Vĩnh
Diện cùng đồng chí Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt, pháo lao
nhanh xuống dốc, đồng chí vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo thẳng đường.
Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, đồng chí Ty bị
hất xuống suối. Trong hồn cảnh hiểm nghèo đó, Tơ Vĩnh Diện hơ anh em
16
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
: “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và đồng chí bng tay lái xơng lên phía trước,
lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ pháo dừng lại.
Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tơ Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh
mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu
thắng lợi.
Tô Vĩnh Diện đã được tặng thưởng một Huân chương Chiến công hạng nhất.
Ngày 7 tháng 5 năm 1955, Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà truy tặng Hn chương Qn cơng hạng nhì và được tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang.
Anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện (1924 - 1953) đã anh dũng hy sinh khi lấy thân
mình chèn pháo trên đường kéo pháo vào trận địa Điện Biên Phủ.
Anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện (1924 - 1953) đã anh dũng hy sinh khi lấy thân
mình chèn pháo trên đường kéo pháo vào trận địa Điện Biên Phủ.
2. Anh hùng Bế Văn Đàn
Bế Văn Đàn sinh năm 1931, là người dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh (nay là xã
Triệu Ẩu), huyện Phục Hồ, tỉnh Cao Bằng. Ơng xuất thân trong một gia đình
nghèo có truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm.
Lớn lên, ông tham gia hoạt động du kích. Tháng l năm 1948, ơng xung phong vào
bộ đội giữa lúc cuộc chiến tranh Đông Dương đang quyết liệt. Ơng tham gia nhiều
chiến dịch, ln nêu cao tinh thần dũng cảm, tích cực vượt qua mọi khó khăn ác
liệt, kiên quyết chấp hành mọi chỉ thị mệnh lệnh nghiêm túc, chính xác kịp thời,
hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Minh đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng
Cộng sản Đông Dương quyết định mở chiến dịch Đông Xuân năm 1953 – 1954,
đơn vị hành quân đi chiến dịch, Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội
của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ Pháp ở Mường Pồn. Lúc đó, khi
thấy lực lượng Việt Minh ít, Pháp tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên
tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân Việt Minh đánh bật. Cuộc
chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt. Quân Pháp liều chết xông lên, quân Việt
Minh kiên quyết ngăn chặn, chốt giữ.
Lúc đó có lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, để các
đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù
17
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Bế Văn Đàn vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo, ông đã xung
phong lên đường làm nhiệm vụ. Bế Văn Đàn vượt qua lưới đạn dày đặc của quân
Pháp, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trong khi đó,
trận chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt hơn, Bế Văn Đàn được lệnh ở lại đại đội
chiến đấu.
Quân Pháp phản kích lần thứ ba, mở đường tiến, đại đội Việt Minh bị thương vong
nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng ông vẫn tiếp
tục chiến đấu.[1] Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh.
Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì khơng có chỗ đặt súng.
Trong tình thế hết sức khẩn trương, Bế Văn Đàn không ngần ngại chạy lại cầm 2
chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hơ đồng đội bắn. Pù cịn do dự thì Bế Văn
Đàn đã nói: Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tơi thì bắn chết chúng nó đi!.[1]
Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và hy
sinh, hai tay vẫn cịn ghì chặt súng trên vai mình
Hình ảnh “Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng” trở thành một trong những
tấm gương tiêu biểu trong Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ Chiến tranh Đông
Dương. Bế Văn Đàn lúc hy sinh là tiểu đội phó, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam. Ơng đã để lại tấm gương chiến đấu dũng cảm, chấp hành nghiêm mệnh lệnh
của cấp trên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Do đó, trong đại hội mừng
cơng của đơn vị, đồng chí Bế Văn Đàn được truy tặng Hn chương chiến cơng
hạng nhất và được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đoàn. Với những
thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955, Bế Văn Đàn được Quốc hội nước
Việt Nam truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân
chương qn cơng hạng nhì.
3. Anh hùng Phan Đình Giót
Anh hùng Liệt sĩ Phan Đình Giót (1922-13/3/1954), Anh hùng Lực lượng Vũ trang
Nhân dân (truy phong; 31/3/1955), Khi hy sinh anh là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội
58, Tiểu đồn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hn chương Qn cơng hạng Nhì.
Anh sinh nǎm 1922 ở làng Tam Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trong
một gia đình rất nghèo. Bố bị chết đói. Anh phải đi ở từ năm 13 tuổi cực nhọc, vất
vả. Cách mạng tháng Tám thành công, anh tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm
1950, anh xung phong đi bộ đội chủ lực. Trong cuộc sống tập thể quân đội, Phan
18
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Đình Giót ln tự giác gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng
đội, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn nên được đồng đội
mến phục. Phan Đình Giót tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hồ
Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.
Mùa đông năm 1953, đơn vị anh được lệnh tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ. Hành quân gần 500 km, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng nhưng đồng
chí vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích. Trong nhiệm vụ xẻ núi, mở đường, kéo
pháo lên đèo xuống dốc vào trận địa rất gay go gian khổ, anh đã nêu cao tinh thần
gương mẫu, bền bỉ và động viên anh em kiên quyết chấp hành nghiêm mệnh lệnh
của cấp trên.
Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tiêu diệt Him Lam. Cả trận địa
rung chuyển mù mịt sau nhiều loạt pháo ta bắn chuẩn bị.
Các chiến sỹ đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ
tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung
phong đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hoả lực trút đạn như mưa
xuống trận địa ta. Đồng đội bị thương vong nhiều.
Lửa căm thù bốc cao, anh lao lên đánh liên tiếp hai quả nữa phá toang hàng rào
cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi dụng thời
cơ địch đang hoang mang, Phan Đình Giót vọt lên bám chắc lơ cốt số 2, ném thủ
pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Anh lại bị thương vào vai, máu chẩy đầm
đìa. Nhưng bất ngờ từ hoả điểm lơ cốt số 3 của lính Pháp bắn rất mạnh vào đội
hình ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại, Phan Đình Giót cố gắng lê lên nhích dần
đến gần lơ cốt số 3 với ý nghĩ cháy bỏng, duy nhất là dập tắt ngay lô cốt này. Anh
đã dùng hết sức mình cịn lại nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng
hô to:
“Quyết hy sinh…vì Đảng…vì dân!!..” rồi rướn người lấy đà, lao cả thân mình vào
bịt kín lỗ châu mai địch. Hoả điểm lợi hại nhất của quân Pháp đã bị dập tắt, tồn
đơn vị ào ạt xơng lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi
trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi hy sinh, Phan Đình
Giót đã được Tiểu đồn, Đại đồn khen thưởng 4 lần.
19
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
4. Anh hùng Trần Can
Anh hùng Liệt sĩ Trần Can (1931-7/5/1954), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân
dân (Truy tặng; 7/5/1956), Khi hy sinh anh là Đại đội phó bộ binh thuộc Trung
đoàn 209, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hn chương Qn cơng (hạng Nhì, hạng Ba), 2 Huân chương Chiến công hạng
nhất, 2 lần được bầu là chiến sỹ thi đua của đại đoàn.
Trần Can sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành,
tỉnh Nghệ An. Từ hồi còn nhỏ, Trần Can rất ham thích vào bộ đội để được cầm
súng giết giặc cứu nước. Lớn lên, đã ba lần đồng chí xung phong tình nguyện xin
đi bộ đội, nhưng vì sức yếu nên đến lần thứ tư mới được chấp nhận (năm 1951).
Từ khi vào bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, chỉ huy hết sức linh
hoạt. Trong mọi trường hợp khó khăn ác liệt, anh đều kiên quyết dẫn đầu đơn vị
vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đã hai lần anh bị thương nặng vẫn tiếp tục
chiến đấu, chỉ huy đơn vị kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tấm gương của Trần
Can đã thiết thực cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập cơng sơi nổi trong tồn đơn
vị.
Trong trận đánh đồi Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can
được giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ “Quyết
chiến quyết thắng” của Hồ Chủ tịch giao cho quân đội lên đồn Pháp. Khi nổ súng,
mặc cho hoả lực quân Pháp bắn ra dữ dội, anh dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền
duyên, chọc thẳng vào sở chỉ huy như một mũi dao nhọn cắm vào giữa tim gan
địch, rồi nhẩy lên lô cốt cắm cờ. Sau đó, anh chỉ huy tiểu đội diệt lính Pháp còn lại
trong hầm ngầm, bắt 25 tên, thu nhiều súng.
Trong trận đánh điểm cao 507, Trần Can đã dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông lên áp
đảo quân Pháp, chiếm mỏm cột cờ. Lính Pháp bắn pháo dữ dội và cho quân địch
chiếm lại. Ta với Pháp giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết liệt. Anh đã
cùng đồng đội kiên quyết giữ vững và tiến công đánh bại 4 đợt phản kích của
chúng. Địch xơng lên trong đợt cơng kích thứ năm, chúng ném lựu đạn tới tấp
trước khi xung phong. Trần Can nhặt lựu đạn ném lại và chỉ huy đơn vị nhảy lên
bờ hào đánh giáp lá cà. Cán bộ đại đội bị thương vong hết, bản thân Trần Can cũng
bị thương, nhưng anh vẫn quyết tâm thay thế cán bộ đại đội chỉ huy bộ đội chiến
đấu suốt đêm. Sáng hôm sau, anh tập trung thương binh nhẹ lại, động viên bộ đội,
chấn chỉnh tổ chức, củng cố trận địa. Quân Pháp lại phản kích dữ dội, mong đánh
20
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
bật quân ta, giành lại cửa ngõ tiến vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị
đánh tan đợt pháo kích của chúng, kiên quyết giữ vững trận địa, tạo thế cho đơn vị
tiến vào trung tâm Mường Thanh. Anh Trần Can đã hy sinh anh dũng sáng ngày 7
tháng 5 năm 1954, ngày kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Câu 6: Thiếu tá Mơ-rít-xơ Bi –gia đã nói “…Tơi đã thấy tất cả những điều
này và tơi có thể nói với các vị rằng họ đã trở thành lính bơ binh vĩ đại nhất
trên thế giới…”.Anh (chị) hãy giải thích vì sao?Cho biết câu nói ất được trích
trong tác phẩm nào đó?
Thiếu tá,tiểu đồn trưởng Mơ-rít-xơ Bi –gia kể lại” Chúng tôi được cấp trên cho
biết là đó khơng có qn Việt Minh.Nhưng chính xác là đã có hai đại đội.Một vài
lính của tơi đã bị bắn chết khi cịn lơ lửng trên khơng trung,số khác bị đâm chết khi
vừa chạm xuống đất .Cuộc chiến đấu ác liết suốt 4 này,một đội dân công gồm
200.000 đàn ông,đàn bà và thanh niên làm nhiệm vụ tiếp tế vũ khí,lươnh thực ,thực
phẩm và một đội quân chính quy gồm 50.000 người.
-Quân Pháp đã sớm cảm nhận được sức ép của Việt Minh,như Tướng NAVa viết
“Khi chiếm Điện Biên Phủ,tôi chỉ tính đối mặt với hai sư đồn,như cuối cùng là
hai sư rưỡi,rồi ba…Cho tới ngày 20 tháng 12 tôi mới biết được rằng chúng tôi phải
đương đầu với 4 sư đồn.Vào thời điểm đó đã q muộn để rút khỏi Điện Biên
Phủ.
-trong những giờ đầu tiên,chỉ trên quả đồi,500 lính Pháp đã bỏ mạng.Vào lúc
hồng hơn,cả một sư đồn bộ binh Việt Minh đã xung phong lên cứ điểm Bê-a-tờri-sơ(Him Lam),gần khu trung tâm nhất.Tới nữa đêm,vị trí này đã trở thành một
nấm mồ.Chỉ có 200 trong 700 lính đồ trú ở đây thoát chết.Viên chỉ huy pháo
binh,đại tá Sác-lơ Pi-rốt đã tự sát bằng một quả lựu đạn.
-Thiếu tá Mơ-rít-xơ Bi –gia đã bày tỏ sự kính trọng của mình đối với Việt Minh:
“Tơi đã thấy họ khởi sự từ những khẩu súng bất kì như sung săn và sau đó,tháng
này qua tháng khác,họ được tổ chức thành những nhóm nhỏ,rồi từ các nhóm nhỏ
thành trung đội,từ trung đội lên đại đội,từ đại đội lên tiểu đoàn và lữ đồn cuối
cùng thành các sư đồn đủ qn. Tơi đã thấy tất cả những điều này và tơi có thể nói
với các vị rằng họ đã trở thành lính bơ binh vĩ đại nhất trên thế giới.Những người
lính dẻo dai này có thể đi bộ 50 cây số trong đêm bằng sức của một bát cơm,trong
những đôi giày bata và hát vanh trên đường ra trận.Theo quan điểm của tơi,họ đã
trở thành những người lính bộ binh ngoại lệ và họ đã đánh bại được chúng ta.”
+ Câu nói ất được trích trong tác phẩm:”Việt Nam-Cuộc chiến 10.000 ngày” của
Michale Maclear,do nhà xuất bản Thèmes Methuen(Mỹ) xuất bản năm 1991.
21
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
Câu7: Những suy nghĩ và tình cảm của anh chị về chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa,Theo anh chị hiẹn nay chúng ta phải làm gì?
Gần 60 năm trơi qua kể từ ngày qn và dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ "Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Cùng năm tháng, ý nghĩa và tầm
vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này vẫn giữ nguyên giá trị trong lòng mỗi người
dân đất Việt và của bạn bè toàn thế giới; đặc biệt trong cảm nhận của thế hệ trẻ
hôm nay.
Cảm nhận về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, hầu hết chúng ta đều bày tỏ niềm
tự hào và niềm tin sâu sắc về ý chí quyết tâm và sức mạnh của dân tộc. Để làm
nên chiến thắng ấy, cả dân tộc đã phải chiến đấu anh dũng, gian khổ, hy sinh bao
máu xương. Tinh thần yêu nước và hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc kháng chiến
chống Thực dân Pháp đã tạo cho người lính sức mạnh phi thường để lập nên
những chiến cơng huyền thoại. Đó là những Tơ Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Bế
Văn Đàn… đã đi vào sử sách và gần 20 Anh hùng lực lượng vũ trang khác nằm
trong 5 đại đoàn quân chủ lực.
Trên phương diện quốc tế, lần đầu tiên quân đội của một nước thuộc địa châu Á
đánh thắng bằng quân sự một quân đội của một cường quốc châu Âu. Đây được
xem là một thảm họa bất ngờ đối với Thực dân Pháp và đánh bại ý chí duy trì, tái
xây dựng thuộc địa Đông Dương của Pháp. Từ chiến thắng Điện Biên Phủ của
Quân đội nhân dân Việt Nam, đến năm 1960, 17 nước châu Phi đã nổi dậy và đến
năm 1967, Pháp buộc phải trao trả độc lập cho tất cả các nước là thuộc địa của
Pháp. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của 9 năm kháng chiến trường
kỳ là chiến cơng hào hùng nhất của tồn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Chiến thắng này đã buộc
chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh ở Đông Dương để mở ra
một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, góp phần quan
trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
-Những thế hệ "hậu duệ" được sinh ra và lớn lên trong thời kỳ hịa bình, thống
nhất đất nước, song qua những bài học, trang sách, những nhân chứng lịch sử, thế
hệ trẻ hôm nay luôn coi những chiến thắng hào hùng của dân tộc là một phần quan
trọng trong hành trang để xác định rõ tránh nhiệm của mình đối với Tổ quốc, với
dân tộc. Có một bạn trẻ nào đó đã nói: "Tơi nghĩ, ai đó nói giới trẻ chúng tơi thờ ơ
với q khứ là không đúng đâu, chẳng qua chỉ là một bộ phận rất nhỏ mà thơi.
Chúng tơi khơng thích hơ hào sng, mà mỗi người phải tự thể hiện sự biết ơn
22
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)
lịch sử qua việc cố gắng làm tốt những việc làm hằng ngày của mình, trong bất kỳ
lĩnh vực nào." Đó là minh chứng về niềm tự hào và trọng trách của thế hệ trẻ,
đúng như lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vị tướng tài ba chỉ huy chiến dịch
Điện Biên Phủ: "Cần phải phát huy tinh thần của chiến thắng Điện Biên năm xưa
vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay."
Gần sáu thập kỷ đã trôi qua, niềm tự hào và tinh thần đó đã làm nên sự đổi thay kỳ
diệu của đất nước. Thế hệ trẻ hôm nay đã và đang xứng đáng với sự hy sinh của
thế hệ cha, anh. Và Điện Biên hơm nay vẫn cịn đó những dấu tích - nơi diễn ra
những trận đánh ác liệt giữa bộ đội Việt Nam với quân Pháp trong suốt chiến dịch
Điện Biên Phủ: Sở chỉ huy chiến dịch, đồi A1, đồi C1; cứ điểm Hồng Cúm, Him
Lam, đồi Độc Lập; sân bay Mường Thanh, hầm chỉ huy của tướng Đờ-cát-Tơ-ri…
Giờ đây, những địa điểm này đã trở thành di tích lịch sử, song lại khốc lên mình
một sức sống mới. Chiến trường năm xưa đã nhường chỗ cho những cánh rừng
đặc sản, những cánh đồng lúa tươi tốt và những mái ngói đỏ tươi trù phú.
Gần 60 năm qua, bên cạnh những ý nghĩa to lớn về quân sự, chính trị, xã hội,
ngoại giao, chiến thắng Điện Biên Phủ được giới nghiên cứu trong nước cũng như
quốc tế đánh giá là chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Hơn bao
giờ hết, Chiến thắng Điện Biên Phủ chính là sự kết tinh vĩ đại, thiêng liêng và kỳ
diệu của sức mạnh đại đoàn kết dựng nước và giữ nước. Kế thừa và phát huy tinh
thần và sức mạnh đó, thế hệ trẻ hơm nay đã và đang tạo nên những kỳ tích trên
nhiều lĩnh vực: Kinh tế, văn hóa- xã hội, khoa học kỹ thuật, thể dục thể thao… đã
và đang thực sự là một "Chiến sỹ Điện Biên" trong từng suy nghĩ, hành động tại
môi trường cơng tác và đời sống.
23
Cuộc thi tìm hiểu 60 năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954->7/5/2014)