Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Câu hỏi ôn tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.91 KB, 81 trang )

Câu 1 : Làm rõ những sáng tạo của HCM trong tư tưởng về Cách mạng giải
phóng dân tộc
Bài Làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần qúi báu của Đảng và dân tộc. Tư
tưởng đó là sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại,
là sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta. Trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người thì cách mạng giải phóng dân
tộc là một trong những vấn đề cớ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở điều này đã thể
hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh mà dưới đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Người đã mắt thấy tai
nghe những nỗi khổ cực nhọc nhằn của một dân tộc mất nước, cảm nhận được sự tàn
ác dã man của bọn thực dân đế quốc : “Lịch sử việc người Âu xâm chiếm Châu Phi
cũng như bất cứ lịch sử xâm chiếm thuộc điạ nào thì từ đầu đến cuối đều được viết
bằng máu những người bản xứ “. Yêu nước thương dân, sau bao năm : “Lênh đênh
bốn bể một con tàu” Người đã tìm ra con đường cưu nước cứu dân : “ Muốn cưú
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. Chỉ có con đường này mới giải quyết được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Đế Quốc Tay Sai và
mâu thuẫn nhân dân với điạ chủ phong kiến mới giải quyết được hài hòa vấn đề giai
cấp và vấn đề dân tộc. Theo Người: “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc. Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và
cách mạng thế giới. Trong quan niệm của HCM cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt
để của một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng quần chúng lao động bị áp bức, vì
thế Người đã chọn con đường cách mạnh vô sản, theo gương cách mạng tháng 10
Nga là một cuộc cách mạng nằm trong dòng chảy liên tục của quá trình giải phóng
con người.
1
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước ta, Người đã xác
định cách mạng Việt Nam phải trãi qua hai giai đoạn mà đã được thể hiện trong chính
cương vắn tắt VT là : “Chủ trương làm TS dân quyền cách mạng và thổ địa CN để đi
tới XHCS”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã


hội đã được thể hiện rất rõ ràng và đó là luận điểm trọng tâm xuyên suốt toàn bộ hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Đó là điểm
khác biệt căn bản giữa con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các nhà yêu nước
khác như : Phan Bội Châu, Phan Chu trinh, Nguyễn Thái Học … Phan Bội Châu đã
phải thốt lên : “Than ôi ! Lịch sử của tôi là lịch sử một trăm thất bại không một thành
công”, thì ngược lại, Hồ Chí Minhlà người duy nhất tìm ra con đường đúng đắn để
cứu nước, giải phóng cho nhân dân lao động.
Trong tư tưởng về CM giải phóng dân tộc đã thể hiện sự sáng tạo thiên tài của
HCM. Đó là luận điểm về cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc có thể nổ ra
và thắng lợi trước cách mạnh vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách
mạng chính quốc. Lênin là người thấy được sức mạnh to lớn của phong trào giải
phóng dân tộc. Ngườiđã nhấn mạnh tư tưởng kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc
với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa, yêu cầu Đảng CS ở chính quốc giúp
đỡ phong trào này. Tuy nhiên, cũng như những người lãnh đạo QTCS, Lênin cho
rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là “hậu bị quân” của
cách mạng chính quốc, chỉ có thể nổ ra thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc
thành công.
“Công nhân và nông dân không chỉ ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư
và Ácmêni chỉ có thể được độc lập khi nào công nhân ở Anh, ở Pháp đã lật đổ được
chính phủ của thủ tướng Lôi – Gióoc và Cơlê – Măngxô, giành chính quyền về tay
mình. Là người yêu nước, lăn lộn trong phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế lại
là người hoạt động rất tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc thế giới nên
2
Người hiểu rõ hơn ai hết về thuộc địa, về chủ nghĩa thực dân, về những nối thống khổ
mà nhân dân thuộc địa phải gánh chịu. Xuất phát từ quan điểm có áp bức thì có đấu
tranh, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vì bị áp bức mà sinh ra cách mạng, cho nên hễ bị áp
bức càng nặng thì lòng cách mạng càng cao, chí cách mạng càng quyết. Người đã chỉ
rõ nhân dân thuộc địa chịu đau khổ gấp ngàn lần nội đau của giai cấp công nhân
chính quốc. Trên thế giới không có dân tộc chiến bại nào bị đàn áp và hành hạ như

người dân thuộc địa. Người đã thấy được tinh thần cách mạng đang ầm ỉ và ngày
càng mãnh liệt của nhân dân Đông Dương. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người
Đông Dương giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê
gớm khi thời cơ đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đat rồi. Chủ nghĩa
xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi.
Hồ Chí Minh đã vì chủ nghĩa đế quốc như con đĩa hai vòi, một vòi hút máu nhân dân
lao động chính quốc, một vòi hút máu nhân dân thuộc địa. Khi cách mạng bùng nồ
thì hàng trăm triệu nhân dân thuộc địa sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ thủ tiêu
một trong những ĐK tồn tại của chủ nghĩa tư bản, cắt bớt một vòi của chủ nghĩa đế
quốc và như thế họ có thể giúp đỡ người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ
giải phóng hoàn toàn, cắt đứt cái vòi còn lại của chủ nghĩa đế quốc ở chính quốc.
Theo Hồ Chí Minh : “An Nam dân tộc cách mạng thành công thì tư bản PHáp yếu, tư
bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mạng cũng dễ dàng”. Như vậy,
Hồ Chí Minh chẳng những hiểu rõ về sức mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân
tộc mà còn thấy được tính chủ động, tích cực của cách mạng giải phòng dân tộc.
Theo Người, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc quan hệ mật thiếc với
nhau như hai cánh của một con chim trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc.Trong cuộc đấu tranh đó, khi có chủ nghĩa Mác – Lênin soi đường và
được Đảng Cộng Sản lãnh đạo thì nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể chủ động tự
đứng lên : “đem sức ta mà tự giải phòng cho ta”. Mặc dù, ở các nước thuộc địa CN,
thương nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, trình dộ thấp kém. Hồ
3
Chí Minh sớm ý thức được về sức mạnh tự giải phóng của nhân dân các dân tộc bị áp
bức. Theo Người cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của bản thân các dân tộc
bị áp bức. “Hỡi anh em ở các nước thuộc điạ ! Anh em phải làm thế
nào để được giải phóng ? vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói
với anh em rằng : công cuộc giải phóng, anh em chỉ có thể thực hiện được bằng nổ
lực của bản thân anh em …”. Luận điểm dân tộc tự đứng lên giải phóng được Hồ Chí
Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nói như vậy,
không có nghĩa là không cần sự giúp đỡ của bè bạn năm châu, ngược lại sự giúp đỡ

đó lá rất quí báu, song “chỉ có chúng ta mới giải quyết được số phận chúng ta, và toàn
cầu cũng chú ý đến chúng ta khi chúng ta mạnh. Tóm lại, lực lượng đoàn kết và chiến
đấu của toàn dân vẫn là tất cả, vẫn định đoạt tất cả”. Ở HCM, việc tập hợp lực lượng
cách mạng cũng thể hiện sự linh hoạt sáng tạo của Người. Theo HCM, cách mạng
giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, “nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều
chống lại cường quyền …”, giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng, của
đồng bào ta. Nhờ vậy, mà cách mạng Việt Nam đã tổ chức được một lực lượng cách
mạng vô cùng to lớn dướisự lãnh đạo giai cấp công nhân mà đội tiền phong là ĐCS
Việt Nam, giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Như vậy, tư tưởng cách
mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng chính quốc và tác động trở lại
thúc đẩy cách mạng chính quốc là sáng tạo thiên tài của Ho Chí Minh làm phong phú
thêm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về CMDT nói chung và cách mạng giải
phóng dân tộc nói riêng. Luận điểm này có ý nghĩa chủ đạo thực tiễn rất quan trọng
đối với phong trào giải phóng dân tộc. Nó chỉ ra cho nhân dân các dân tộc thuộc địa
không nên trông chờ ỷ lại vào cách mạng chính quốc mà phải chủ động đứng lên tự
giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, góp phần tích cực vào cách
mạng thế giới trong đó có cả cách mạng ở chính quốc. Thực tiễn cách mạng Việt nam
mà điển hình là cách mạng tháng 8 thành công đã chứng minh và khẳng định tính
đúng đắn của luận điểm trên.
4
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho toàn Đảng, toàn dân nhứt là trong giai đoạn
đổi mới hiện nay. Giươngcao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát huy tinh thần tự lực tự cường (phát huy nội lực trong xây dựng đất nước, giữ gìn
sự trong sáng và phát triển tư tưởng HCM.
Câu 2 : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch,
vững mạnh
Bài Làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –

Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta và đã trở thành một tài sản tinh thấn quí báu
của Đảng và của dân tộc. Trong toàn bộ tư tưởng của Người thì tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng CS là một bộ phận quan trọng, là sự kế thừa, bổ sung và phát triển,
sáng tạo tư tưởng của Mác – Ănghen và nhứt là những nguyên tắc về Đảng kiểu mới
của Lênin trong điều kiện Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng : “trước
hết phải có Đảng cách mạng, để trong thời vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”. Đảng CSVN ra
đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Đảng đã đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đáp
5
ứng được yêu cầu KQ của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đang khủng hoảng đường lối
cứu nước. Cách mạng tháng 8 thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, đưa
Đảng ta lên đảng cầm quyền, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ xã hội. Trên
cương vị mới Đảng tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam hoàn thành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước tiến lên CNXH. Sau đây, chúng ta
cùng tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững
mạnh.
Đảng ta là Đảng của giai cấp côngnhân và ndân lđộng : “Là Đảng cm, là Đảng
lãnh đạo. Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi
ích nào khác”. Là một Đảng cầm quyền, Đảng có chức năng lãnh đạo chính quyền
nhà nước và lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã hội. Sự lãnh đạo đó được thể hiện bằng
đường lối chủ trương, bằng quy hoạch bố trí đội ngũ cán bộ và bằng việc kiểm tra
đôn đốc giám sát, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo cho mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam theo ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH.
Muốn thực hiện được vai trò chức năng của một Đảng cầm quyền, hoàn thành
được sứ mệnh mà giai cấp và dân tộc đã ủy thác, Đảng ta phải được trang bị lý luận
tiên tiến, cách mạng và khoa học. Hồ Chí Minh cho rằng : “Đảng muốn vững mạnh
phải lấy công nhân làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo CN ấy.
Đảng mà không có CN cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ

nam”. Vào những năm đầu thể kỷ 20, khi Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh sau này)
ra đi tìm đường cứu nước, trên thế giới có rất nhiều hệ thống lý luận, nhưng sau bao
năm bôn ba hải ngoại, lăn lộn với phong trào công nhân, tìm hiểu chủ nghĩa Mác –
Lênin và cách mạng T.10 Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định : “Bây giờ học thuyết
nhiều và chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhứt , chắc chắn nhứt, cách
mạng nhứt là chủ nghĩa Lênin” và Đảng ở Việt Nam phải là một Đảng “theo chủ
nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
6
Sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn. Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết
cách mạng và khoa học chỉ ra thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn để giai
cấp công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa đứng lên làm cách mạng cải tạo thế
giới giải phóng cho giai cấp, cho dân tộc khỏi mọi sự áp bức bóc lột. Sự đúng đắn của
đường lối cách mạng do Đảng ta vạcg ra ngay từ buổi đầu mới thành lập bắt nguồn từ
việc Hồ Chí Minh đã quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác –
Lênin đã giúp Đảng ta vượt qua những trận thử thách … Nhờ vậy, Đảng ta không
những đã giành được quyền lãnh đạo CM trong cả nước mà còn giữ vững được quyền
lãnh đạo đó trên mọi lãnh vực và đập tan mọi âm mưu của giai cấp tư sản hòng tranh
quyền lãnh đạo cáchmạng với Đảng ta.
Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã vạch ra được đường lối chủ
trương đúng đắn, sát hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác mà thực tiễn cách mạng Việt Nam là chứng minh hùng hồn nhứt để đảm bảo sứ
mệnh dẫn lối soi đường đó thì việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là nhiệm
vụ xuyên suốt của Đảng ta và là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh : “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”.
Đảng ta phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc về tổ chức và xây dựng Đảng mà
trong đó tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, phê bình và tự phê
bình là nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức
sinh hoạt Đảng cơ bản và quan trọng nhứt trong học thuyết về Đảng kiểu mới của
Lênin và được Hồ Chí Minh rất coi trọng và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể để xây
dựng Đảng CSVN. Tập trung nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng

cấp trên, tất cả Đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người
nhấn mạnh : “Đảng tuy đông người nhưng ít khi tiến hành chỉ như một người”. Bên
cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh dân chủ (trong Đảng) “Dân chủ là của quí báu nhứt
của nhân dân”, phải chú ý thực hành rộng rãi dân chủ trong Đảng “Phải thực sự mở
rộng dân chủ để tất cả các Đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình, phải gom góp ý kiến
7
của Đảng viên để giúp đỡ trung ương chuẩn bị đại hội Đảng cho thật tốt”. Ở Hồ Chí
Minh về nguyên tắc này trong dân chủ và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện chứng
giữa dân chủ và tập trung, tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dướisự chỉ đạo
tập trung. Nguyên tắc này là tiêu chí quan trọng để xem xét một Đảng còn là Đảng
mác – xít chân chính nữa hay không ?
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta. Hồ Chí
Minh cho rằng : “tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với
nhau. Nếu lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan.
Kết quả là hỏng việc”. Còn nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người
này uỷ cho người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành như
tục ngữ có câu : “Nhiều sải không ai đóng cửa chùa”.
Phê bình và tự phê bình được coi là “quy luật” phát triển của Đảng “Tự phê bình
và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhứt, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm
mạnh. Nhờ đó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, ưu điểm, tiến bộ không ngừng”.
Hồ Chí Minh cho rằng con người ai cũng có khuyết điểm chỉ khác nhau ở mức
độ và trạng thái biểu hiện mà thôi. “Người đời không phải thánh thần, không ai tránh
khỏi khuyết điểm”.
Theo HCM “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ.
Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội
bộ”. Mỗi cán bộ Đảng viên phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa hàng ngày
giống như mỗi ngày phải rửa mặt, và vấn đề này Hồ Chí Minh rất gương mẫu thực
hiện.
Xdựng Đảng trong sạch vững mạnh, còn phải thường xuyên chỉnh đốn Đảng,
xdựng đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng. Chỉnh đốn Đảng để lúc khó khăn không

bị bi quan dao động, để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo khi cách mạng chuyển sang
giai đoạn mới. HCM đã nêu lên nvụ phải “chấn chỉnh” bộ máy chính quyền “chỉnh
8
đốn”. Các đoàn thể quần chúng và “muốn làm được những việc trên, trước hết phải
chỉnh đốn nội bộ Đảng”. Chỉnh đốn là để tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng,
để tăng cườngsức chiến đấu của Đảng. Người đã chỉ ra rằng “Sự đoàn kết nhất trí
trong Đảng càng thêm vững chắc bảo đảm cho Đảng ta càng trong sạch, càng mạnh
mẽ, đảm bảo cho sự nghiệp cm vĩ đại của chúng ta càng giành được thắng lợi to lớn
hơn nữa”.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên, Người rất quan tâm đến giáo dục, rèn
luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đảng viên về tất cả các mặt trong đó có 03 vấn đề
chủ yếu nhứt là : Suốt đời phấn đấu hy sinh cho Đảng, cho tổ quốc ; Đặt quyền lợi
của Đảng, của tổ chức lên trên hết ; có một đời tư trong sáng”. Theo Hồ Chí Minh
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muốn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”. Người đã so sánh “cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, không chạythì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”.
Trong sử dụng cán bộ, Người yêu cầu phải “hiểu, đánh giá đúng cán bộ”, phải “khéo
dùng cán bộ” ; “dùng người như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong
đều tùy chỗ mà dùng được” ; phải “chiêu hiền đãi sĩ”, “cần người hiền tài” “có gan
cất nhắc cán bộ” ; phải chống bệnh địa phương, cục bộ, phe phái , họ hàng.
Quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân là một nội dung đặc sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Quan niệm của Người là “Nước lấy dân làm gốc, bao nhiêu lợi
ích vì dân, bao nhiêu quyền hạn đềucủa dân”. Đảng, cán bộ Đảng viên “Vừa là người
lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh : “Đảng
phải gắn bó máu thịt với dân. Dân là lực lượng vô tận của cách mạng, thắng lợi của
cách mạng là do Đảng đã tổ chức và giải phóng được lực lượng đó”.
Người đã chỉ rõ giữ chặt chẽ mối quan hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai
nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượngcủa Đảng và nhờ đó mà Đảng ta
thắng lợi.
9

Do vậy cán bộ Đảng viên phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải : “Học dân
chúng”, phải “nâng cao dân chúng, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của nhân dân. Cả
cuộc đời của Hồ chí Minh là một tấm gương về gần dân, hiểu dân, và vì dân. Người
đã lo vun đắp cho cái “gốc” nhân dân bền vững để cây đời cách mạng trổ hoa kết trái
thắng lợi.
Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng CSVN nói chung và về xây dựng
Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh la rất phong phú,là bước phát triển học
thuyết Mác – Lênin về Đảng CS vào Việt Nam. Những quan điểm của Hồ Chí Minh
vẫn còn nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay và mãi mãi là nền tảng tư tưởng, là
kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay có ý nghĩa then chốt. Đại hội VII của
Đảng đã xác định : “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn”. Đảng ta phải thực hiện tốt những nguyên tắc
tổ chức xây dựng Đảng, phải xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững
mạnh, đội ngũ cán bộ Đảng viên phải đảm bảo nâng cao chất lượng, số lượng trong
sạch về đạođức, lối sống. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh trong công
cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta phải kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản, nâng cao vaitrò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ và phát triển học thuyết và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh chống diễn biến hoà bình, chống đa nguyên đa đảng
đối lập, phủ nhận quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng CSVN.
Câu 3: Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
BÀI LÀM:
10
Như chúng ta nhận thức được rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đó là tư tưởng trung tâm, xuyên suốt trong toàn
bộ hệ thống tư tưởng của Người đã được thể hiện rất rõ ràng ngay từ khi thành
lập Đảng. Và về sau này, đúc kết qua quá trình hoạt động, khảo sát thực tiễn đất

nước và thế giới cũng như nghiên cứu về lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê Nin
Người đã rút ra kết luận: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản".
Thật vậy, vào tháng 7/1920, khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin và tìm thấy "cái cẩm nang thần kỳ" cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới". Chính cương vắn tắt của Đảng do Hồ
Chí Minh soạn thảo, được thông qua hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định:
"Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản".
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận ra hạn chế của các nhà
yêu nước đương thời. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng không đồng tình với con đường CM
của họ. Người đã vượt qua sự hạn chế về tầm nhìn của các nhà CM yêu nước đi trước
khi quá ngưỡng mộ các cuộc cách mạng tư sản, và Người đã quyết định ra đi để tìm và
chọn cho mình con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Trong thời gian đi tìm đường cứu nước, Người đã đến các nước Pháp, Mỹ, Anh…
và các nước thuộc địa, Người đã nghiên cứu các cuộc cách mạng ở Tây Âu… Hồ Chí
Minh tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng không
giải phóng được công nông và quần chúng lao động. Người đánh giá những cuộc cách
mạng tư sản là "những cuộc cách mạng không đến nơi". Người đã hiểu rõ bản chất của
11
chủ nghĩa tư bản. Những lời tuyên bố tự do của nhà chính trị tư sản trong lúc chiến tranh
thực ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn được giải phóng, các
dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn nhất của
thế kỷ 20, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười đặt

ra sự lựa chọn mới đối với những người cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc cho một
số ít người, hay cho đại đa số người? Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản, hay
độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?.
Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà
Hồ Chí Minh đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc. Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập
trường cứu nước của Hồ Chí Minh: Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tán thành
Quốc tế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, trở
thành một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên
của VN.
Năm 1921, trong tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh đã
viết: "Hỡi anh em ở các thuộc địa!… Anh em phải làm thế nào để được giải
phóng? Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng,
công cuộc giải phóng anh em thì có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân
anh em". Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của bản thân của các dân
tộc bị áp bức. Luận điểm các dân tộc đứng lên tự giải phóng, được Hồ Chí Minh
quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn
coi việc vận động nhân dân, xây dựng lực lượng cách mạng trong nước là yếu tố
12
Trang 2
quyết định thắng lợi của cách mạng. Mặt khác Người vẫn hết sức tranh thủ sự
đồng tình, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Lênin cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu
bị quân" của cách mạng chính quốc và chỉ có thể nổ ra và thắng lợi khi cách mạng vô
sản ở chính quốc thành công. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng thuộc địa và cách mạng
chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là
chủ nghĩa đế quốc. Trong cuộc cách mạng đó, nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể chủ
động đứng lên giải phóng khi được ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường, được
Đảng Cộng sản lãnh đạo, mặc dù ở nước họ công nghiệp, thương nghiệp chưa phát triển,

giai cấp công nhân còn nhỏ bé, trình độ thấp kém. Luận điểm về khả năng nổ ra và thắng
lợi trước cách mạng chính quốc và tác động trở lại, thúc đẩy cách mạng chính quốc của
cách mạng thuộc địa được Hồ Chí Minh nêu ra có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất quan
trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng
định luận điểm của Hồ Chí Minh là đúng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường cách mạng
bạo lực. Năm 1947, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam, Người
khẳng định: "Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì
phải đánh phát xít Nhật và p thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì
phải có lực lượng quân sự. Muốn có lực lượng quân sự thì phải có tổ chức. Muốn tổ
chức thành công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm". Theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách
mạng ở Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố chính trị và quân sự, hai lực
lượng là lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Cách mạng bạo
lực là sử dụng sức mạnh tổng hợp để "chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy
chính quyền và bảo vệ chính quyền" dưới hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang. Khẳng định giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng bạo lực, song Hồ Chí
Minh luôn chủ động, tích cực đưa ra giải pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát
13
triển của cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh tư tưởng mà của
Hồ Chí Minh là đúng đắn.
Việc luận chứng để lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa và đưa đất nước tiến lên
dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội là một phát hiện thiên tài và cống
hiến to lớn của HCM đối với cm Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Vận
dụng và quán triệt quan điểm dịch vụ về lịch sử của học thuyết Mácxít, Hồ Chí Minh
quan niệm lịch sử xã hội loài người là một quá trình tự nhiên của sự thay thế lần lượt các
phương thức sản xuất. Quy luật phổ quát tiến hóa chung này là một "tất yếu thép" được
quyết định bởi sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất xã hội.
Xã hội loài người phát triển theo xu hướng đi lên, với những hình thái ngày càng
cao hơn về chất. Nếu chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chủ

nghĩa tư bản cũng sẽ xác lập các tiền đề khách quan để tự phủ định chính nó. Theo Hồ
Chí Minh, logíc phát triển xã hội cho thấy đã đến lúc chủ nghĩa tư bản phải nhường chỗ
cho sự ra đời một chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiến lên chủ nghĩa xã hội
là quy luật vận động khách quan của lịch sử trên phạm vi toàn thế giới. Kết luận mà của
Hồ Chí Minh hoàn toàn tuân thủ các nguyên lý phổ biến của học thuyết Mác-Lênin về
hình thái kinh tế - xã hội.
Trong quan niệm của HCM cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc
cách mạng không phải là những lý tưởng, những khẩu hiệu được nêu ra, mà là quy mô
giải phóng quần chúng lao động bị áp bức. Cách mạng dân chủ tư sản, do bản chất của
nó chỉ là sự thay thế một hình thức áp bức, bóc lột này bằng một hình thức áp bức, bóc
lột khác, đại bộ phận người lao động vẫn sống cực khổ. Do những nhu cầu nội tại khách
quan, cách mạng VN không và sẽ không thể lặp lại những vết xe lăn của cm Mỹ 1776 và
cách mạng Pháp 1789.
14
Trong bài báo Đông Dương đăng trong Tạp chí Cộng sản (Pháp) số 14 năm 1921,
sau khi đã chỉ ra những hình thức bóc lột, đàn áp, dã man, tàn bạo của bọn thực dân đối
với người bản xứ, khẳng định tinh thần cách mạng âm ỉ, mãnh liệt, quật cường của nhân
dân các nước Đông Dương, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa
tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc làm gieo hạt giống
của công cuộc giải phóng nữa thôi". Đây là một luận điểm hết sức quan trọng, nó gợi mở
cho chúng ta nhiều vấn đề để khẳng định tính hợp lý, hợp quy luật của con đường xã hội
chủ nghĩa ở VN. Trong luận điểm trên, Hồ Chí Minh không phải trên cơ sở phân tích sự
chín muồi của cơ sở kinh tế làm xuất hiện chủ nghĩa xã hội như là một phương thức cần
thiết để giải quyết những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, mà Người chú ý đến một
phương diện khác không kém phần quan trọng: chủ nghĩa xã hội ra đời chính từ sự tàn
bạo của chủ nghĩa tư bản. Tại các nước thuộc địa, những hình thức bóc lột, nô dịch của
bọn thực dân, làm bộc lộ những khuyết tật phi nhân tính bẩm sinh không thể khắc phục
được của chủ nghĩa tư bản. Đó là cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ sứ mệnh lịch
sử của mình trước vận mệnh quốc gia dân tộc, chờ thời cơ để vùng dậy,thủ tiêu xiềng
xích thực dân, thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng chính họ thoát khỏi

bất kỳ một hình thức áp bức, bóc lột nào. Xã hội thuộc địa nửa phong kiến luôn tạo điều
kiện nảy sinh và nuôi dưỡng ý thức giác ngộ dân tộc, giác ngộ giai cấp, chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng phá bỏ hoàn toàn
mọi xiềng xích, nô dịch tồn tại từ trước tới nay. Đây là lý do lịch sử chủ yếu, mà dựa vào
đó, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn so sánh: chủ nghĩa cộng sản thích ứng với các nước châu
Á dễ hơn với các nước châu Âu.
Đặt cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng vô sản,
gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đã khiến quan điểm giải phóng dân tộc
của Hồ Chí Minh mang tính toàn diện và triệt để. Dưới góc độ giải phóng, độc
lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên. Giải phóng về mặt chính trị, tự bản thân
nó chưa phải là công cuộc giải phóng hoàn toàn, hay nói cách khác trong điều
15
kiện Việt Nam, độc lập dân tộc là tiền đề đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội,
đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Lôgíc lịch sử tự nhiên của sự vận
động phong trào giải phóng dân tộc tất yếu dẫn tới chủ nghĩa xã hội do bản chất
cách mạng triệt để của nó. Độc lập dẫn tới không phải là mục tiêu cuối cùng của
giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải
phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có những đặc điểm sau đây:
Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và trí thức đã được
củng cố vững chắc, Việt Nam tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam
chuyển sang giai đoạn mới không bắt đầu bằng một cuộc đảo lộn chính trị, giành chính
quyền. Đặc điểm này được Hồ Chí Minh hết sức lưu ý và luận chứng đầy đủ.
Về phương diện kinh tế, "Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà
đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa".
Một đặc điểm khác của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là: chúng ta xây dựng chủ nghĩa

xã hội trong điều kiện vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh; đồng thời thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai cuộc cách mạng này quan hệ chặt
chẽ với nhau. Theo đánh giá của nhiều nhà lý luận nước ngoài, cách làm vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh còn có chiến tranh là
một sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh, phản ánh đúng thực chất và quy luật phát triển
của cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
16
Về phương diện quốc tế, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa xã hội đã thành công ở một
loạt nước, chúng ta nhận được sự hỗ trợ, hợp tác mạnh mẽ từ bên ngoài, theo tinh thần
quốc tế chân chính, nhưng mặt khác lại luôn luôn bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách phá
hoại công cuộc hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội> Điều đó buộc chúng ta phải có ý
thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế
những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Những đặc điểm này quy định bản chất và tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sự nghiệp cách mạng mang
tính toàn diện theo nguyên tắc: xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ chủ nghĩa
xã hội. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực.
Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải được chỉnh đốn, nâng cao sức chiến đấu, có hình thức
tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Mặt khác phải củng cố, tăng
cường vai trò của Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, tất cả các cơ quan Nhà nước phải là
những thể chế dân chủ, dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự kiểm soát của nhân dân. Phải xây dựng bộ máy Nhà nước vững mạnh, trong sạch,
thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đủ năng lực, đủ uy tín để
lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Một nội dung chính
trị quan trọng trong thời kỳ quá độ là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất;
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân và trí

thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống
chính trị cũng như từng thành tố của nó trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh.
17
Nội dung kinh tế, được Hồ Chí Minh đề cập đến trên các bình diện: lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng gia sản
xuất gắn liền với thực hành tiết kiệm, không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ
sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta Hồ Chí Minh là người đầu
tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần
kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho
chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức
sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn
và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc
dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. Đối
với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi
vào con đường hợp tác. Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia cách
mạng dân tộc dân chủ, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp
thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước
không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ
hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế Nhà nước.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con
người mới: "Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa". Con người
vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Đặc biệt Hồ Chí Minh đề cao
vai trò của văn hóa giáo dục và khoa học kỹ thuật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải
học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn đưa
loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào
tạo và sử dụng nhân tài. Hồ Chí Minh có một nhãn quan nhân bản về văn hóa, khẳng

18
định vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội. Từ đó, người khẳng định, văn hóa là một
trong những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng con người mới, xã hội mới.
Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: "Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận
thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen
và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ…".
"Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh
tế, của toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
19
Trang 5
hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây

dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Ktế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc."
"Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển.
Tăng trưởng ktế đi đôi với phát triển vhóa và giáo dục, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực của đất nước."
20
Câu 4: Tư tưởng Đại đoàn kết của HCM
Bài Làm
CM là sự nghiệp của quần chúng. Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong một mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi chống kẽ thù chung và xây dựng đất nước. Có thể tómtắt tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc của HCM trong câu khái quát nổi tiếng của Người:
“Đoàn kết, Đòan kết, Đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Khẩu hiệu nổi tiếng của HCM đã trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược của
Người xuyên suốt quá trình CM VN, từ CM giải phóng dtộc đến CM XHCN. Ttưởng
đại đoàn kết cùng đạo đức, nhân cách vô cùng cao cả và trong sáng của Người đã quy
tụ được khối đại đoàn kết dân tộc, đưa tới những thắng lợi vĩ đại cho sự nghiệp CM
của Đảng và dtộc.
Tư tưởng đại đoàn kết HCM là một hệ thống những luận điểm, những nguyên
tắc, những phương pháp giáo dục tập hợp tổ chức lực lượng CM nhằm phát huy cao
nhất sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của quốc tế vận dụng vào sự nghiệp đấu
tranh vì độc lập tự do vì CNXH. Mục tiêu của tư tưởng đại đoàn kết nhằm tập hợp tối
đa mọi lực lượng CM trong nước và quốc tế.

Tư tưởng đại đoàn kết HCM xuất phát từ truyền thống đòan kết nhân ái của dân
tộc, từ tinh hoa VH nhân loại đặc biệt HCM đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về đòan kết, về tập hợp lực lượng…
Tư tưởng đại đoàn kết HCM cũng xuất phát từ tình hình XH VN cuối TK 19 đầu
TK 20 cũng như là thực tiễn tình hình thế giới. Đồng thời xuất phát từ chính tấm
21
lòng khoan dung độ lượng, nhân ái, bao la của Người, từ cái nhìn lạc quan về bản
chất tốt đẹp của Người và sức cảm hoá của CM.
Người viết:”cách mệnh là việc chung của cả dân chúng cjhứ không phải việc
một hai người “ Người yêu cầu Đảng “phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng”. Vì vậy trên cơ sở khối liên minh công nông vững chắc, “Đảng phải hết sức
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, công nông…để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn
đối với bọn phú nông , trung-tiểu địa chủ và TB VN chưa rõ mặt phản CM thì phải
lợi dụng, ít nữa thì làm cho trung lập”
Tư tưởng đại đoàn kết của HCM là tư tưởng mang tính CM, nhân bản, vị tha để
tập hợp mọi lực lượng cần tập họp cho CM nước ta. Người đã nói :”Tôi khuyên đồng
bào đoàn kết chặc chẽ và rộng rãi, năm ngón tai cũng có ngón vắn ngón dài, nhưng
vắn dài đều hợp nhau lại bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế
khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại hộ. Ta phải nhận rằng đã là con lạc cháu hồng thì ai cũng có ít hay nhiều
lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình nhân ái mà
cảm hoá họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết dân tộc, có đại đoàn kết thì tương lai
chắc chắn sẽ vẽ vang.
HCM coi nhiêm vụ đánh đuổi giặc ngoại xâm, đánh đổ phong kiến giành độc
lập, tự do cho dân tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng đất nước giàu đẹp là nhiệm vụ
của toàn dân. Người viết:” hởi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là
người VN đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm:người có tiến góp tiền,
người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng. Riêng
phần Tôi, sinh đam hết tâm lực đi cúng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập
dù phải hy sinh tính mệnh thì cũng không hề.”

Ngay sau khi thành lập Đảng, Người đề ra chủ trương lập hội phản đế đồng
minh-một hình thức mặt trận dân tộc thống nhấtrộng rãi chống đế quốc. Thời kỳ
22
1936-1939 trong thu góp ý kiến với Đảng về mặt trận dân chủ, Người bổ sung vào
tên mặt trận hai chữ “Dân tộc” nghĩa là không chỉ có nhân dân LĐ vmàgồm cả giai
cấp tư sản dân tộc nữa và nhắc nhỡ:phải tránh hết sức để họ ở ngoài mặt trận. Năm
1941 về đến Cao Bằng, Người đã cho tổ chức thí điểm các hội quần chúng rồi tiến
đến thành lập”Mặt trận Việt minh”. Sau CM tháng 8 thành công với quan niệm “hễ là
người VN thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”, Người chủ trui7ơng tập hợp đòan
kết mọi lực lượng để phụng sự quốc gia “miễn là không phản lại quyền lợi dân
chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với tổ quốc là
dùng được”, “không được phép bỏ một lực lượng nào sẳn sàng phục vụ quốc gia”.
Tư tưởng đại đoàn kết của HCM nhằm huy động lực lượng cho CM nước ta là tư
tưởng rộng lớn, Người đã nói :”Chúng ta phải đoàn kết chặc chẽ các tầng lớp nhân
dân, động viên lực lượng của nhân dân để phá6những đấu haòn thành sự nghiệp CNH
XHCN ở miền bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Phải đoàn kết tốt các
đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong mặt trận tổ quốc VN, thực hiện hợp tác lâu
dài, giúp đở lẫn nhau cùng tiến bộ. Phải đòan kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây
dựng tổ quốc …phải đòan kết chặc chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn
giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận ấm no, xây dựng tổ quốc”.
HCM cũng đã chỉ rõ đòan kết là nguyên nhân của mọi thành công:”đòan kết là
sức mạnh là then chốt của thành công”, “bất kỳ khó khăn gì, bất kỳ công việc to mấy
ta đoàn kết ta đều làm được hết cả. Ví dụ lật đổ thực dân phong kiến có khó không?
Khó. Thế nhưng ta đoàn kết nên ta lật đổ được, lúc bắt đầu kháng chiến ta ở trong
hoàn cảnh rất khó khăn. Pháp có hải quân, không quân, xe tăng, có những tên tướng
có kinh nghiệm mấy chục năm, có khí giới của Mỹ giúp. Lúc đó cơ đồ ta chỉ có tay
không mà phải đánh kẽ địch mạnh hơn. Nhưng chúng ta đã thắng. Vì sao? Vì đoàn
kết”.
23
Một trong những vấn đề quan trọng, theo HCM là phải đòan kết nhất trí trong

Đảng về đường lối chủ trương, chính sách, về tổ chức thực hiện. Người viết:” Đảng
tà là một Đảng lãnh đạo. Tất cả các cán bộ Đảng viên dù ở cương vị khác nhau đều
phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ của Đảng giao cho”’ HCM hết sức coi
trọng sự đòan kết nhất trí trong Đảng bởi dsự đòan kết này là hạt nhân để giữ gìn phát
huy truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Người chỉ rõ”đòan kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta” và đòi hỏi:”các đ/c từ
TW đến chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”. Đảng mà không có sự đòan kết nhất trí” trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược’ thì không thể lãnh đạo được CM. Sức mạnh của Đảng ta là ở sự đòan kết nhất
trí, Bác Hồ đã chỉ rõ: để giữ gìn sự đòan kết nhất trí trong Đảng, Đảng phải thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, đó là cách
tốt nhất để cũng cố sự đòan kết thống nhất của Đảng; phải có tình đ/c thương yêu lẫn
nhau mỗi Đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đao đức CM, thật sự cần kiệm liêm
chính, chi công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Từ những nội dung nêu trên ta thấy nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết trong
tư tưởng HCM là: khối đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm lợi ích
tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động tức là vừa đòan
kết vừa đấu tranh , lấy lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân
LĐ làm nền tảng trên cơ sở đó bảo đảm sự kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân và tập
thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế , đòan kết phải tin
dân, dựa vào dân. Đảng và nhà nước phải dựa vào dân, lấy dân, coi dân là mục tiêu là
động lực của mọi đường lối, chủ trương chính sách. Đồng thời khối đại đoàn kết toàn
dân phải được xây dựng trên cơ sở lấy liên minh công nông-trí thức làm nền tảng
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
24
Về phương pháp xây dựng khối đại đoàn kết theo tư tưởng HCM là tuyên
truyền, vận động giáo dục thuyết phục, nêu gương; lấy thẳng thắng chân thành để đối
xử lấy thành thật tinh yêu để cảm hóa;trân trọng phát huy nhân tố tích cực,hạn chế
đẩy lùi nhân tố tiêu cực;tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức cá nhân đều tiến bộ

và trưởng thành có đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp CM chung vì Tổ quốc vì
CNXH, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị cũng như phải kết hợp đồng
bộ các giải pháp ứng xử nhằm mở rộng tối đa lực lượng CM và thu hẹp tối đa lực
lượng đối địch…
Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và trong bối cảnh tình hình thế
giới có những biến đổi phức tạp hiện nay hơn lúc nào hết phải tăng cường đoàn kết
nhất trí trong Đảng củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh dưới
sự lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy cao độ các nguồn nội lực, sự dụng có hiệu quả
nhất các nguồn ngoại lực để từng bước nhận định từng bước thực hiện hoàn thành sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
CNH, HĐH đất nước là để xdựng CNXH thắng lợi và bảo vệ tổ quốc là snghiệp
vĩ đại của toàn dân. Nó đòi hỏi chúng ta phải đoàn kết
tất cả 54 dân tộc anh em trong cà nước và đoàn kết với bạn bè năm châu . Từ
thời các vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh, đặc điểm quý báu nhất của khối đòan
kết của dân tộc ta là khắp nơi đều quy về một mối, dựa trên một nền, xoay quanh một
trục. Bởi lẽ hễ là người VN, ai cũng có lòng yêu nước đều là con cháu Lạc Hồng.
Đòan kết luôn là truyền thống là sức mạnh của dân tộc ta để chiến thắng kẽ thù xâm
lược bảo vệ non sông, kiến thiết đất nước.
Sau hơn 15 năm đổi mới đất nước, nền KT nước ta chuyển từ KT tập trung quan
liêu bao cấp sang KT ttrường định hướng XHCN. Những mặt tích cực của KT
ttrường đã có tác động thúc đẫy KT phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt. Tuy nhiên những mặt tiêu cửc của cơ chế thị trường cũng đã gây ra tác động xấu,
25

×