Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Thảo luận học phần chủ nghĩa xã hội khoa học đề tài đặc trưng cơ bản của dân tộc liên hệ với đặc trưng cơ bản của dân tộc nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.07 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
--------🙞✪🙜--------

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài:

ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC. LIÊN HỆ
VỚI ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC NGA

Nhóm: 5
Lớp học phần: 2223HCMI0121
Người hướng dẫn: Phạm Thị Hương
Hà Nội, tháng 4 năm 2022

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I.

DÂN TỘC THEO NGHĨA RỘNG.

3
4

1. Quan niệm về dân tộc.

4



2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa rộng.

4

II. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC THEO NGHĨA
HẸP.

I.

7

1. Khái niệm dân tộc theo nghĩa hẹp.

7

2. Đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa hẹp.

8

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC NGA.
1. Quá trình hình thành dân tộc Nga.
2. Quá trình phát triển dân tộc Nga.

II. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC NGA.
1. Những đặc trưng cơ bản của dân tộc Nga.

9
9
10

12
12

2. Những giá trị tích cực của các đặc trưng của dân tộc Nga đối với sự phát triển của
nước Nga.
17
3. Những hạn chế của các đặc trưng của dân tộc Nga đối với sự phát triển của nước
Nga.
19
4. Nguyên nhân của những hạn chế.

21

III. PHƯƠNG THỨC VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ VÀ TIẾP TỤC
PHÁT TRIỂN CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN TỘC NGA.
23
1. Phương hướng khắc phục hạn chế và tiếp tục phát triển các đặc trưng của dân tộc
Nga.
23
2. Giải pháp khắc phục hạn chế và phát triển các đặc trưng của dân tộc Nga.

23

KẾT LUẬN

26

TÀI LIỆU THAM KHẢO

27


2


LỜI MỞ ĐẦU

Victor Hugo từng nói: "Khơng có đất nước nào nhỏ bé. Sự vĩ đại của một dân tộc
không được quyết định bởi số người, cũng như sự vĩ đại của một người không được
đo bằng chiều cao của anh ta". Từ xa xưa vấn đề dân tộc là tất yếu, đóng vai trị quan
trọng nhất đối với một đất nước. Dân tộc là lý tưởng, là lẽ sống của con người trong
quá trình gìn giữ và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là giá trị cốt lõi mà Đảng và nhà nước
ta theo đuổi từ những buổi đầu dựng nước. Từ thời vua Hùng, trải qua hàng nghìn
năm lịch sử cho đến khi phát triển lên xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề dân tộc
càng được củng cố và hoàn thiện. Để xây dựng được một đất nước độc lập dân chủ,
chính trị ổn định như hiện tại, ông cha ta, những người đi trước đã đánh đổi bằng biết
bao mồ hôi và sức lực. Vậy nên chúng ta, thế hệ trẻ, được thừa hưởng thành quả cách
mạng bản thân cần phải tiếp nối người đi trước hồn thành sứ mệnh của mình. 
Thế giới mà chúng ta đang sống luôn vận động không ngừng dưới sự tác động mạnh
mẽ của những tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Sự ra đời của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đã tạo nên một điểm nhấn trong thời kỳ kỷ ngun số. Mặt khác, góp phần
đẩy nhanh q trình tồn cầu hóa diễn ra với tốc độ đáng kinh ngạc. Tồn cầu hóa trở
thành xu thế phát triển của thế giới trong đó có Việt Nam. Xu hướng tồn cầu hóa tạo
nên mạng lưới liên kết giữa các quốc gia và có tác động rất lớn đến vấn đề chính trịxã hội của các nước. Bên cạnh những ưu điểm về phát triển kinh tế giữa các nước với
nhau còn kéo theo những lo ngại về vấn đề dân tộc. Làm sao có thể cân bằng được
việc phát triển kinh tế nhưng không làm mất giá trị cốt lõi của dân tộc? Đó là câu hỏi
đặt ra cho các quốc gia mà đặc biệt là các nước nhỏ đang phát triển. Nhận thức được
đúng đắn về vấn đề dân tộc là điều vơ cùng cần thiết. Có kiến thức, ta mới xác định
chính xác tư tưởng từ đó áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Nhận ra được tầm quan
trọng, cũng như tính thực tiễn của vấn đề này, bài thảo luận xin phép đề cập đến các
đặc trưng cơ bản của dân tộc nhằm cung cấp một số kiến thức cụ thể xác thực mà

nhóm đã nghiên cứu được. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, nhóm 5 đã lựa chọn dân tộc
Nga để làm rõ hơn về vấn đề này.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC.
I. DÂN TỘC THEO NGHĨA RỘNG.
1. Quan niệm về dân tộc.
a, Quan niệm về dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin Dân tộc là chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt
chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa
đặc thù hay chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh
thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất
quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn
hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và
giữ nước.
b, Quan niệm về dân tộc của phương Tây và phương Đông.
❖ Với phương Tây.
Dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và thay
thế vai trò của phương thức sản xuất phong kiến. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở
sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hố đã làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau.
Nền kinh tế tự cấp, tự túc bị xoá bỏ, thị trường có tính chất địa phương nhỏ hẹp, khép
kín được mở rộng thành thị trường dân tộc. Cùng với q trình đó, sự phát triển đến
mức độ chín muồi làm cho dân tộc xuất hiện, chỉ đến lúc đó tất cả lãnh địa của các
nước phương Tây mới thực sự hợp nhất lại, tức là chấm dứt tình trạng cát cứ phong
kiến và dân tộc được hình thành. Như vậy, dân tộc ra đời trên cơ sở của sự phát triển
sản xuất phong kiến, trao đổi hàng hoá làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau. Kể từ đó

nền kinh tế phát triển mà hình thành lên dân tộc.
❖ Với phương Đơng
Do tác động của hồn cảnh mang tính đặc thù, đặc biệt do sự thúc đẩy của quá trình
đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc đã hình thành trước khi chủ nghĩa tư bản
được xác lập. Loại hình dân tộc tiền tư bản đó xuất hiện trên cơ sở một nền văn hoá,
một tâm lý dân tộc phát triển đến độ tương đối chín muồi, nhưng lại dựa trên cơ sở
một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới mức độ nhất định nhưng nhìn chung còn kém
phát triển và còn trạng thái phân tán. Như vậy, dân tộc được hình thành qua quá trình
đấu tranh dựng nước và giữa nước, gắn bó với nhau vượt qua cuộc chiến để từ đó
chung sống và phát triển.
2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa rộng.
a, Khái niệm dân tộc theo nghĩa rộng.
4


Dân tộc (Nation) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngơn ngữ chung và
có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu
dài dựng nước và giữ nước.
b, Đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa rộng.
Dân tộc được nhận biết thông qua những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
Lãnh thổ là dấu hiệu xác định khơng gian sinh tồn, vị trí địa lý của một dân tộc, biểu
thị vùng đất, vùng trời, vùng biển mà mỗi dân tộc được quyền sở hữu. Lãnh thổ là
yếu tố thể hiện chủ quyền của một dân tộc trong tương quan với các quốc gia, dân tộc
khác. Trên khơng gian đó, các cộng đồng tộc người có mối quan hệ gắn bó với nhau,
cư trú đan xen với nhau. Vận mệnh của cộng đồng tộc người gắn bó với việc xác lập
và bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
Đối với quốc gia và từng thành viên dân tộc, yếu tố lãnh thổ là liêng thiêng nhất.

Khơng có lãnh thổ thì khơng có khái niệm tổ quốc, quốc gia. Bảo vệ chủ quyền quốc
gia là nghĩa vụ và trách nhiệm cao nhất của mỗi thành viên dân tộc. Chủ quyền quốc
gia - dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định thường được thể chế hóa thành
luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Có thể cư trú tập trung trên một lãnh thổ của
một quốc gia, hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Dân tộc Việt Nam sinh
sống xen kẽ nhau, có trình độ phát triển kinh tế – xã hội khơng đồng đều, nhưng
khơng có sự phân chia lãnh thổ và chế độ xã hội riêng. Hình thái cư trú xen kẽ nhiều
dân tộc anh em, phản ánh mối quan hệ đoàn kết, thống nhất của cộng đồng dân tộc
Việt Nam trong một quốc gia.
Đặc trưng này muốn chỉ vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn với việc xác
lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước. Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, khơng bị
chia cắt. Lãnh thổ dân tộc bao gồm cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc
quyền của quốc gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều dân tộc, lãnh thổ
quốc gia gồm lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành.
Thứ hai, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. 
Đây là nét đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc, là cơ sở để gắn kết các bộ phận, các
thành viên trong dân tộc, tạo nên tính thống nhất, ổn định, bền vững của dân tộc. Mối
quan hệ kinh tế là nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. Nếu thiếu tính
cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa thể trở thành dân
tộc
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động,
5


sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý bằng chính

sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức
sản xuất.  
Như vậy trong phương thức sinh hoạt kinh tế có thể thấy hoạt động lao động sản xuất
vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã
hội là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con
người, nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội lồi
người.
Thứ ba, có chung ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp.
Mỗi một dân tộc có ngơn ngữ riêng, bao gồm cả ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết, làm
cơng cụ giao tiếp giữa các thành viên trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và
tình cảm…Trong một quốc gia có nhiều cộng đồng tộc người, với các ngôn ngữ khác
nhau, nhưng bao giờ cũng sẽ có một ngơn ngữ chung, thống nhất. Tính thống nhất
trong ngơn ngữ dân tộc được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp
và kho từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ dân tộc là một ngôn ngữ đã phát triển và sự thống
nhất về ngôn ngữ là một trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc.
Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một cơng cụ giao tiếp vạn năm vì nó hành trình cùng con
người từ lúc con người xuất hiện cho tới tận ngày nay. chúng ta biết rằng, để đáp ứng
nhu cầu giao tiếp của xã hội, loài người đã tạo ra và thiết lập rất nhiều các hệ thống
tín hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngơn ngữ.
VD: Khoảng thế kỷ thứ 10, người Việt đã "sáng chế" ra thứ chữ Việt bằng cách mượn
chữ Hán mà viết, gọi là chữ Nôm (nghĩa là Nam, sau gọi là quốc âm). Song nếu chữ
Hán khó một thì chữ Nơm khó mười. Bởi phải biết và giỏi chữ Hán mới có thể viết
được, học được chữ Nơm. Đối với người Việt học chữ Nơm đã khó, với người ngoại
quốc xa lạ với chữ tượng hình thì chữ Nơm càng khó. Vẫn có thể học được, viết được
nhưng khơng thể phổ biến rộng được. Chính vì vậy các giáo sĩ đã nghĩ đến việc Latin
hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày xưa gọi là "chữ Annam viết bằng mẫu tự
Latin".
Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý.
Văn hóa dân tộc được biểu hiện thơng qua tâm lý, tính cách, phong tục, tập quán, lối
sống dân tộc, tạo nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt chẽ

với văn hóa của các cộng đồng người trong một quốc gia. Văn hóa là một yếu tố đặc
biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa độc đáo
của dân tộc mình. Trong sinh hoạt cộng đồng, các thành viên của dân tộc thuộc
những thành phần xã hội khác nhau tham gia vào sự sáng tạo giá trị văn hóa chung
của dân tộc, đồng thời hấp thụ các giá trị văn hóa chung đó. 
Cá nhân hoặc nhóm người nào từ chối những giá trị văn hóa dân tộc thì họ đã tự mình
tách khỏi cộng đồng dân tộc. Văn hóa của một dân tộc khơng thể khơng phát triển
nếu khơng giao lưu với văn hóa của dân tộc khác. Tuy nhiên, trong giao lưu văn hóa,
các dân tộc ln ý thức bảo tồn và phát triển bản sắc của mình, tránh nguy cơ đồng
hóa về văn hóa.

6


VD: Văn hóa Việt Nam là sự tổng hịa các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh em,
trong đó có những tộc người sống trên lãnh thổ Việt Nam, có những dân tộc chỉ có số
lượng vài trăm người, có những dân tộc có hàng triệu người nhưng các dân tộc luôn
coi nhau như anh em một nhà, thương yêu đùm bọc lẫn nhau , chung một văn hóa,
chung sức xây dựng bảo vệ Tổ quốc như lời Bác Hồ đã căn dặn trong thư gửi Đại hội
các dân tộc thiểu số: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai, Ê Đê, Xê
Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh
em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.
Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đồn kết của chúng ta khơng bao giờ
giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự chủ của
chúng ta”.
Thứ năm, có chung một nhà nước (Nhà nước dân tộc)
Các thành viên cũng như các cộng đồng người trong một dân tộc đều chịu sự quản lý,
điều khiển của một nhà nước độc lập. Đây là yếu tố phân biệt dân tộc - quốc gia và
dân tộc - tộc người. Dân tộc - tộc người trong một quốc gia khơng có nhà nước với
thể chế chính trị riêng. Hình thức tổ chức, tính chất của nhà nước do chế độ chính trị

của dân tộc, là đại diện cho dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác trên
thế giới.
VD: Trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, 54 dân tộc anh em như “cây một cội, như con
một nhà” tuy khác nhau về dân tộc nhưng mọi người đều là con dân Việt Nam, đều
đấu tranh hết mình vì tương lai của đất nước, từ Nam vơ Bắc một lịng vì sự phát
triển của đất nước, 54 dân tộc nhưng chỉ một đảng, luôn tương thân, tương ái giúp đỡ
lẫn nhau, xây dựng một quốc gia vững mạnh. 
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng trên.
Các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi
đặc trưng có một vị trí xác định. Dân tộc không chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh
tế, văn hóa xã hội mà cịn là động lực của sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời
đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác và hội
nhập là xu thế khách quan đối với mỗi quốc gia dân tộc trên thế giới, song khơng vì
thế mà làm mất đi bản sắc với những đặc trưng phong phú của dân tộc mình.

II.
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC THEO NGHĨA
HẸP.
1. Khái niệm dân tộc theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người được hình
thành trong lịch sử, có mối liên kết chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc
người, ngơn ngữ và văn hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và
phát triển cao hơn những nhân tố tộc người của các cộng đồng đó.

7


2. Đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa hẹp.
Cộng đồng về ngơn ngữ (bao gồm ngơn ngữ nói, ngơn ngữ viết; hoặc chỉ riêng
ngơn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn

đề luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tộc
người, vì nhiều ngun nhân khác nhau, có những tộc người khơng cịn ngơn ngữ mẹ
đẻ mà sử dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
Rất nhiều tộc người ở Việt Nam có ngơn ngữ riêng từ nhiều nguồn gốc khác
nhau. Ví dụ như ngơn ngữ dân tộc Thái trong ngữ hệ Thái - Kađai vẫn thường xuyên
được sử dụng trong cộng đồng người Thái ở Việt Nam. Có rất nhiều sách Thái cổ ghi
lại những phong tục tập quán, lễ nghi, ca dao tục ngữ, các bài cúng và sách về các bài
thuốc chữa bệnh dân gian. Khác với dân tộc Thái, dân tộc Mường khơng có chữ viết
riêng, và cũng do sự trộn lẫn dân cư Việt và Mường nên ngôn ngữ của dân tộc
Mường cũng có nhiều điểm tương đồng với ngơn ngữ Việt. Điều này càng làm ngôn
ngữ trở nên phong phú hơn.
Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể
ở mỗi tộc người, phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tơn
giáo của tộc người đó. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với truyền thống
văn hóa của họ. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn hóa vẫn song song tồn tại xu
thế bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người.
Sự chia sẻ văn hóa trong cộng đồng và sự khác biệt về văn hóa so với các tộc người
khác được thể hiện ở mọi mặt ở cuộc sống. Một ví dụ rõ ràng nhất là cách mà các dân
tộc ăn Tết truyền thống của dân tộc mình. Dân tộc Chăm có hai ngày lễ lớn nhất là
Păng-Katê và Păng-Chabư, khi đó người dân tộc Chăm sẽ tổ chức lễ cúng gồm hoa
quả, bánh trái đủ loại, cúng cơm, rượu và thịt. Ba nghi lễ gồm các thầy vừa kéo đờn
Kanhi (đờn mai rùa) vừa xướng văn tế lễ cịn các bà Bóng thì lo dâng rượu và múa
mừng. Hay như người Ê Đê đón Tết Cơm mới vào mùa lúa chín vàng cả nương rẫy.
Mỗi gia đình sẽ ăn mừng mùa lúa chín với lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai
chóe rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài dĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng sẽ khấn
vái các vị thần để xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa.
Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một tộc
người có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người. Đặc
trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân tộc
mình; đó còn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người dù

cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh hưởng
của giao lưu kinh tế, văn hóa… Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc
người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người. Ý
thức tự giác tộc người có tính độc lập cao. Dẫu cho lãnh thổ bị ngăn cách, văn hóa bị
đứt gãy, thậm chí cả ngơn ngữ mẹ đẻ bị mất đi thì ý thức tự giác tộc người vẫn được
duy trì. Khi có ý thức về tộc người, một người sẽ ln biết rõ được cộng đồng mà
mình thuộc về, khi đó, dân tộc tộc người vẫn sẽ trường tồn dù khơng có biểu hiện cụ
thể về lãnh thổ hay bị chịu ảnh hưởng từ những yếu tố tác động bên ngoài.
 Thực chất, hai cách hiểu về khái niệm dân tộc tuy khơng đồng nhất nhưng lại
gắn bó mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Dân tộc quốc gia bao hàm dân tộc tộc
người; dân tộc tộc người là bộ phận hình thành dân tộc quốc gia. Dân tộc tộc người ra
8


đời trong những quốc gia nhất định và thông thường những nhân tố hình thành dân
tộc tộc người khơng tách rời với những nhân tố hình thành quốc gia.

CHƯƠNG 2:
LIÊN HỆ VỚI ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC NGA.
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC NGA.
1. Quá trình hình thành dân tộc Nga.
Tổ tiên người Nga là các bộ lạc người Slavs sinh sống tại vùng đất Nga và phía Đơng
Châu Âu, họ sống dưới sự cai trị của người Scythians và Samartians du nhập từ phía
Đơng. Tới thế kỷ thứ III nhóm người Goths từ phía Bắc đã lật đổ người Samartians
và cai quản miền Nam nước Nga. Nhưng sự cai trị cũng không được bao lâu do cuộc
xâm nhập của người Hung Nô phía Đơng, họ đã xây dựng lên đế chế Hung Nô ở
miền Nam nước Nga nhưng cũng dần biến mất khỏi lịch sử sau thời kì thịnh vượng
ngắn ngủi. Sau này bộ tộc Avar, Kharzar và cả Viking cũng tới chiếm đóng nước
Nga.
Năm 862, một người Rus thuộc bộ tộc Viking tên Rurik đã lập lên vương quốc tại

Novgorod ở miền Bắc nước Nga. Sau khi Rurik qua đời, con trai ông là Oleg kế vị đã
mở rộng thêm quyền lực về phía nam đặt tên nước là Kiev. Năm 1054 nhiều người vì
tranh giành quyền lực mà xảy ra nội chiến, Đại công quốc Kiev bị chia thành nhiều
nước nhỏ. Đến cuối thế kỷ XII, Kiev mất dần sự ảnh hưởng ở nước Nga rồi dần dần
suy thoái.
Năm 1243, người Mông Cổ thành lập Hãn Quốc Kim Trướng, công quốc Moskva
không chống cự mà chấp nhận sự cai trị của người Mơng Cổ bởi vậy mà có được
lịng tin của người Mông Cổ và được trao quyền cai trị. Đại công tước Moskva là
Ivan I đã biến công quốc Maskva thành đại công quốc Moskva.
Vào đầu thế kỷ XIX, một cuộc chiến xảy ra giữa đế quốc Nga và đế quốc Nhật trong
việc giành quyền kiểm soát Mãn Châu và Triều Tiên đã dẫn đến cuộc cách mạng năm
1805, gia hoàng Nicolai đã đàn áp dã man khiến dân chúng bất mãn, đất nước trở nên
suy yếu. Trong thế chiến I, do bị ràng buộc bởi hiệp ước hoàng đế Nicolai và thần
dân của mình bước vào chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1917, Cuộc Cách mạng
Tháng Mười nổ ra đã xóa bỏ nước Nga Sa hồng và dựng lên một nước Nga mới Nước Nga Xô – Viết, đưa giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân Nga lên nắm
chính quyền.
Năm 1939, Hitler xâm lược Ba Lan cùng lúc đó Stalin cũng xâm chiến Ba Lan và
chiếm được một nửa. Quân đội Xô – Viết đã phản công được Đức nhờ lực lượng
đông đảo và sự hỗ trợ của Mỹ. Năm 1945, quân đội Xô – Viết cuối cùng cũng đánh
thắng Đức chiếm được Berlin và giành chiến thắng hoàn toàn. Sau thế chiến thứ Hai
đối lập với chủ nghĩa Tư Bản đại diện là Mỹ và Chủ nghĩa Xã Hội đại diện là Xô –
Viết thế giới bước vào thời kì chiến tranh lạnh. Xơ – Viết cạnh tranh với Mỹ trên toàn
bộ lĩnh vực. Năm 1970, Xô – Viết xảy ra xung đột với Trung Quốc và từ đó từng

9


bước đặt lại quan hệ với Mỹ. Vào giai đoạn giữa và cuối thập niên 1980, những sáng
kiến cải tổ và cải mở của Gorbachev đã vơ tình gây ra sự sụp đổ của chuỗi các nước
Xã hội chủ nghĩa chia tách Liên Xơ thành 15 nước Cộng hịa độc lập trong đó Nga là

lớn nhất.
Năm 1991, Gorbachev giải tán Đảng Cộng sản Xô – Viết rồi từ chức, Liên Bang Nga
được thành lập nhận phần lớn lãnh thổ của nước Nga xưa tiêp nối đến ngày nay.
2. Quá trình phát triển dân tộc Nga.
Sau 10 năm độc lập, chủ yếu do những sai lầm của chính quyền Yeltsin, sức mạnh
quốc gia tổng hợp cũng như vị thế, vai trò trên trường quốc tế của nước Nga suy giảm
nghiêm trọng.
7/5/2000 V.Putin chính thức trở thành Tổng thống thứ hai của Liên bang Nga. Từ đó
đến nay, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống đã gặt hái được rất nhiều thành
tựu, thành cơng.


Về chính trị - tư tưởng: 

Ngay từ đầu, Tổng thống V.Putin đã hạ quyết tâm  đưa nước Nga thốt khỏi cuộc suy
thối, khủng hoảng tồn diện. Kết quả của những cải cách chính trị là nước Nga thời
Putin đã chấm dứt cục diện chính trị hỗn loạn thời Yeltsin, trật tự hiến pháp và không
gian pháp lý chung đã được phục hồi và củng cố. Chính phủ Nga cũng ngày càng
mạnh tay hơn trong việc sử dụng các công cụ của Nhà nước để thiết lập trật tự, kỷ
cương và chống tham nhũng,... Thành tựu nổi bật là Nga đã bảo đảm được sự ổn định
chính trị, vừa ngăn không để xảy ra “cách mạng sắc màu”, vừa không bị “cách mạng
sắc màu” ở một số nước SNG khác tác động tiêu cực đến đời sống chính trị của đất
nước.


Về kinh tế - xã hội: 

Kinh tế phục hồi đã tạo điều kiện cho chính quyền thực hiện các chính sách xã hội
tích cực như xây dựng, sửa chữa hạ tầng cơ sở, trường học, bệnh viện, tăng lương cho
người lao động và lương hưu,.. làm cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân lao động Nga.

Thu nhập thực tế của dân Nga đã tăng gần 3 lần, cịn tỷ lệ đói nghèo giảm một nửa.
Đặc biệt, Nga đã chặn được đà suy giảm dân số kéo dài rất nhiều năm (nhất là trong
thập niên 90) bằng nhiều chính sách xã hội. 


Về qn sự - quốc phịng: 

Một chương trình cải cách sâu rộng và hiện đại hóa tồn diện lực lượng vũ trang đã
được đưa ra và thực thi hiệu quả, giúp quân đội Nga thành lực lượng chính quy, hiện
đại, có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Với vị thế là cường quốc quân sự hùng mạnh
thứ hai thế giới, Nga hiện đủ sức ngăn chặn các nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, bảo
đảm sự ổn định, thế cân bằng chiến lược và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nga trở
thành nhà xuất khẩu vũ khí hàng đầu và có uy tín nhất thế giới (Nga xuất khẩu vũ khí
tới 65 nước, đã ký Hiệp định hợp tác kỹ thuật - quân sự với 89 nước). 
● Về đối ngoại: 
10


Nga nhắm tới các mục tiêu mang đậm tính hiện thực, đó là bảo vệ lợi ích quốc gia và
nâng cao vai trò, vị thế của nước Nga trên trường quốc tế. Trên thực tế, bằng chính
sách đối ngoại được hiểu theo nghĩa như trên, Nga ngày càng tỏ rõ vai trị quan trọng
của mình trong các cơng việc quốc tế. Nga đặc biệt đề cao vai trò của Liên Hợp quốc
nói chung, của Hội đồng Bảo an nói riêng trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Nga
mạnh mẽ lên án những động thái gây căng thẳng, sự ngờ vực lẫn nhau trong quan hệ
quốc tế, kiên trì đấu tranh chống lại ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực do một siêu
cường hoặc một nhóm nước lớn phát triển chi phối, ủng hộ việc xây dựng một trật tự
thế giới đa cực, đa trung tâm, công bằng và bình đẳng hơn.
II.

NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC NGA.

1. Những đặc trưng cơ bản của dân tộc Nga.

Theo nghĩa rộng:
Thứ nhất, có chung một vùng lãnh thổ cố định.
Nằm ở phía bắc, phía tây và phía đông của Nam bán cầu, phần lớn nước Nga nằm
gần Bắc Cực hơn so với đường xích đạo. So sánh các quốc gia riêng lẻ rất ít có giá trị
trong việc đo lường quy mô và sự đa dạng to lớn của Nga. 17,09 triệu km2 của đất
nước bao gồm một phần tám diện tích đất có người ở của Trái đất. Phần châu Âu của
nó, chiếm một phần đáng kể của lục địa châu Âu, là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động
công nghiệp của Nga và là nơi nằm giữa sông Dniep và dãy núi Ural, Đế quốc Nga
hình thành. Nga bao gồm tồn bộ phần phía bắc của châu Á. Kéo dài tới 57.792 km
(35.910 dặm), biên giới Nga là dài nhất thế giới. Dọc biên giới đất liền dài 20.139
km, Nga có ranh giới với 14 quốc gia: Na Uy, Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva, Ba
Lan (thông qua Kaliningrad Oblast), Belarus, Ukraine, Georgia, Azerbaijan,
Kazakhstan, Mông Cổ, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Bắc Triều Tiên.
Thứ hai, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế.
Nước Nga đứng thứ 6 thế giới về tổng sản phẩm quốc dân và là một trong những
nước đứng đầu về sản xuất than, sắt, thép, quặng, dầu lửa và xi măng. Nước Nga
(Liên Xô) trở thành cường quốc hạt nhân từ 1949. Từ năm 1991, cải tổ được đẩy
mạnh thơng qua việc áp dụng chính sách thị trường tự do và khuyến khích doanh
nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, việc thiếu khuyến khích kinh tế đối với lực lượng lao
động ảnh hưởng tới tất cả các thành phần kinh tế. Nhiều hàng hoá cơ bản bị thiếu do
mạng lưới lưu thông kém. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng kém phát triển
Sản xuất nơng nghiệp có quy mơ lớn, được tổ chức theo hình thức nơng trường quốc
doanh hay nơng trang tập thể. Tuy đã cơ khí hố và được ngành cơng nghiệp sản xuất
phân bón lớn nhất thế giới hỗ trợ, song nông nghiệp của nước Nga vẫn chưa sản xuất
đủ lương thực cho nhu cầu trong nước do năng suất thấp, ít kho bãi và các phương
tiện vận tải. Hàng nhập khẩu từ U-crai-na và Ka-dắc-xtan cũng đóng vai trị quan
trọng. Các cây trồng chính của Nga là lúa mì, yến mạch, khoai tây, củ cải đường và
cây ăn quả.

Thứ ba, có chung một ngơn ngữ làm cơng cụ giao tiếp.
11


160 nhóm sắc tộc của Nga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ. Theo cuộc điều tra dân số
năm 2002, 142.6 triệu người nói tiếng Nga, tiếp sau là tiếng Tatar với 5.3 triệu và
tiếng Ukraina với 1.8 triệu. Tiếng Nga là ngơn ngữ chính thức duy nhất của nhà
nước, nhưng Hiến pháp trao cho các nước cộng hoà riêng biệt quyền đưa ngơn ngữ
bản địa của mình trở thành ngơn ngữ đồng chính thức bên cạnh tiếng Nga. Tiếng Nga
thuộc ngữ hệ Ấn Âu và là một trong những thành viên cịn tồn tại của các ngơn ngữ
Đơng Slavơ; các ngôn ngữ khác gồm tiếng Belarus và tiếng Ukraina (và có lẽ cả tiếng
Rusyn). Những ví dụ văn bản sử dụng chữ Đơng Slavơ Cổ (Nga Cổ) được chứng
minh có từ thế kỷ thứ X trở về sau.
Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý
Với diện tích lớn nhất trên thế giới, nước Nga mang trong mình những nét văn hóa
độc đáo trải rộng khắp lãnh thổ của mình. Văn hóa Nga chịu ảnh hưởng của nền tư
tưởng tơn giáo chính thống là Slav. Văn hố Nga được thể hiện khá rõ qua những nét
đặc trưng trong trang phục truyền thống. Trang phục truyền thống của phụ nữ Nga
gồm 4 loại cơ bản là váy poneva, váy sarafan, váy andarak và váy kubelek. Trang
phục truyền thống của nam là những trang phục của người Slavơ bao gồm có áo dài
thắt ngang lưng, quần khơng q rộng, giày da hoặc bện bằng vỏ cây, mũ có hoặc
khơng có vành. Nga rất nổi tiếng với những điệu múa dân gian được biểu diễn trong
các dịp lễ hội cùng với tiếng đàn balalaika - một nhạc cụ truyền thống. Đàn balalaika
khơng chỉ là một nhạc cụ đơn thuần mà cịn mang trong mình cả tâm hồn Nga và trở
thành một trong biểu tượng của văn hố Nga.
Nga cịn nổi tiếng với lĩnh vực nghệ thuật sân khấu bale và opera. Được xem là cái
nôi đào tạo và phát triển cho bộ môn nghệ thuật này cho nên hàng năm ở Nga thu hút
lượng lớn sinh viên đến học tập. Đất nước này cũng thường xuyên diễn ra những buổi
biểu diễn có quy mơ lớn cho hai loại hình nghệ thuật mang tính hàn lâm cao cấp này.
Búp bê Nga (cịn có tên gọi là Matrioshka) là biểu tượng mà bất cứ ở đâu và khi nào

nhìn thấy đều có thể nhanh chóng liên tưởng về nước Nga. Khơng những là đồ chơi
cho những em bé nước Nga, Matrioshka còn là biểu tượng hay món q khơng thể
thiếu của khách du lịch khi đến với đất nước Nga xinh đẹp. Ngày nay búp bê
Matrioshka trở thành nét văn hóa đặc trưng cho người Nga.
Thứ năm, có chung một nhà nước (nhà nước dân tộc)
Theo hiến pháp Nga sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, được thông qua trong cuộc
trưng cầu dân ý ngày 12 tháng 12 năm 1993 sau cuộc khủng hoảng hiến pháp Nga
năm 1993, Nga là một liên bang và theo chính thức là một nền cộng hịa bán tổng
thống, theo đó Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng là lãnh đạo chính
phủ. Nga được cơ cấu theo nền tảng một chế độ dân chủ đại diện. Quyền hành pháp
thuộc chính phủ. Quyền lập pháp thuộc hai viện của Quốc hội Liên bang. Chính phủ
được điều chỉnh bằng một hệ thống kiểm tra và cân bằng được định nghĩa trong Hiến
pháp Liên bang Nga, là tài liệu pháp lý tối cao của đất nước và khế ước xã hội cho
người dân Liên bang Nga. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm
kỳ sáu năm (được tham gia tranh cử nhiệm kỳ hai nhưng bị hiến pháp cấm cầm quyền
12


ba nhiệm kỳ liên tiếp); cuộc bầu cử gần nhất được tổ chức năm 2018. Các bộ của
chính phủ gồm thủ tướng và các phó thủ tướng, bộ trưởng và các cá nhân được lựa
chọn khác; tất cả đều do tổng thống chỉ định theo sự giới thiệu của Thủ tướng (tuy
nhiên việc chỉ định thủ tướng phải được Duma Quốc gia thuộc Quốc hội Liên bang
thông qua).
Theo nghĩa hẹp:
Thứ nhất, Nga có sự chênh lệch về dân số giữa các tộc người.
Nga là một quốc gia đa sắc tộc với 185 dân tộc; dân số của các dân tộc khác nhau rất
lớn, từ hàng triệu người đến dưới mười nghìn người. Thành phần các dân tộc của Nga
rất đa dạng, người dân tộc Nga là tộc người có dân số đơng nhất, chiếm tỷ lệ 81,53%
tổng dân số, còn lại là các cộng đồng dân tộc thiểu số khác. Trong các dân tộc thiểu
số, quy mơ dân số cũng có sự chênh lệch đáng kể. Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ

nhau.
Theo tài liệu về phân bố dân tộc, không có dân tộc nào có một vùng lãnh thổ riêng
mà cư trú xen kẽ nhau. Vì vậy, hầu như khơng có dân tộc nào ở Nga cư trú tập trung
và duy nhất trên một địa bàn. Dân cư tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Đông Âu do đây
là khu vực có các điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cư trú - sinh hoạt, tập trung nhiều
trung tâm công nghiệp của Liên bang Nga,... Cịn phần lãnh thổ phía Bắc, Tây của
Liên Bang Nga có khí hậu cực lạnh giá, khắc nghiệt, địa hình núi cao,… nên khó
khăn cho đời sống, phát triển kinh tế. Vì vậy, dân cư phân bố ở khu vực này thưa
thớt.
Thứ ba, các dân tộc có trình độ phát triển khơng đồng đều.
Các dân tộc ở Nga cịn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Số ít dân tộc vẫn cịn duy trì phương thức canh tác chủ yếu bằng khai thác tự nhiên
như đánh bắt cá,… mà chưa tiếp cận với phương thức sản xuất công nghiệp, một số
khác vẫn được biết đến là cư dân bán du mục, chưa có nơi định cư cố định…Khơng
chỉ riêng nước Nga mà ở các quốc gia có nhiều dân tộc, sự phát triển không đồng đều
giữa các dân tộc là tình trạng khá phổ biến. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
lịch sử, xã hội, điều kiện tự nhiên nơi sinh sống… quy định.
Thứ tư, mỗi dân tộc có một nét văn hố bản sắc riêng góp phần làm phong phú đa
dạng văn hóa Nga.
Nền văn hóa Nga là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc có những giá
trị và sắc thái văn hóa riêng. Vì thế, ở nước Nga có nhiều dịng ngơn ngữ, trong mỗi
dịng lại có những nhóm khác nhau. Văn hóa, sản xuất, kiến trúc, xây dựng ... giữa
các dân tộc cũng có nhiều nét khác nhau. Văn hóa ăn, mặc của các dân tộc hết sức
phong phú. Phong tục, tập quán, lối sống của mỗi dân tộc một khác nhau dẫn đến tổ
chức xã hội của mỗi dân tộc cũng khác. Chính bản sắc văn hóa mỗi dân tộc nước Nga
tạo nên nền văn hoá Nga rực rỡ.
Thứ năm, những dân tộc thiểu số ở Nga phân bố ở những địa bàn có vị trí quan
trọng.
13



Dân tộc thiểu số ở Nga phân bố rải rác về phần phía bắc và phía đơng nước Nga, nơi
có khí hậu tương đối khắc nghiệt nhưng là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên và
khoáng sản, là nơi dễ xảy ra tranh chấp lợi ích giữa các nước. Tiêu biểu gần đây là
những tranh chấp xảy ra tại Bắc Cực. Bắc Cực trở nên hấp dẫn nhiều quốc gia trên
thế giới vì khu vực này rất giàu tài nguyên thiên nhiên, nhất là dầu mỏ và khí
đốt,chiếm tới gần 30% trữ lượng khí đốt và 13% trữ lượng dầu mỏ chưa được phát
hiện trên toàn thế giới, cùng với đó là kim loại hiếm, thủy hải sản… Ngay từ năm
2001, Nga đã tuyên bố với Liên Hợp Quốc chủ quyền biển hàng chục nghìn km² ở
Bắc Cực. Năm 2001, Nga đã đệ trình lên Ủy ban Phân định ranh giới thềm lục địa
của LHQ yêu cầu công nhận 1,2 triệu km2 dưới lòng biển từ đỉnh hai núi ngầm
Lomonosov và Mendeleev đến Bắc cực. Chính vì vậy những dân tộc cư trú tại phần
lãnh thổ nước Nga gần Bắc Cực trở nên rất quan trọng trong việc giữ gìn an ninh
quốc phịng…
2. Những giá trị tích cực của các đặc trưng của dân tộc Nga đối với sự phát
triển của nước Nga.
Theo nghĩa rộng:
Thứ nhất, lợi ích của việc có chung một ngơn ngữ làm cơng cụ giao tiếp
Ngơn ngữ chính là những cơng cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản vật
thể và phi vật thể của chúng ta. Ngơn ngữ đóng một vai trị quan trọng trong q trình
phát triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao
thoa, trao đổi với nhau. Ngơn ngữ đóng một vai trị quan trọng trong q trình phát
triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa,
trao đổi với nhau. Ngôn ngữ cũng giúp tăng cường hợp tác, xây dựng xã hội tri thức
toàn diện, bảo tồn các di sản văn hóa và tạo điều kiện tiếp cận với một nền giáo dục
có chất lượng cho mọi người. Mỗi tiếng nói đều là nguồn ngữ nghĩa độc đáo để hiểu,
viết và mô tả thực tế thế giới. Tiếng nói cùng với sự đa dạng của ngơn ngữ có ý nghĩa
quan trọng để xác định bản sắc của các cá nhân như là nguồn sáng tạo và phương tiện
để biểu hiện văn hóa, bảo đảm sự phát triển lành mạnh của xã hội.
Thứ hai, lợi ích có một nhà nước chung

Trong lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều
không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước.
Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp
nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu
quả của nền kinh tế.
Với chức năng kinh tế, nhà nước không chỉ là người quản lý, người ban hành các quy
định, các luật chơi trên thị trường, mà cịn đóng vai trị chủ thể hoạt động sản xuất
(nhất là các hàng hóa và dịch vụ cơng), là người mua và bán các hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường. Như vậy lúc này quan hệ giữa nhà nước và thị trường biểu hiện ra là
quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường, quan hệ giữa những người mua và người
bán hàng hóa và dịch vụ chịu sự tương tác, ràng buộc của các quy luật kinh tế trên thị
14


trường, cũng như sự quản lý điều hành của nhà nước thông qua hệ thống quy định
luật pháp và các cơng cụ quản lý.
Ví dụ: Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước Tư sản trong giai đoạn đầu phát triển
xã hội tư bản: xác lập và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, có chung một nền văn hóa và tâm lý.
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống
xã hội nền văn hóa cũng có nhiều vai trị to lớn, cụ thể như:
+ Văn hóa góp phần làm ổn định tình trạng xã hội, bởi nó là những thứ đã tồn tại
trong một thời gian dài, đi sâu vào trong nhận thức của từng người dân, do vậy
mọi hành vi của người dân đều chịu sự điều chỉnh bởi một khuôn khổ tập quán,
đạo đức của dân tộc. Văn hóa đã góp phần làm cải thiện các mối quan hệ trong
xã hội, đem lại chất lượng sống tốt hơn cho người dân về cả mặt vật chất và
tinh thần.
+ Văn hóa được chia thành văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, đem lại được
những giá trị lợi ích về tinh thần và vật chất cho con người từ đó tạo dựng lên
những nét đẹp truyền thống mang đậm dấu ấn của dân tộc Nga.

Thứ tư, có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
Có chung một vùng lãnh thổ ổn định tạo ra nơi sinh sống, sinh hoạt cho các dân tộc
đồng thời giúp các dân tộc cư trú trên đó có sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội giữa
các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, càng có thêm điều kiện đồn kết và
hịa hợp giữa các dân tộc. Ngồi ra, phần diện tích lãnh thổ ấy cịn là nguồn tài
ngun vơ giá để các dân tộc cư trú khai thác, sử dụng cho các mục đích kinh tế, xã
hội phát triển quốc gia.
Theo nghĩa hẹp:
Những nét riêng biệt của các dân tộc cư trú trong lãnh thổ Nga đã góp phần khơng
nhỏ đối với sinh phát triển và phồn thịnh của đất nước Nga.
Thứ nhất, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
Các tộc người sinh sống trên nước Nga không sống tách biệt với nhau thành từng khu
vực riêng mà thường có sự xen kẽ giữa các tộc người tạo điều kiện cho sự giao lưu
văn hóa giữa các tộc người trong đất nước. Từ đó, các dân tộc có thể rút ngắn sự
chênh lệch về trình độ dân trí, phát huy học hỏi những truyền thống, phong tục tập
quán, thói quen sinh hoạt tốt đẹp và vận dụng linh hoạt đối với từng dân tộc; cùng với
đó là dần xóa bỏ những tập tục lạc hậu, phản khoa học, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe,
lối sống con người.
Thứ hai, mỗi dân tộc có một nét văn hố bản sắc riêng góp phần làm phong phú
đa dạng văn hóa Nga.
Mỗi dân tộc trên nước Nga nói riêng và trên thế giới nói chung đều mang trong mình
những nét riêng biệt về nguồn gốc, lịch sử hình thành, phong tục tập quán, lối sống,
15


ngơn ngữ, trang phục, thói quen canh tác…Điều này tạo nên sự đa dạng về văn hóa
xã hội cho nước Nga, nhà nước cũng có thể tận dụng sự đa dạng đó để quảng bá du
lịch, dịch vụ, đưa văn hóa bản địa từng dân tộc đến với đa số người dân trong nước
và quốc tế. Đặc điểm này cùng với việc cư trú xen kẽ nhau giữa các tộc người như đã
nói ở trên sẽ tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn trong việc áp dụng linh hoạt những văn

hóa, phong tục tập quán sao cho phù hợp với từng dân tộc, từng vùng miền để vừa có
thể bảo tồn được những tinh hoa bản sắc từng dân tộc vừa tiếp thu những văn hóa tiến
bộ của dân tộc khác trên đất nước Nga. 
Thứ ba, những dân tộc thiểu số ở Nga phân bố ở những địa bàn có vị trí rất quan
trọng.
Việc cư trú tại những khu vực biên giới, khu vực gần địa phận tranh chấp… của
các dân tộc thiểu số ở Nga góp phần hỗ trợ nhà nước trong việc giữ gìn đảm bảo an
ninh quốc phòng, chủ quyền lãnh thổ, phát hiện sớm những âm mưu thủ đoạn của các
thế lực thù địch từ đó ra những chính sách linh hoạt, phù hợp đối với vấn đề chính trị,
an ninh xã hội tồn đất nước Nga. Chính vì đặc điểm quan trọng như vậy cùng với
những nguyên nhân xã hội khác làm gia tăng sự quan tâm, ưu tiên của chính phủ đến
những vùng có dân tộc thiểu số sinh sống; từ đó đảm bảo ổn định an sinh xã hội phát
triển kinh tế vùng sâu vùng xa, rút ngắn khoảng cách trình độ giữa các dân tộc với
nhau. Như vậy, đặc điểm về phân bố địa bàn các dân tộc thiểu số ở Nga cùng với các
đặc điểm trên đã góp phần mang lại sự phát triển, tăng trưởng về kinh tế, tiến bộ xã
hội… cho nước Nga.
3. Những hạn chế của các đặc trưng của dân tộc Nga đối với sự phát triển của
nước Nga.
Theo nghĩa rộng:
Thứ nhất, việc có chung một ngơn ngữ làm công cụ giao tiếp.
Ngôn ngữ của dân tộc có số lượng người nói đơng hơn sẽ ảnh hưởng tới ngơn ngữ có
số lượng người nói ít hơn. Ví dụ, trong một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, thì
ngơn ngữ của dân tộc đa số ln ảnh hưởng đến các ngơn ngữ cịn lại (có dân số ít
hơn). Sự ảnh hưởng nhiều khi trở nên nghiêm trọng, có thể gây ra sự thay thế ngơn
ngữ và dẫn đến cái chết của ngôn ngữ yếu. Các dân tộc thành viên dần qn đi ngơn
ngữ của mình dẫn đến làm suy giảm bản sắc dân tộc, sự đa dạng ngơn ngữ trong quốc
gia cũng dần biến mất. “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu
của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó nhằm làm cho nó phổ biến ngày
càng rộng khắp. Của mình có mà khơng dùng, lại đi mượn của nước ngồi, đó chẳng
phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?” (Chủ tịch Hồ Chí Minh). 

Thứ hai, có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
Việc cư trú đan xen giữa các dân tộc trên cùng một lãnh thổ tạo điều kiện để các dân
tộc giao lưu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nhưng cũng rất
dễ nảy sinh các vấn đề mất ngơn ngữ, văn hố, phân hố giàu nghèo, tranh chấp đất
đai, tài nguyên, gia tăng các tệ nạn xã hội, tiềm ẩn xung đột dân tộc. 
16


Thứ ba, có chung một nền văn hóa và tâm lý.
Văn hóa là tạo nên ứng xử cộng đồng, phản ứng cộng hưởng tập thể trước một hiện
tượng hoặc sự việc nào đó. Văn hóa chứa đựng cả những sở trường và sở đoản của
một cộng đồng nên khó có thể đạt được kỳ vọng (như thường được nghe) là phát huy
những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực… mà phải theo một triết lý phù hợp
với thực tiễn khai thác tất cả những gì mình có để phục vụ phát triển. Văn hóa của
một dân tộc khơng thể phát triển nếu khơng giao lưu với văn hóa của các dân tộc
khác. Tuy nhiên trong giao lưu văn hóa, các dân tộc có thể đánh mất đi bản sắc văn
hóa của mình. Những nét độc nhất trong văn hóa dân tộc bị lu mờ bởi một chuẩn mực
chung thống nhất của toàn thể các dân tộc, gây nên hiện tượng đồng hóa về mặt văn
hóa. Thậm chí, các dân tộc có thể bị tiếp xúc với những nét văn hóa tiêu cực khơng
phù hợp với phong cách sống của mình từ đó làm đơn giản hóa, hay phải nói bào
mịn nhân cách, tâm lý các thành viên trong dân tộc.
Thứ tư, có một nhà nước chung.
Các dân tộc thành lập nên một nhà nước chung nắm quyền điều hành, quản lý, giám
sát toàn bộ các hành động của dân do vậy khâu tuyển chọn người tài lên nắm quyền
cần phải được xem xét thực hiện cẩn thận. Các quyết định là từ nhà nước ban hành,
một nước đi sai có thể sẽ phải trả giá bằng sự phát triển của cả một cộng đồng dân
tộc. 
Ví dụ: Nạn tham nhũng các khoản hối lộ dưới mọi hình thức tại Nga chiếm
khoảng 300 tỷ USD/, tương đương hơn 15% GDP. Có một nghịch lý là trong khi số
liệu chính thức cho thấy tỷ lệ lạm phát tương đối thấp (7%), thì đại bộ phận dân

chúng Nga lại phàn nàn về vật giá leo thang. Giới phân tích cho rằng chính tham
nhũng đã buộc người dân phải chi những khoản tiền mà đáng lẽ ra khơng cần phải chi
và đây chính là kiểu lạm phát trá hình đang làm trì trệ q trình hiện đại hóa cơ sở hạ
tầng và gây cản trở cho phát triển kinh tế Nga.
Theo nghĩa hẹp:
Bên cạnh những giá trị tích cực, những đặc trưng của các dân tộc tại Nga cũng mang
lại cho chính phủ và người dân Nga những rào cản nhất định trong q trình phát
triển đất nước. Có thể kể đến như:
Thứ nhất, nga có sự chênh lệch về dân số giữa các tộc người.
Quy mơ dân số tại Nga có sự chênh lệch khá lớn dân số của các nhóm này khác nhau
rất lớn, từ hàng triệu (đến dưới 10.000. Điều này gây khó khăn cho các dân tộc thiểu
số trong việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hóa dân tộc, duy trì và phát
triển giống nịi do đó mà đặt thêm gánh nặng cho nhà nước về chính sách phát triển
dân số cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc thiểu số rất ít người. Điều này
gây cản trở khơng nhỏ trong quá trình phát triển đất nước Nga.
 Thứ hai, các dân tộc có trình độ phát triển khơng đồng đều.
Nga là một đất nước có rất nhiều tộc người, tuy nhiên lại có sự chênh lệch khá lớn về
trình độ dân trí, phát triển giữa các dân tộc. Điều này tạo ra sự khơng đồng nhất trong
các chính sách của chính phủ về phát triển trình độ dân trí cho từng dân tộc, từng
17


vùng miền, dẫn tới tiêu tốn nhiều nhân lực vật lực hơn để nghiên cứu về trình độ mỗi
dân tộc từ đó đưa ra những chính sách linh hoạt phù hợp. Sự phát triển khơng đều này
cịn gây nên sự bất cơng về các vấn đề việc làm, văn hóa, xã hội khác, phần nào gây
nên mâu thuẫn giữa các dân tộc gây cản trở quá trình phát triển kinh tế xã hội. Số
người di cư theo hướng này chủ yếu là người Nga, số người còn ở lại các vùng xa
xôi, hẻo lánh đa phần là các dân tộc thiểu số. Xu hướng chuyển dịch dân cư về thủ đô
và khu vực châu Âu càng làm cho dân cư ở các vùng xa, vùng Siberia, Viễn Đông đã
thưa thớt, lại càng thưa thớt hơn.

4. Nguyên nhân của những hạn chế và liên hệ với Việt Nam.

 Nguyên nhân:
Theo nghĩa rộng:
*Khách quan
- Cơ chế hội nhập thị trường bên cạnh những tác động tích cực to lớn cũng đã bộc lộ
mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức tư tưởng, đạo đức, đời sống của dân
Nga.
- Sự phát triển chưa tương xứng với vị thế và tiềm năng (khơng cịn duy trì được sức
phát triển cùng vị thế siêu cường thế giới như thời Liên Xô, nước Nga hiện đại dù
cho là một cường quốc cũng như siêu cường tiềm năng tuy nhiên vẫn là một nước
đang phát triển).
*Chủ quan
- Phải chịu các lệnh trừng phạt, cấm vận từ các nước.
- Chưa có những chính sách thực sự rõ ràng về vấn đề dân tộc.
- Tình trạng xã hội thiếu tổ chức:
+ Vấn đề di dân: Dòng di cư, vượt qua biên giới các quốc gia mới thành lập
càng làm phức tạp thêm cơ cấu dân tộc của nhiều vùng lãnh thổ của nước Nga. Hệ
quả của các quá trình này là xuất hiện tình trạng “sốc văn hóa” của khơng ít những
người nhập cư hay chủ nghĩa sô-vanh của các dân tộc tại chỗ. Những thay đổi nhanh
chóng của xã hội Nga trong lĩnh vực dân tộc, chính trị - xã hội liên quan đến sự phân
tầng xã hội, di dân hàng loạt, bất bình đẳng và chênh lệch phát triển giữa các vùng,
miền trong điều kiện kinh tế thị trường tạo nên sự bất bình, lo lắng, bất an của người
dân đối với tương lai. Việc Nga trở thành một nước tiếp nhận người nhập cư cũng tạo
ra khơng ít vấn đề trong việc hịa hợp người nhập cư, thích nghi họ, hướng họ vào
những giá trị chung toàn Nga để bảo đảm sự cố kết dân tộc.
+ Trong phân bố dân cư và khai thác lãnh thổ quốc gia: Ở Nga, các dân tộc
thiểu số kém phát triển hơn về kinh tế, xã hội; dân cư ít hơn nhưng lại cư trú ở những
vùng đất rộng lớn, xa xôi, hẻo lánh. Ở những địa bàn này, kết cấu hạ tầng cho sản
xuất và đời sống kém phát triển, làm phát sinh tình trạng “biệt lập” về văn hóa - xã

hội, kể cả phát sinh tâm lý lảng tránh, xa cách trung tâm trong suy nghĩ, lối sống của
người dân. Đây là mảnh đất màu mỡ phát sinh và nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc cực
18


đoan, một thách thức nghiêm trọng trong việc xây dựng một nền văn hóa, lối sống và
dân tộc Nga đồn kết, thống nhất nói chung.
+ Vấn đề an ninh con người, an ninh kinh tế: Nhà nước chưa bảo đảm được các
điều kiện cần thiết và ngăn chặn được các mối đe dọa. Trong quá trình phát triển của
nước Nga mới, có những giai đoạn, Nhà nước khơng ngăn chặn, kiểm sốt được tình
trạng tội phạm, để cho bạo lực tràn lan; ở một số nơi, chính quyền quản lý, điều hành
kém hiệu lực, hiệu quả, đạo đức xã hội xuống cấp; tình trạng tham nhũng của đội ngũ
quan chức; sự bành trướng quyền lợi, quyền lực của các nhóm tội phạm có tổ chức;
hệ thống các phương tiện thơng tin đại chúng áp đặt lên xã hội các tư tưởng của chủ
nghĩa cá nhân, những giá trị ngoại lai; tình trạng làm giàu bất chính của một nhóm
nhỏ xã hội trên lưng sự nghèo khổ, bần cùng hóa của số đơng, nhất là nhóm dân tộc
thiểu số và nhóm người nhập cư.
Theo nghĩa hẹp:
Những hạn chế đã nêu trên gây cản trở rất lớn tới quá trình phát triển đất nước,
nguyên nhân xuất phát từ những vấn đề tiêu biểu như:
Thứ nhất, nguyên nhân dẫn đến việc Nga có sự chênh lệch về dân số giữa các tộc
người có thể do lịch sử hình thành phát triển khác nhau ở mỗi tộc người liên quan
đến quá trình di cư và phân bố không đều của các tộc người trên thế giới kể cả xưa
và nay dẫn đến việc dân tộc này có thể là thiểu số ở Nga nhưng lại chiếm đa số ở
quốc gia khác.
Ngoài ra, sự chênh lệch cịn đến từ địa hình phân bố của các tộc người ở Nga. Những
dân tộc thiểu số sinh sống nơi trung du miền núi khí hậu địa hình khó khăn nên bị hạn
chế về việc tái sản xuất con người, tỉ lệ gia tăng tự nhiên thấp dẫn đến quy mô dân số
nhỏ. Hơn thế nữa, ở những vùng miền xa xôi nơi các dân tộc thiểu số sinh sống rất
khó có thể bắt được tiến độ phát triển của vùng đồng bằng, thủ đơ nên vẫn cịn những

hủ tục lạc hậu như tảo hôn (kết hôn khi chưa đủ tuổi), hôn nhân cận huyết… làm tăng
tỉ lệ đột biến ở trẻ em, gây nên các bệnh bẩm sinh,… đồng thời gây tổn hại cho người
mẹ. Dần đàn, điều này góp phần dẫn đến quy mơ dân số giảm sút ở các dân tộc thiểu
số và gây nên sự mất căn bằng về dân số giữa các tộc người ở Nga.
Thứ hai, nguyên nhân dẫn đến sự không đồng đều về trình độ phát triển các dân
tộc đầu tiên là do sự chênh lệch về quy mô dân số giữa các dân tộc.
Sự mất cân bằng về quy mô dân số gây nên mất cân đối về lực lượng lao động. Ngồi
ra địa hình là một phần gây cản trở các dân tộc thiểu số tiếp cận với các tư liệu sản
xuất, máy móc thiết bị hiện đại, điều này khiến cho q trình cơng nghiệp hóa chưa
được phát triển mạnh mẽ ở những vùng ấy. Trong khi các dân tộc thiểu số chưa kịp
phát triển tương xứng với các dân tộc chiếm đa số khác thì đổi mới, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa tác động làm mất đi một số ngành sản xuất truyền thống, xuất hiện
những ngành mới,… Những quá trình này làm cho một bộ phận người dân tộc thiểu
số bị tách rời khỏi ngành, nghề làm ăn lâu đời, cách sống truyền thống nhưng lại chưa
thể thích nghi được với những ngành, nghề, cách sống mới. Kiểu phân công lao động
như thế càng làm cho ranh giới, khoảng cách giữa các dân tộc thêm sâu sắc, tăng tính
biệt lập, khép kín cũng như hình thành nên các định kiến trên nền vấn đề dân tộc.
19


 So sánh và liên hệ đến Việt Nam:
Trước hết, người dân Liên bang Nga nhận thức về pháp luật, ý thức chấp hành và tự
giác chấp hành pháp luật rất cao từ những việc vệ sinh môi trường, bảo vệ môi
trường, chấp hành giờ giấc. Chế tài xử phạt của Liên Bang rất nghiêm khắc, ví dụ
như: uống rượu, bia và lái xe có thể tước bằng lái vĩnh viễn hoặc ngồi tù. Có thể nói
những điều luật của Liên Bang Nga có tính cưỡng chế và đồng bộ cao cịn Việt Nam
thì ở mức độ nhẹ hơn với những chế tài xử phạt hành chính và phụ thuộc chủ yếu vào
ý thức của người dân thực hiện. Ở Việt Nam, người dân nhận thức về pháp luật, ý
thức chấp hành và tự giác chấp hành pháp luật chưa cao, nhất là bảo vệ môi trường,
tham gia giao thông…

Đặc biệt Chính phủ Nga chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân như
chính sách việc làm và trợ cấp thất nghiệp cho người dân: Những người đăng ký tìm
việc làm qua hệ thống mạng xã hội ba lần mà khơng có việc làm được xem là thất
nghiệp và được trợ cấp bằng một lần mức lương tối thiểu/tháng, và sau 3 tháng, Nhà
nước sẽ tìm việc làm cho người dân đó. Đối với chính sách của Việt Nam hiện nay,
Đảng và Chính phủ vẫn chưa thể tìm ra giải pháp hiệu quả giải quyết triệt để vấn đề
này do thiếu hụt ngân sách nhà nước cũng như hệ thống hành chính vẫn cịn nhiều
hạn chế.
Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định công dân có quyền được tham gia và
quyền khơng tham gia hội, đồn: "Mỗi người đều có quyền liên kết, trong đó có
quyền lập hội đồn chun nghiệp để bảo vệ quyền lợi của mình. Tự do hoạt động
hiệp hội được bảo đảm. Không một ai bị ép buộc, hoạt động trong một hiệp hội nào".
Việc thành lập, hoạt động của hội đoàn được quy định cụ thể tại Bộ Luật Dân sự và
các luật của Liên bang, mang tính linh hoạt nhưng luôn tuân thủ nguyên tắc 3 tự và
đảm bảo dựa trên quy định của pháp luật. Nhà nước trả công qua các hoạt động của
các tổ chức minh bạch, khách quan, trung thực, hiệu quả cao. Các tổ chức xã hội tại
Nga đóng góp 17% kinh phí cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế đấu thầu
công khai các nhiệm vụ công, dịch vụ công để các tổ chức xã hội, hội đồn có thể
tham gia thực hiện bằng ngân sách nhà nước cung cấp trên cơ sở kết quả đấu thầu là
kinh nghiệm tốt cần sớm được nghiên cứu, vận dụng trong quá trình đổi mới cơ chế
hoạt động hội quần chúng ở Việt Nam. Đối với các tổ chức xã hội (hội đoàn quần
chúng) ở nước ta cơ bản Nhà nước vẫn bao cấp, chưa thực hiện được nguyên tắc 3 tự
theo quy định. Mặt khác, nước ta có các tổ chức chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của
Đảng và cịn có các hội có tính chất đặc thù.
Khơng chỉ vậy mà Nga rất coi trọng vấn đề dân tộc, luôn chú trọng kết hợp hài hịa
chính sách Liên bang và chính sách dân tộc. Nga thành lập cơ quan điều hành, giám
sát thực hiện những vấn đề liên quan đến dân tộc, các địa phương có bộ máy làm
cơng tác dân tộc và dưới quyền Tổng thống Liên bang Nga có Hội đồng phụ trách
dân tộc, có nhiệm vụ tham vấn các vấn đề về dân tộc và chính sách dân tộc, triển khai
thực hiện công tác dân tộc theo mục tiêu chung và hài hịa lợi ích các dân tộc. Qua


20



×