Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tư tưởng tìm hiểu về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.74 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA

BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Tìm hiểu về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh

Họ và tên
: Trần Thảo Huyền
Mã sinh viên : 11152186
Lớp
: Tư tưởng HCM_28

Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2016


MỤC LỤC
Mục lục................................................................................................................. 1
Mở đầu.................................................................................................................. 2
Phần nội dung
I. Các quan niệm về dân tộc và giai cấp.............................................................. 3
1. Quan niệm về giai cấp...................................................................................... 3
2. Quan niệm về dân tộc ...................................................................................... 3
II.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ....................................................... 4
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa ................................................................................. 4
1.1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa ....................................................... 4
1.2. Độc lập dân tộc- nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa .................. 5
1.3. Chủ nghĩa dân tộc - một động lực lớn của đất nước .................................... 7
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và
vấn đề dân tộc .................................................................................................... 8


2.1. Khái quát về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ..................................... 8
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp
và dân tộc ............................................................................................................ 8
III. Vấn đề giai cấp- dân tộc trong thực tiễn Việt Nam hiện nay....................... 11
Kết luận và trích dẫn ......................................................................................... 12

1


MỞ ĐẦU
Xã hội lồi người ln ln tồn tại rất nhiều dạng quan hệ người với người,
quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quan hệ giữa giai cấp và dân
tộc,...
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là mối quan hệ cơ bản và có tác động mạnh mẽ đối với cơng cuộc giải phóng
dân tộc cũng như sự phát triển của toàn xã hội. Vì vậy, trong q trình nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu vấn đề giai cấp, dân tộc và mối quan hệ giữa
chúng là điều hết sức cần thiết. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế
kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng
thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai
cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn
trong những khó khăn của hồ bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng khi nào và ở đâu, vấn đề giai cấp và dân tộc không
được kết hợp một cách đúng đắn; quan điểm giai cấp và dân tộc được vận dụng
một cách cứng nhắc, giáo điều hoặc bị coi nhẹ thì ở đó cách mạng sẽ khơng chỉ
gặp khó khăn mà thậm chí cịn bị tổn thất nặng nề. Qua đó, chúng ta có thể rút ra
được bài học trong việc vận dụng xem xét vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp và
mối quan hệ của chúng với vấn đề dân tộc trong tình hình hiện nay và trong giai
đoạn sắp tới của thời kì quá độ khi mà nền kinh tế nước nhà phát triển mạnh mẽ
theo hướng thị trường và hội nhập quốc tế, sự phát triển chắc chắn sẽ đem lại cho

chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng kéo theo khơng ít những nguy cơ, thách thức
cũng như mn vàn khó khăn.

2


NỘI DUNG
I. Các quan niệm về dân tộc và giai cấp
1. Quan niệm về giai cấp
- Quan niệm trước Marx cho rằng giai cấp là một tập hợp những người có
cùng một chức năng xã hội,cùng một lối sống hoặc mức sống,cùng một địa vị và
uy tín xã hội.Quan niệm đó chỉ là mơ hồ, khơng đi vào đặc trưng cơ bản của xã
hội.Các lý thuyết đó tránh động đến vấn đề cơ bản đặc biệt là các vấn đề quan hệ
sản xuất và tư liệu sản xuất.
Quan niệm của chủ nghĩa Marx-Lenin: Trong tác phẩm “ Sáng kiến vĩ
đại”, Lenin định nghĩa: “ Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm
những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản
xuất,về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về
cách hưởng thụ về phần của cải xã hội ít nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là
những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đồn
khác, do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội
nhất định”. Mỗi giai cấp có những đặc trưng riêng, giai cấp khơng phải là của
sản xuất nói chung mà là sản phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong
lịch sử. Mỗi giai cấp về bản chất là thể thống nhất của các mặt đối lập vì vậy
muốn hiểu được đặc trưnng của giai cấp phải đặt trong hệ thống các giai cấp đối
lập với nó. Mỗi giai cấp khác nhau về nắm giữ tư liệu sản xuất trong cung xã
hội, khác nhau về vai trị quản lý, phân cơng lao động xã hội, khác nhau về phân
phối sản phẩm, khác nhau về địa vị trong nền sản xuất.
Như vậy giai cấp không phải là phạm trù xã hội thông thường mà là

phạm trù kinh tế, xã hội có tính chất lịch sử. Giai cấp được hình thành dựa trên
hai con đường: Một là nhữmg kẻ có chức có quyền trong thị tộc, bộ lạc dùng
quyền uy của mình để chiếm đoạt tư liệu sản xuất làm của riêng từ đó hình thành
giai cấp thống trị. Hai là tù binh bắt được trong những cuộc chiến tranh bị biến
thành nô lệ,còn bao gồm cả những người nghèo khổ trong thị tộc, bộ lạc bị mất
hết tư liệu sản xuất.
2. Quan niệm về dân tộc
- Khái niệm: Để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân
của một nước có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có ý
thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi những quyền lợi về: chính
trị,kinh tế, truyền thống, văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá
trình dựng nước và bảo vệ nước.
Dân tộc ra đời cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Dân tộc có tính
thống nhất cao va ổn định bền vững đảm bảo bởi nguyên tắc pháp lý cao,tôn
trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc. Trong qua trình phát triện của mình mỗi
dân tộc đều có sự thức tỉnh về ý thức dân tộc,thức tỉnh về quyền sống của
mình.Các dân tộc muốn liên hiệp với nhau dựa trên ngun tắc bình đẳng nhằm
có sự giao lưu kinh tế và văn hoá trong xã hội tư bản xuất hiện nhu cầu xoá bỏ
hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc. Điều này tạo ra sự tự chủ do những tinh
hoa, những giai trị của những dân tộc, bổ sung cho nhau.Những giá trị chung
3


hịa quyện đó khơng xóa nhịa những đặc thù dân tộc mà ngược lại, nó đảm bảo
lưu, giữ gìn, phát huy những tinh hoa, bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa Marx-Lenin
cho rằng, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước
dân tộc là các hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới sự ra đời và phát triển của các nhà
nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, các đế quốc thực hiện chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc,

nơ dịch các nước nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt và từ đó xuất hiện
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Sau cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh,
dẫn tới sự tan rã của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc và xuất hiện
nhiều quốc gia dân tộc độc lập trẻ tuổi.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh vấn đề dân tộc được thể hiện tập trung
chủ yếu ở các nội dung về dân tộc trong hoàn cảnh các nước thuộc địa, quyền
thiêng liêng dân tộc, quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa quốc tế cộng sản.
II.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
1.1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng đề cập đến các vấn đề dân tộc nói chung
mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là:
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc:
Xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam, đặc biệt của thời
đại, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn
đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách
thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngồi, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân
tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
Người đã viết nhiều tác phẩm như: Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm
thuộc địa, Cơng cuộc khai hóa giết người..., tố cáo chủ nghĩa thực dân vạch trần
cái gọi là “ khai hóa văn minh” của chúng. Người viết: “Để che đậy sự xấu xa
của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn trang điểm
cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngơn lý tưởng : Bác ái,
Bình đẳng, v.v”[1]. “Nếu lỗi hành hình theo kiểu Linso của những bọn người Mỹ
hèn hạ đối với những người da đen là một hành động vơ nhân đọa thì tơi khơng
cịn biết gọi việc những người Âu nhân dnah đi khai hóa mà giết hàng loạt
những người dân châu Phi là cái gì nữa.”[2]. Trong những bài có tiêu đề Đơng

Dương và nhiều bài khác, Hồ Chí Minh lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc,
sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đơng Dương trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức
với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu
thuẫn khơng thể điều hịa được.

4


Sự áp bức, thống trị dân tộc càng nặng nề thì phản ứng dân tộc sẽ càng
quyết liệt về tính chất, đa dạng về nội dung và phong phú về hình thức. Trong
tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Người lên án mạnh mẽ tội ác của chủ
nghĩa thực dân đã tước bỏ tất cả quyền con người và quyền dân tộc ở các thuộc
địa.
Nếu như C.Marx bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản,
V.I.Lenin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thì Hồ Chí
Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Marx và
V.I.Lenin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa thì Hồ
Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc:
Để giải phóng dân tộc, cần xác định phương hướng phát triển của dân tộc,
đề  ra quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành
độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn liền với một hệ tư tưởng và một giai
cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ơng cha và lịch sử nhân loại. Hồ
Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời
đại mới là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết
sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản

Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”[3]. Con đường đó kết hợp cả nội dung dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội; xét về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
“Đi tới xã hội công sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trị
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc
cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến cho triệt để.
Con đường đó phù hợp với hồn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó
cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã phát
triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
I.2 Độc lập dân tộc- nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
-  Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề độc lập dân tộc từ quyền con người.
Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và
tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776:
“Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ những quyền
khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi và phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

5


Từ quyền con người ấy, Người đã khái quát nên chân lý về quyền cơ bản
của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[4].
- Nội dung của độc lập dân tộc
Là người dân mất nước, nhiều lần được chứng kiến tội ác dã man của chủ
nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế
giới, Hồ Chí Minh thấy rõ một dân tộc khơng có quyền bình đẳng chủ yếu là do

dân tộc đó mất độc lập. Vì vậy, theo Người, các dân tộc thuộc địa muốn có
quyền bình đẳng thực sự phải tự đứng lên đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại
độc lập thật sự, độc lập hồn tồn cho dân tộc mình.
Nền độc lập hồn toàn, độc lập thật sự của một dân tộc theo tư tưởng Hồ
Chí Minh phải được thể hiện đầy đủ ở những nội dung cơ bản sau đây:
+ Độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả
xâm phạm của dân tộc. Độc lập của Tổ Quốc, tự do của nhân dân là thiêng liêng
nhất. Người đã từng khẳng định: Cái mà tôi cần nhất trên đời này là: đồng bào
tôi được tự do, Tổ Quốc tôi được độc lập.
Trong “Bản Yêu sách tám điểm” gửi Hội nghị Vec-xay năm 1919, Nguyễn
Ái Quốc đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Nội dung cốt lõi trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 là: độc lập,
tự do cho dân tộc.
Trực tiếp chủ trì Hội nghị TW 8 (5/1941), Người viết thư Kính cáo đồng
bào và chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng là cao hơn hết
thảy”[5]. Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, trong đó mục
tiêu là: “Cờ treo độc lâp, nền xây bình quyền”.
Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định
quyết tâm: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”[6].
Trong  “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”,
Người long trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”[7]. v.v.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước
vào thời gian sau CMTT, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành
thật mong muốn hồ bình. Nhưng nhân dân chúng tơi cũng kiên quyết chiến đấu

đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ
cho Tổ Quốc và độc lập cho đất nước”[8].
Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập và
chủ quyền được thể hiện rõ: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [9]. Và khi đế quốc Mỹ leo

6


thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một chân lý bất
hủ: “Khơng có gì quý hơn độc lập tự do”[10].
Chính bằng tinh thần, nghị lực này cả dân tộc ta đứng dậy đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc. Và chính phủ
Mỹ phải cam kết: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm
1954 về Việt Nam đã công nhận”.
+ Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.
Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Người khẳng
định: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định,
nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngồi.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc
thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây
Bản yêu sách của nhân dân An-Nam địi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
 Một là, địi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng
chế độ đạo luật.
 Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngơn luận, tự
do báo chí, hội họp, tự do cư trú... Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn
Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập
dân tộc - làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào

chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.
+ Trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu
không độc lập chẳng có nghĩa gì. Nghĩa là độc lập dân tộc phải gắn liền với
hạnh phúc, cơm no, áo ấm của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước
ta được hoàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”
Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá
trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. => Tư tưởng này thể hiện tính nhân
văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh.
Tóm lại, “Khơng có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là lý tưởng mà
còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu,
là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự
do của cả dân tộc Việt Nam, đồng thời là nguồn động viên đối với các dân tộc bị
áp bức trên thế giới.
1.3. Chủ nghĩa dân tộc - một động lực lớn của đất nước
- Cùng với sự kết án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa
vùng dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở
phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước” [11]. Vì thế,
“người ta sẽ khơng làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các
động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ” [12]. Người kiến nghị về
cương lĩnh hành động của QTCS là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
7


danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định
chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[13].
Sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân
tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại
xâm nào.

Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền
thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
dân tộc chân chính. Muốn cách mạng thành cơng thì người cộng sản phải biết
nắm lấy và phát huy.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và
vấn đề dân tộc
2.1. Khái quát về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, song đó là phạm trù
chỉ các quan hệ xã hội khác nhau. Do đó giai cấp và dân tộc không thể thay thế
được cho nhau. Trong dân tộc thì có giai cấp và quan hệ giai cấp có vai trị quyết
định tới sự hình thành xu hướng phát triển, bản chất xã hội của dân tộc, tính
chất quan hệ giữa các dân tộc với nhau. Phương thức sản xuất sinh ra giai cấp
nên phương thức sản xuất gián tiếp quy định bản chất của dân tộc. Giai cấp nào
lãnh đạo dân tộc thì dân tộc đó mang bản chất của giai cấp đó. Trong xã hội ln
có hiện tượng dân tộc này áp bức dân tộc khác. Việc các nước đế quốc đi xâm
chiếm thuộc địa thực chất do giai cấp tư sản các nước này đến đàn áp, bóc lột
các dân tộc, các nước thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động
của nhân dân bản địa. Nhân tố giai cấp ảnh hưởng một cách cơ bản đến dân tộc
song nhân tố dân tộc cũng tác động sâu sắc tới nhân tố giai cấp. Đấu tranh dân
tộc do đó cũng tác động tới đấu tranh giai cấp.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân
tộc
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu
tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm khơng đúng về vấn đề dân tộc và thuộc
địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt
động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn
cách giữa giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động “chính quốc” với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa so-vanh nước lớn
của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị

thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái
Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc
địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo
đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc
địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái
Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Marx - Lenin, phê bình một cách kiên quyết và chân
8


thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng
Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8
quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách
thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động
rất ít, do khơng nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong
“Chính cương vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: “Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ
Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng
XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự
nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ thực dân và giải phóng giai
cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của
giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai
cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng
Việt Nam khơng phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với
mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách
mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho
bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước
kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc

cách mạng này khơng có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết
sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hồn thành cách mạng giải phóng
dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ
vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Marx - Lenin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vơ sản. Bởi
vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ang-Ghen đã nói: Những tư
tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân
chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn
cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức
giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là
động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Marx - Lenin và tiếp
thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học
và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng
sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn
bó hữu cơ giữa hai q trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách
mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Marx
- Lenin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản.
Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát
đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí
Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử,
góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin; đó
9


cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập
kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành

công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vơ sản. Cuộc cách mạng đó phải dựa vào lực lượng của nhân dân,
nịng cốt là liên minh cơng nơng, do chính Đảng của giai cấp cơng nhân lãnh
đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp
cơng nhân, thậm chí cả giai cấp nơng dân là hồn tồn khơng đủ, mà theo
Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành
lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc
(mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc
xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân
tộc lên trên hết. “Nếu khơng giải quyết được vấn đề dân tộc, khơng địi được độc
lập tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể dân tộc cịn chịu mãi
kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi
lại được”. “Chính lập trường và lợi ích giai cấp cơng nhân địi hỏi trước hết phải
giải phóng dân tộc”. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái
dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy
sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản ở chính quốc như
''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vơ sản ở chính
quốc với vơ sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều
vào cách mạng vơ sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành
thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ
cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và
sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh
khơng được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng
không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ
thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước

quá độ ấy phải tự mình tìm tịi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình
hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khn những hình thức, bước
đi, biện pháp của nước khác.

10


III. Vấn đề giai cấp- dân tộc trong thực tiễn Việt Nam hiện nay
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện
nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ
biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai
các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ
quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc
trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi
ích các giai cấp, tầng lớp khơng được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hồ, sức mạnh
dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng
ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận
thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà
thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Marx - Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong
công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta. Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX
đã xác định rõ: “Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp
tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp
xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng
nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Điều này đã thể hiện rõ quan điểm biện chứng về
sự thống nhất giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc , giữa lợi ích giai cấp và lợi

ích dân tộc. Mục tiêu này vừa thể hiện vừa đáp ứng nguyện vọng của toàn thể dân
tộc, của các giai cấp và của mỗi người dân yêu nước.
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế không chỉ là hiện thực hóa nội dung của
con đường xã hội chủ nghĩa mang tính giai cấp cơng nhân sâu sắc mà cịn là hiện
thực hóa nội dung mang tính dân tộc,là nhiệm vụ cơ bản của toàn dân tộc, mọi
thành phần kinh tế. Lúc này đây, cả giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc Việt
Nam khơng có nhiệm vụ nào quan trọng hơn là từng bước thực hiện công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa giống như trước đây cả dân tộc đã tập trung thực
hiện nhiệm vụ giải phóng đất nước. Chính vì lẽ đó mà trong nhiệm vụ phát triển
đất nước, tính dân tộc và tính giai cấp hịa quyện với nhau.

11


KẾT LUẬN
Nghiên cứu về vấn đề giai cấp và dân tộc giúp tơi hiểu rõ về nguồn gốc,
q trình tồn tại và phát triển của các dân tộc trên thế giới, đồng thời tìm hiểu
bản chất căn nguyên của sự biến đổi và phát triển thơng qua việc tìm hiểu quan
hệ giai cấp nội tại trong mỗi quốc gia. Qua đó nhận thức được mối quan hệ biện
chứng giữa giai cấp và dân tộc.
Qua bao nhiêu năm lịch sử của dân tộc trong suốt thế kỉ XX đã cho thấy
sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp và dân tộc.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, trong cả chiến tranh ác liệt và
thời kì xây dựng hịa bình, bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay tư tưởng Hồ Chí Minh
đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng
trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào
tiềm lực quân sự hiện đại đe dọa đến chủ quyền dân tộc.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở
vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức kế hoạch mới theo đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn,
vững bước trong quá trình xậy dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối với cá nhân là một sinh viên, tôi cũng nhận thấy tầm quan trọng của
việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như ý thức được sứ mệnh
của tôi, của các bạn, của thanh niên Việt Nam hiện nay – tương lai của dân tộc,
cần phải giữ gìn, phát triển và bảo vệ đất nước mà một trong các việc cần làm,
nên làm chính là học tập, nghiên cứu và hiểu rõ tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng
là vì một đất nước của hơm nay phát triển, của lịch sử gian khổ mà hào hùng và
của tương lai tươi sáng mai sau.
[1], [2] Hồ Chí Minh Tồn tập, t.1, tr.75, 321.
[3] Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 3, trang 1.
[4] Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 3, trang 555.
[5] Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 3, trang 198.
[6] Võ Nguyên Giáp – Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994,
trang 196
[7] Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 4, trang 4.
[8] Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 3, trang 496.
[9] Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 4, trang 480.
[10] Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 12, trang 108.
[11] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 1, tr.466
[12] Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 1, tr.466
[13] Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 1, tr.466.

12



×