Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc thái ở tây bắc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.78 KB, 105 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Phạm Thị Thảo
Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Thái
ở Tây Bắc hiện nay
(QUA THỰC TẾ Ở TỈNH SƠN LA)
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80
luận văn thạc sĩ triết học
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS NGUYỄN HÙNG HẬU
HÀ NỘI - 2006
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xã
hội. Con người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới
tương lai cũng từ văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc
của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó
biểu hiện và định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con người. Những
giá trị văn hóa là thước đo trình độ phát triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc
“Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân tộc thật sự hình thành, một nền
văn hóa không có bản sắc dân tộc thì nền văn hóa ấy không có sức sống thật sự
của nó” [9, tr.16].
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa
tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các
vùng, miền của Tổ quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và
nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác
nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt và mang tính
đặc thù. Trong các vùng văn hóa ấy, vùng Tây Bắc nước ta gồm 6 tỉnh: Hòa
Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Là một vùng rộng lớn, có
địa chính trị, kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí rất quan trọng đối với sự phát
triển của đất nước cả về an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm


rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều
sớm hình thành những nét văn hóa riêng có, độc đáo của mình.
Dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông thứ hai trong 53 dân tộc thiểu số ở
nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Thái ở Tây Bắc đã sớm hình thành
một nền văn hóa mang mầu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Nền văn hóa ấy ảnh
hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng đồng người Thái, góp phần làm
phong phú thêm những giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Bắc Việt
Nam.
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu
hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt
Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này.
Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không
2
nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc. Bên cạnh những giá
trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống của người Thái, còn có những yếu tố
không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trước sự tác động của cơ chế
thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá
trị văn hóa truyền thống của người Thái nói chung, và người Thái ở Tây Bắc nói
riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc. Vấn đề
khác quan trọng hơn cả, đó là chúng ta đang phấn đấu để có được sự bình đẳng
về mọi mặt giữa các dân tộc, các vùng miền trên cả nước. Để đạt được điều này
phải kết hợp nhiều yếu tố, trong đó văn hóa chiếm vai trò, vị trí hết sức quan
trọng, không thể có bình đẳng dân tộc nếu như không giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta, bởi lẽ: "Vấn đề dân tộc là vấn đề văn
hóa, đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác" [19, tr.10].
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc, tạo điều kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc,
đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH. Trước tình hình đó thì việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong
giai đoạn hiện nay.
Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, để đóng góp phần
công sức nhỏ bé vào mục tiêu của cả nước nói chung, và tỉnh Sơn La nói riêng,
tôi chọn vấn đề “Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây
Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La)" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ
khác nhau.
Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa có những tác phẩm tiêu biểu
như:
3
"Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc gia,
1994. "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. "Bản sắc văn hóa Việt Nam", Phan Ngọc, Nxb
Văn học, 2002. "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc", Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên). "Bản sắc văn hóa dân tộc",
Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa Thông tin, 2003.
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có:
"Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số" của Lò Giàng Páo, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, 1997. "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Ngô Văn
Lệ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998. Đề tài: "Văn hóa truyền thống của các dân tộc
Jrai và Bahnar ở tỉnh Gia Lai hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn
thạc sĩ Triết học của Lê Thị Mỹ Vân, 1999, Đại học KHXH & NV - ĐHQG Hà
Nội."Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong cuộc sống hôm nay",
Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7/2000. Đề tài: "Vấn đề giữ
gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa
Nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái có các công trình:
“Nghệ thuật trang phục Thái”, Lê Ngọc Thắng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội, 1990. "Văn hóa Thái Việt Nam", Cầm Trọng, Phan Hữu Dật, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội, 1995. "Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam", Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội, 1996."Bản Mường - một cấu trúc xã hội truyền thống
Thái, Báo cáo khoa học trình bày tại hội nghị quốc tế Thái học lần thứ 4, Chiềng
Mai - Thái Lan, (10-1996), Cầm Trọng. Đề tài khoa học KX.03.97: "Nghiên cứu
văn hóa Bản dân tộc Thái Đen, trên cơ sở đó đề xuất nội dung, giải pháp xây
dựng mô hình Bản văn hóa", 1999, UBND tỉnh Sơn La. "Vài nét về người Thái
ở Sơn La", Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002. "Hoa Văn
Thái" của Hoàng Lương, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003. "Bảo tồn và phát triển
văn hóa truyền thống ở vùng núi Bắc Trung Bộ hiện nay", Cao Văn Thanh (chủ
4
biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Và nhiều bài viết trên các tạp chí:
Dân tộc học, nghiên cứu lịch sử
Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc
điểm chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân
tộc Thái ở nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc
tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Thái (nói chung),
người Thái ở Tây Bắc (nói riêng) nhằm giới thiệu về người Thái; những nét đặc
sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Thái. Một số đề tài, công trình cũng đề
cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái nhưng
mới chỉ đề cập một cách chung chung hoặc đi sâu tìm hiểu một số nét văn hóa
cụ thể; đã đề cập đến thực trạng và một số giải pháp cho sự phát triển văn hóa
các dân tộc Tây Bắc nhưng cũng chỉ là những giải pháp mang tính định hướng
chung cho các dân tộc thiểu số; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Thái ở
góc độ văn hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ
triết học, chưa bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thái ở Tây Bắc một cách khái quát.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thái ở Tây Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La), luận văn đưa ra một số giải
pháp cơ bản nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây
Bắc nói chung, và dân tộc Thái ở Sơn La nói riêng.
* Nhiệm vụ:
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Thái và tính tất yếu khách
quan của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái.
Hai là, đánh giá thực trạng vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay (minh họa bằng các số liệu, thực tế khảo sát ở
tỉnh Sơn La).
5
Ba là, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và đề ra một số giải pháp cơ bản,
nhằm kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác
định đối tượng nghiên cứu là văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc (nội dung chủ yếu
là văn hóa dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La) trên góc độ triết học.
* Phạm vi nghiên cứu:
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và
phong phú Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của
dân tộc Thái ở Tây Bắc mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh
triết học những giá trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Thái ở Tây
Bắc và ở Sơn La nhằm kế thừa và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lýý luận là chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về văn hóa và chính sách phát triển văn hóa, nhất là quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; đồng thời có tham khảo một số công
trình nghiên cứu, đề tài khoa học, sách, báo tài liệu có liên quan đến nội dung
được đề cập trong luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và
diễn dịch, điều tra, so sánh nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của tộc Thái ở Tây
Bắc; phân tích và hệ thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Thái dưới góc độ
triết học. Qua đó đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và
6
phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc và Sơn La trong giai đoạn
hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý
luận về văn hóa, bản sắc văn hóa và vấn đề kế thừa nó; đồng thời góp phần
khẳng định vai trò, ý nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Thái ở Tây
Bắc theo hướng: Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy các bộ môn: Triết học, Văn hóa, Dân tộc học ở các nhà trường, làm
tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở Tây
Bắc và tỉnh Sơn La.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
7

Chương 1. BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI. TÍNH TẤT YẾU
KHÁCH QUAN CỦA VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NÓ
1.1. BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI
1.1.1. Một vài nét về lịch sử dân tộc Thái
1.1.1.1. Lịch sử tộc người Thái
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có một cộng đồng tộc người tự
nhận mình bằng tên riêng Tăy hay Thăy và được gọi chính thức là Thái.
Dân tộc Thái có dân số khá đông đảo, theo con số thống kê năm 1973 là
trên 36 vạn người. Đến năm 1999, dân số của người Thái có 1.328.725 người
sống trải khắp vùng quê miền Tây và Tây Bắc Việt Nam. Bắt đầu từ phía Đông
với miền đất người Thái gọi là mường Lò quê tổ ở Tây Bắc tỉnh Yên Bái (nay
chia thành ba huyện thuộc tỉnh Yên Bái: Văn Chấn, Mù Căng Chải, Trạm Tấu
và thị xã Nghĩa Lộ). Sang phía Tây gồm toàn bộ địa phận ba tỉnh Lai Châu,
Điện Biên và Sơn La. Phía Nam người Thái sinh sống ở miền Tây Bắc Hòa Bình
(nay là huyện Đà Bắc và Mai Châu) và miền Tây hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An.
Cuối cùng còn thấy những nhóm sống rải rác trong các tỉnh thuộc vùng núi Tây
Nguyên, trong đó huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng là nơi họ ở đông hơn cả.
Trải qua hàng ngàn năm sinh sống trên các địa bàn trên lãnh thổ Việt
Nam, dân tộc Thái đã cùng các dân tộc anh em khác, tham gia dựng nước và giữ
nước. Đây cũng chính là quá trình hình thành tộc người để phát triển đến ngày
nay. Hiện nay, chưa có cách nào khác để tìm ra cội nguồn của văn hoá lịch sử
tộc người Thái, ngoài việc rút ra và đúc kết những hiểu biết mới về đời sống tâm
linh của họ. Từ đó, đưa ra những kết luận về nguồn gốc hình thành của dân tộc
này.
Người Thái ở Việt Nam không theo một tôn giáo chính thống nào trên thế
giới mà theo một trong những tục có nghi thức thờ Nước (nặm) và Đất gọi là
Cạn (bốc). Nước có biểu tượng Thần chủ là con Rồng (Tô Luông) mang tên chủ
nước (chảu nặm), và đất có biểu tượng thần chủ là loài Chim ở núi mang tên chủ
8
đất (chảu đin). Hai biểu tượng thần chủ Rồng, Chim cũng là Mẹ, Cha của

Mường và tục thờ này nằm trong toàn bộ nghi lễ cúng mường (xên mương).
Theo truyền thống, Thái Đen và Thái Trắng có tục thờ Mẹ- Cha gắn với
biểu tượng thần linh Rồng- nước và Chim- cạn trong cúng Mường chéo ngược
như sau:
Mường Thái Đen thờ: Mẹ - Rồng - nước > < Cha - Chim - Cạn
Mường Thái Trắng thờ: Mẹ - Chim - Cạn > < Cha - Rồng - Nước
Điều này cho thấy mối liên hệ giữa văn hóa biểu tượng cội nguồn giữa
người Thái với truyền thuyết thủy tổ người Việt (Kinh): “Mẹ thủy tổ người Kinh
là bà Âu Cơ thuộc giống Tiên (Chim lạc) ở đất, và Cha thủy tổ là ông Lạc Long
Quân thuộc loài Rồng- nước (Thủy tộc (biển). Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm
trứng, nở ra trăm con trai, khi khôn lớn thì năm mươi con trai theo cha xuống
biển và năm mươi con trai theo mẹ về núi” [41, tr. 23]. Từ đây, ta có thể hình
dung được bức tranh có thể có về sự hình thành, và phát triển văn hóa cội nguồn
của hai ngành Người thuộc nhóm nói tiếng Thái có liên hệ với Người Việt
(Kinh) trong lịch sử hàng ngàn năm hình thành và phát triển:
Trong khi Mẹ thủy tổ hay thần Mẹ của ngành người Thái Trắng ở cùng
nhóm nữ với bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn thì
Mẹ thủy tổ, hay thần Mẹ của ngành người Thái Đen sẽ ở nhóm Nữ của tập đoàn
người có đại diện nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng Rồng -
nước. Ngược lại, Cha thủy tổ hay thần Cha của ngành người Thái Trắng cùng
nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng Rồng Nước thì Cha của
ngành Thái Đen sẽ ở nhóm Nam có đại diện nhóm Nữ là Bà Âu Cơ trong tập
đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn [69].
Theo các nhà nghiên cứu, thì tổ tiên của người Thái đã sinh cơ lập nghiệp
tại một vùng nào đó chính trong phạm vi họ đang cư trú hiện nay, có thể từ
trước công nguyên đã có một phần người Thái cư trú chủ yếu là ở vùng Mường
Thanh bây giờ. Sang những thế kỷ đầu công nguyên, một bộ phận Thái Trắng ở
đầu sông Đà, sông Nậm Na đã di cư xuống phía Nam cư trú ở các huyện phía
9
Bắc như mường Tè, mường Xo (Phong Thổ), mường Lay, Quỳnh Nhai (Sơn

La). Đến thế kỷ thứ XI theo “Quăm Tô Mương” cho rằng: khởi thủy từ thời đại
của anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần đưa ngành Thái Đen xuôi theo dòng sông
Hồng xuất phát từ mường Ôm, mường Ai (Vân Nam, Trung Quốc) đến mường
Lò (Nghĩa Lộ). Sau đó hậu duệ Tạo Xuông, Tạo Ngần đã khai “Mường” lập
“Tạo” tạo ra cả một vùng rộng lớn gồm rất nhiều huyện. Vùng giữa ngày nay:
Thuận Châu (Mường Muổi) thuộc tỉnh Sơn La là thủ phủ của ngành Thái Đen.
Cho đến cuối thế kỷ XIII, người Thái ở Việt Nam đã ổn định về cư trú chủ yếu ở
Tây Bắc Việt Nam.
Dân tộc Thái chia thành nhiều ngành, mỗi ngành lại chia thành nhiều
nhóm khác nhau:
Thái Đen (Táy Đăm): Cư trú chủ yếu ở các tỉnh Sơn La (hầu như toàn
tỉnh). Nghĩa Lộ (mường Lò) thuộc tỉnh Yên Bái; ở tỉnh Điện Biên; Tuần Giáo
tỉnh Lai Châu và một số ở phía Tây Nam tỉnh Lào Cai.
Thái Trắng: (Táy Đón hay Táy Khao) tập trung ở Mường Lay, mường So
(Phong Thổ, Lai Châu); mường Chiến (Quỳnh Nhai); một số khác tự xưng là
Thái Trắng nhưng có nhiều nét giống Thái Đen sống tập trung ở Mường Tấc
(Phù Yên), Bắc Yên; mường Sang, Mộc Châu (Sơn La).
Nhóm Thái Hòa Bình (Mai Châu, Đà Bắc) có nét giống với các nhóm
Thái ở Thanh Hóa. Nhóm Thái ở Thanh Hóa cư trú ở mường Một- mường Đeng
tự nhận mình thuộc ngành Đeng (Tay Thanh), ngành Trắng (Tay Mường- Hàng
Tổng, Tay Dọ). Nhóm Thái Nghệ An với việc chia ngành Đen, Trắng đã mờ
nhạt, họ chỉ quan tâm đến thời gian và quê hương xuất xứ của mình khi đến nơi
này.
Lịch sử phát triển của người Thái theo con đường dích dắc qua hàng ngàn
năm, nhưng với người trong nhóm nói tiếng Thái vẫn giữ mạch tư duy văn hóa
lưỡng phân, lưỡng hợp để tưởng nhớ quê cha đất tổ xa xưa nhất.
1.1.1.2. Người Thái ở Tây Bắc
Là dân tộc cú số dõn khá đông ở miền Tây Bắc, năm 1955 người Thái ở
miền Tây Bắc nước ta mới có 22 vạn người, thì đến năm 1989 riêng người Thái
10

ở tỉnh Sơn La đã có khoảng 40 vạn người, năm 2005 có khoảng 52 vạn người.
Có thể thấy rõ điều này khi khảo sát sự phân bố dân cư của tỉnh Sơn La (phụ
lục).
Người Thái ở Tây Bắc là bộ phận tiêu biểu của người Thái. Mặc dù có
những đặc trưng cơ bản, nhưng người Thái ở Tây Bắc vẫn chia hai ngành: Thái
Trắng và Thái Đen.
Thái Trắng có thể chia thành hai nhóm địa phương: Nhóm thứ nhất cư trú
ở phía Bắc ở các huyện Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ, một phần ở Tuần
Giáo (Lai Châu), Quỳnh Nhai, Sình Hồ, Tủa Chùa và xã Ngọc Chiến thuộc
Mường La, Sơn La. Về đại thể, nhóm này có những đặc trưng văn hóa của một
nhóm địa phương thống nhất như: cùng một vùng thổ ngữ, cùng một loại hình
sinh hoạt phong tục tập quán, văn học, nghệ thuật, tôn giáo…Nhóm thứ hai,
phân bố ở phía Nam trong các huyện Mộc Châu, Phù Yên (Sơn La) và một phần
ở Văn Chấn (Yên Bái). Nhóm này do ảnh hưởng của nhiều luồng văn hóa khác
nhau, nên chỉ có thể thống nhất trên các nét như: Cùng chung một câu chuyện kể
về nguồn gốc của sự thiên di, cùng một phong tục tập quán, một loại hình văn
nghệ dân gian. Riêng về ngôn ngữ, có hai vùng thổ ngữ: Mộc Châu và Phù Yên.
Thái Đen có những đặc trưng của một nhóm địa phương tương đối thuần
nhất. Hiện phân bố ở các huyện Văn Chấn, Than Uyên (Yên Bái); Mường La,
Thuận Châu, Mai Sơn, Sông Mã (Sơn La); Tuần Giáo, Điện Biên. Ngoài ra, còn
có một phần phân bố ở các huyện Phong Thổ, Sình Hồ, Quỳnh Nhai. Một nhóm
Thái Đen có hơi khác một số điểm về tập quán và thổ ngữ, hiện đang cư trú ở
huyện Yên Châu nên thường gọi là Thái Yên Châu.
Sự phân chia hai ngành Thái Trắng và Thái Đen ở miền Tây Bắc hiện
nay, là kết quả của một quá trình thiên di, xáo động trên những diễn biến lịch sử
lâu dài và phức tạp. Cho dù hiện nay có hai ngành Thái, chẳng qua cũng là sự
chuyển hóa từ một nhóm Thái cổ xưa nhất mà thiên di đi mỗi người một ngả.
Rồi đến địa vực cư trú mới của mình, từng nhóm một tiếp xúc với điều kiện tự
nhiên và chịu ảnh hưởng của các dân tộc xung quanh rồi xa dần cái nguyên gốc
11

của mình. Tuy vậy, người Thái ở Tây Bắc vẫn mang trong mình những nét văn
hóa riêng, độc đáo cần được giữ gìn, kế thừa và phát huy.
Sự hình thành nhóm Thái ở Tây Bắc:
Đơn vị cư trú của người Thái được gọi là Bản và Mường. Nhiều bản hợp
thành một mường nhỏ, nhiều mường nhỏ hợp thành một Châu mường. Ngay từ
đầu, các bản mường đã phân bố tương đối đông đúc trên những vùng cư trú của
ba nhóm địa phương:
Ở phía Bắc- những bản mường của người Thái Trắng tập trung trong các
thung lũng ruộng đồng màu mỡ. Khoảng thế kỷ thứ VIII, Mường Lay dưới thời
Lô Lạnh Lạt Ma đã trở thành trung tâm của vùng này. Lợi dụng sự phát triển của
người Thái, quýý tộc thống trị Mường Lay đã bành trướng thế lực khắp nơi.
Phía Bắc phát triển tới giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Từ Mường Tè ở phía
Đông kéo sang đầu Nặm U (Thượng Lào) ở phía Tây. Phía Nam phát triển dọc
theo sông Đà từ Mường Chiên (Quỳnh Nhai) xuống đến miền đất thuộc huyện
Mường La ngày nay.
Phía Nam, sau đợt thiên di của người Thái Trắng từ Lào sang, bản mường
bắt đầu xuất hiện. Khoảng cuối thế kỷ thứ VIII đầu thế kỷ thứ IX dưới thời chúa
Nhọt Cằm, Mường Sang đã trở thành trung tâm của vùng này. Thế lực của quýý
tộc Mường Sang đã ảnh hưởng khắp khu vực rộng lớn. Phía Bắc đến vùng đất
thuộc Mường Vạt (Yên Châu), Phia Đông là đất Mường Tấc (Phù Yên, Sơn La).
Phía Tây và miền Tây Nam là miền đất thuộc Mường Ét, Chiềng Cọ (Sầm Nưa-
Thượng Lào), và phía Nam là vùng đất thuộc hai huyện Đà Bắc, Mai Châu
thuộc Hòa Bình ngày nay.
Khu vực giữa- sau khi Lạng trượng thu phục đất Mường Thanh, con cháu
ông đã nối nghiệp nhau thống trị đất này. Càng về sau anh em trưởng thứ của
quýý tộc càng trở nên bất hòa. Lợi dụng tình thế đó, các thế lực của quýý tộc
Mường Lay và người Lự ở Thượng Lào đã đánh đuổi quýýý tộc Thái Đen ở
Mường Thanh. Con cháu Lạng Trượng phải dần về ở Mường Muổi. Sau khi ổn
định tại Mường Muổi, họ lại bắt đầu bành trướng khắp vùng cư trú của người
Thái Đen, kéo suốt từ vùng hữu ngạn sông Hồng sang sông Mã. Từ đó, trung

12
tâm Mường Muổi thời chúa Lò Lẹt đã nổi tiếng khắp vùng Tây Bắc. Theo nhà
nghiên cứu Cầm Trọng trong cuốn “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam”, ông đã
dựa trên các tài liệu lịch sử và cho rằng: Vào khoảng thế kỷ X cho đến thế kỷ
XIV, do quýý tộc Thái Đen đã sớm quy thuận triều đình và được triều đình tin
dùng, nên đã tạo điều kiện cho thế lực này ở trung tâm Mường Muổi phát triển
nhanh chóng. Vào cuối thế kỷ thứ XIV, nơi đây đã trở thành trung tâm thống
nhất bộ tộc Thái ở phía Tây. Đây là bước phát triển rất quan trọng của xã hội
người Thái ở Tây Bắc, nó đã bước đầu xóa bỏ ranh giới giữa ba vùng cát cứ với
các thế lực quýý tộc khác nhau. Thời kỳ này còn được tăng cường thêm một
bước, nhờ sự giao lưu văn hóa giữa dân tộc Thái với các dân tộc anh em khác
trên miền Tây Bắc và các vùng lân cận khác. Từ đó trở đi, cho dù người Thái có
bị phân thành từng châu mường, dù cho núi non hiểm trở và kinh tế chậm phát
triển, sự giao lưu giữa các châu mường còn hạn chế. Xã hội Thái cũng trải qua
những năm tháng bị bọn đế quốc, phong kiến chia rẽ…Nhưng lịch sử người
Thái ở Tây Bắc vẫn phát triển thành một khối. Đến nay, mặc dù người Thái vẫn
có các nhóm địa phương với hai ngành Thái Đen, Thái Trắng ở phía Bắc và phía
Nam. Nhưng tựu trung lại chỉ là một dân tộc mà tên thường gọi là “Người Thái
ở Tây Bắc Việt Nam”
1.1.2. Văn hóa của dân tộc Thái - bản sắc của nó
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa
- Văn hóa: Là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội,
thuật ngữ này không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà cả
trong các ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nó
cũng còn nhiều ýý kiến, vì thế trên thế giới hiện nay có tới hàng trăm cách định
nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà
con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong
quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi
phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi
lĩnh vực có sự hiện diện của con người.Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:

13
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương
thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn [35, tr. 431].
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn
hóa” tại Pháp (21/1/1998), Tổng thư kýý UNESCO định nghĩa:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như
đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc
tự khẳng định bản sắc riêng của mình [72, tr. 23].
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội,
có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội
sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội. Văn
hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã
hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định
nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất
của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã
khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng
khác và cho các thế hệ mai sau” [28, tr.11]. Định nghĩa này nhấn mạnh trong
văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị các mẫu mực xử
thế và các hệ thống hành vi. Vấn đề cần được nhấn mạnh ở đây là trong khái
niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận hoặc có nhiều khả năng
được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được truyền bá cho các cá thể hoặc
các nhóm trong cộng đồng.

14
“Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất
người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả
giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực
tiễn và lịch sử xã hội của mình.” [24, tr.13-14]
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử
của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con
người trở thành người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con
người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn
hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể
hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất
tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất
tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất
hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ
cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường được “vật thể hóa” trong
các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi
vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các
lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục tập quán…
Ở Việt Nam, khi luận bàn về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo
hai nghĩa, hai cấp độ khác nhau: Ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với
văn hóa của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người + tộc danh,
là một chi tiết của văn hóa nói chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa
chung của cả cộng đồng tộc người (Nation) sống trong cùng một quốc gia.
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như
những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ của một
tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lýý, tình cảm, tập quán riêng biệt
được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. Ở các quốc gia đa dân tộc, văn
hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét chung của văn hóa
quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa đều có những giá trị

riêng của nó.
15
Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so
sánh nền văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác, là cái để
xác định bản sắc văn hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống,
phong tục, tập quán, lối sống của một dân tộc trên nền tảng các giá trị chân,
thiện, ích, mỹ” [60, tr.19]
Bản chất đặc trưng của văn hóa là chiều cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo,
khát vọng nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của mỗi cá nhân, cộng đồng, dân
tộc. Mục đích của giá trị văn hóa là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản, hướng
tới sự hoàn thiện của mỗi cá nhân và của cộng đồng, dân tộc. Mặc dù, tiêu chuẩn
của các giá trị văn hóa của các cộng đồng, dân tộc là không như nhau. Giá trị
văn hóa còn mang tính khách quan, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì từ bên
ngoài áp đặt vào để trở thành văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc. Không
thể căn cứ vào văn hóa của một dân tộc nào đó để làm tiêu chí xem xét, đánh giá
nền văn hóa của các dân tộc còn lại là cao hay thấp, phát triển hay không…điều
đó sẽ rơi vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nô dịch hay sự áp đặt về văn hóa.
Có thể nói, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di
truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã
được tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó
đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ. Cộng đồng sẽ bền vững
khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền
văn hóa, bởi: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền
thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [65, tr.13]. Một
dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính mình, một nền
văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc của dân tộc. Chính
vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của
dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân
tộc.
- Bản sắc văn hóa:

Theo từ điển Tiếng Việt, bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc riêng, tạo thành
phẩm cách đặc biệt của một vật [42].
16
Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một nền
văn hóa cụ thể nào đó, là những nét văn hóa riêng có của nền văn hóa một dân
tộc. Những nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất
và tinh thần, vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với chính
điều kiện môi sinh mà dân tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai đoạn phát
triển khác nhau của một dân tộc. Những giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua
những thăng trầm, biến cố của lịch sử nó không những không mất đi, mà cùng
với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp, cái phù hợp của văn hóa
các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho văn hóa dân tộc mình, làm cho
nó là nó chứ không phải là cái khác. Khi nói đến một trong những nét đặc trưng
văn hóa ấy, người ta có thể dễ dàng nhận ra đó là dân tộc nào mà không cần phải
gọi tên.
Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là
hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua
đời khác. Bản sắc văn hóa làm cho một dân tộc luôn là chính mình:
Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó
có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được
tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển
được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa
của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập [6, tr. 48].
Bản sắc văn hóa còn là mối liên hệ thường xuyên, có định hướng của cái
riêng (văn hóa dân tộc) và cái chung (văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc trong quá
trình giao lưu văn hóa, sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào kho tàng văn
hóa chung. Đồng thời tiếp nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá trị của mình,
tạo ra sự khác biệt trong cái đồng nhất đó chính là bản sắc văn hóa của một dân
tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc không phải là một biểu hiện nhất thời, nó có mối
liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền vững trong lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc.

Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện thông qua
văn hóa. Vì vậy, có thể coi bản sắc dân tộc của văn hóa hoặc bản sắc văn hóa
dân tộc: “Bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào
17
cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp
phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một cộng đồng văn hóa khác là bản
sắc” [64, tr.13].
“Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong
sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ thường
xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng…
trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc đó” [18, tr. 37].
Khi nói tới bản sắc văn hóa của một dân tộc, cũng có nghĩa là nói tới bản
sắc riêng của dân tộc ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản
sắc dân tộc. Bởi bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ nét
hơn ở văn hóa. Sức sống trường tồn của một nền văn hóa khẳng định sự tồn tại
của một dân tộc, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy.
Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị. Giá trị tinh thần bên trong và
biểu hiện bên ngoài của bản sắc dân tộc có mối quan hệ khăng khít củng cố thúc
đẩy nhau phát triển. Văn hóa không được rèn đúc trong lòng dân tộc để có bản
lĩnh, trở thành sức mạnh tiềm tàng bền vững thì bản sắc dân tộc của văn hóa sẽ
mờ phai. Ngược lại, nếu văn hóa tự mình làm mất đi những màu sắc riêng biệt,
độc đáo của mình, sẽ làm vơi chất keo gắn kết tạo thành sức mạnh bản lĩnh của
văn hóa.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc có thể do nhiều yếu tố như:
hoàn cảnh địa lýý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lýý, phương thức hoạt
động kinh tế. Nhưng bản sắc văn hóa dân tộc, không thể không xuất phát từ
những yếu tố tạo thành dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc
phải hiểu theo khái niệm phát triển, khái niệm mở. Nó không chỉ là hình thức
mà còn là nội dung đời sống cộng đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ các dân tộc
Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH TW lần thứ V khóa VIII của Đảng đã chỉ

rõ:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ýý chí tự cường
18
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ýý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng
xã- Tổ quốc…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện
mang tính dân tộc độc đáo [16, tr.56].
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức
sống của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền
thống văn hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác
và phát huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn
hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành, truyền thống mang tính bền vững và có
chức năng định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng.
Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa không phải là sự bất biến, cố định hoặc
khép kín mà nó luôn vận động mang tính lịch sử cụ thể. Trong quá trình này nó
luôn đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để thích
nghi với đòi hỏi của thời đại. Truyền thống cũng không phải chỉ bao hàm các giá
trị do dân tộc sáng tạo nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp
nhận một cách sáng tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của
dân tộc.
Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gồm nhiều loại hình, nhiều
tầng, nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau, tạo nên giá
trị to lớn là nền tảng bền vững của bản sắc dân tộc. Nguồn nuôi dưỡng vô tận
tâm hồn và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đây là kho của cải vô
giá, di sản vô cùng quý báu của văn hóa Việt Nam. Việc nhận diện đúng về bản
sắc văn hóa mỗi dân tộc và các dân tộc thành viên là việc làm hết sức có ýý
nghĩa. Bởi lẽ, việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có
sự chặt chẽ, hài hòa và thực hiện theo định hướng, đường lối của Đảng, Nhà
nước và ýý thức dân chủ tự nguyện của nhân dân.

1.1.2.2. Văn hóa của dân tộc Thái
Nói đến văn hóa của dân tộc Thái là ta nói đến hệ thống những giá trị văn
hóa do chính cộng đồng tộc người đó tạo ra và là sản phẩm của con người bao
gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa
19
thiết chế xã hội Như đã trình bày ở phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ trình bày
những giá trị văn hóa đặc trưng thuộc về văn hóa của dân tộc Thái:
Trước hết, nói đến văn hóa của dân tộc Thái là phải nói đến một loại hình
văn hóa thung lũng. Bởi lẽ, với những đặc điểm đặc thù về điều kiện tự nhiên
của miền Tây Bắc đã hình thành nên một nền văn hóa tương ứng, đó là loại hình
văn hóa thung lũng.
Nói đến văn hóa thung lũng, nghĩa là muốn nói đến mối quan hệ giữa tộc
người này với môi trường sinh sống là thung lũng lòng chảo. Điều này cũng nói
lên khả năng thích nghi của con người với tự nhiên bằng văn hóa của mình. Văn
hóa thung lũng của dân tộc Thái có các đặc trưng sau:
Cảnh quan địa lý là những thung lũng lòng chảo lọt vào vùng núi cao,
rừng sâu, dầy khe, vực, sông suối cắt xẻ địa hình. Khí hậu hai mùa rõ rệt.
Từ lâu dân tộc này đã tạo lập các cánh đồng lúa, đối tượng tác động chính
của lao động xã hội.
Vùng sườn dốc nằm ở vành đai của các lòng chảo thì làm nương theo các
phương pháp phát, đốt, chọc lỗ, tra hạt, có tác dụng bổ sung vào hệ thống trồng
trọt. Đây là đặc trưng chủ yếu nhất trong toàn bộ hệ thống văn hóa thung lũng
của dân tộc.
Các nóc nhà cư trú thành từng cụm theo hình thức mật tập gọi là bản,
được tự do khai thác tự nhiên. Ngoài việc chính làm ruộng và làm nương, mỗi
một hộ gia đình đều tiến hành nuôi gia súc, gia cầm, làm các nghề thủ công,
trong đó nổi lên là nghề trồng bông dệt vải và tiến hành hái lượm, săn, thu bắt
hải sản ở sông suối.
Các bản nằm trên đường vành đai thung lũng và nhiều bản hợp thành
mường. Bản là lãnh thổ cộng đồng tộc người, trong khi mường thì thường có

nhiều cộng đồng tộc người. Trong một mường, người Thái bao giờ cũng chiếm
đa số và tiêu biểu.
Giao thông vô cùng cách trở vì thung lũng nọ cách thung lũng kia là cả
chiều dầy của núi non, bị che chắn bởi núi cao, vực sâu, rừng dầy, suối khe
20
Đây là nền văn hóa tiền công nghiệp, được hình thành từ lao động tự cung
tự cấp, chưa đạt tới trình độ trong đó chứa đầy chất men cần thiết để kích thích
sự phát triển xã hội.
Tóm lại, người Thái là một trong những dân tộc có khả năng thổi vào tự
nhiên một sức sống mới khác với tự nó. Khả năng ấy chính là chiều dầy của văn
hóa phát triển thành truyền thống. Giờ đây, khi mà khoa học phát triển mạnh và
cơ chế thị trường thì liệu có thể giữ gìn và phát huy được dòng truyền thống này
không? Điều này còn phụ thuộc vào khả năng phát huy bản lĩnh và bản sắc dân
tộc đã tạo ra được các mô hình thích nghi mới trong hệ sinh thái nhân văn của
mình.
- Các giá trị văn hóa vật chất:
+ Văn hóa nông nghiệp Thái: Sống với điều kiện tự nhiên môi sinh có
nhiều điểm đặc thù cho nên, định hướng tác động trong khai thác tự nhiên truyền
thống của người Thái là đồng ruộng lòng chảo và nương rẫy trên sườn núi. Hàng
ngàn năm nay, dân tộc này đã có những biện pháp dẫn thuỷ nhập núiđiền, đúc
rút được tập quán làm thuỷ lợi bằng biểu tượng ngôn ngữ (điều mà không phải
bất cứ cộng đồng người làm ruộng nào cũng làm được). Người Thái có bốn chữ
nói lên bốn giải pháp: Mương, Phai, Lái, Lin. “Đây là mặt biểu hiện cụ thể của
văn hóa lúa nước có cội nguồn từ cư dân nói tiếng Tày- Thái cổ, trải qua các giai
đoạn lịch sử của nó, không những đọng lại trong ngôn ngữ Thái mà còn có ở
ngôn ngữ văn hóa Việt - Mường” [10]. Yếu tố đầu tiên trong văn hóa mưu sinh
của tộc người Thái là việc làm ruộng nước, nó trở thành động lực phát triển lịch
sử cộng đồng tộc người theo mạch vừa tụ cư, vừa định cư, lan tỏa chung cho cả
nhóm nói tiếng Thái. Việc khai khẩn vùng đất hoang vu thành cánh đồng trồng
lúa trở thành hàng đầu trong hệ thống kinh tế cổ truyền Thái. Trong đó, cùng với

việc vỡ đất phải giải quyết ngay khâu dẫn nước từ các dòng chảy tự nhiên vào
tưới tiêu, sao cho cánh đồng trồng lúa hợp lý với vùng tự nhiên của nó. Từ đó,
dòng nước thiên nhiên gắn chặt với các khâu của công trình thủy lợi truyền
thống, mà người Thái quen lấy Mương làm tiêu biểu chung “có nước mới có
mương, có mường mới có Tạo”. Nước đã sinh ra tổ chức xã hội mang tên
21
Mường, mường xưa có người đứng đầu mang tên Tạo. Tạo lại trở thành pháp
nhân đứng ra tổ chức xã hội, tác động và biến tự nhiên thành ruộng lúa, cung
cấp cho con người thóc gạo. Giải pháp nước (văn hóa Thủy lợi) được người ta
đặt lên hàng đầu trong việc làm ruộng nước.
Qua hệ thống Mương, Phai, Lái, Lin, người Thái đã sớm tích lũy được
một số kinh nghiệm để dẫn nước tưới ruộng theo phương pháp thủ công và thu
được những hiệu quả nhất định, cho cuộc sống lao động sản xuất của dân tộc
Thái trong một thời gian dài. Song song với việc sản xuất lương thực trên ruộng
nước, người Thái còn làm nương rẫy. Trên một diện tích nương, tập quán Thái
chỉ thực hiện ba vụ cũng là ba năm hay ba mùa, đến năm thứ tư phải phá rừng
làm nương mới. Một gia đình nông dân Thái chỉ cần phá rừng làm bốn đám
nương luân chuyển đã khép kín trong chu kỳ 12 năm. Thời gian đó là khoảng
thời gian đủ cho rừng nhiệt đới tái sinh và người dân có thể trở lại canh tác trên
diện tích ban đầu. Trong cấu trúc văn hóa mưu sinh, hình thức canh tác nương
rẫy chiếm phần quan trọng sau làm ruộng, nằm trong lãnh thổ bản.
+ Công cụ lao động: Dân tộc Thái trên bước đường phát triển của mình
không thể không biết sử dụng các công cụ kim loại, trong sản xuất cũng như
trong sinh hoạt. Tuy nhiên, trong chế tác những kim loại đó, họ chưa có kỹ thuật
nấu, đúc, khoan mà chỉ biết rèn, gò ở trình độ thô sơ, đơn giản. Như đã nói đến ở
trên, trong tổng thể văn hóa thung lũng với nền nông nghiệp phức hợp thì việc
sản xuất các công cụ lao động tinh xảo, hầu như chưa được chú ý lắm. Trong
sáng tạo văn hóa trên cánh đồng lòng chảo và làm nương rẫy trên các sườn dốc,
dân tộc này chỉ cần có bốn công cụ kép có lưỡi kim loại là: Dao (mịt hay pạ), rìu
(khoan), cày (thay), và mai (lủa).

Từ rất lâu dân tộc này đã coi con dao là công cụ lao động quan trọng bậc
nhất trong việc tạo ra những giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa vật chất. Có nó,
người ta lấy gỗ, tre dựng nhà ở, tạo ra các công cụ và vật dụng cho sinh hoạt
hàng ngày, dùng để chế biến thức ăn, phát cây cỏ, làm nương rẫy Trong cung
cách làm ăn ấy, dao được xem như công cụ vạn năng hầu như lúc nào cũng được
người chủ mài sắc.
22
Cày và Mai là công cụ không thể thiếu được trong sản xuất trên đồng áng
của dân tộc Thái. Theo truyền thống, cày và mai là công cụ lao động của nam
giới vì cho rằng đây là công việc nặng nhọc, phụ nữ kiêng không sử dụng công
cụ này. Ngoài dao, rìu việc làm nương còn có các công cụ khác như chiếc cuốc,
vách, thuổng. Công cụ để gieo hạt là chiếc gậy vót nhọn để chọc lỗ tra hạt.
Trong quá trình làm ruộng còn có chiếc bừa, theo cách làm ăn xưa thường làm
bừa răng gỗ. Công cụ thu hoạch gồm có: liềm, nhíp, néo, ván đập lúa và quạt
đan tay bằng tre, nứa
+ Nhà ở: Theo truyền thống thì người Thái ở nhà sàn làm bằng gỗ, tre,
nứa…lợp bằng cỏ tranh. Họ hiểu, không chỉ riêng dân tộc mình ở nhà sàn,
nhưng ở trong tâm thức vẫn coi đây như một trong những nét văn hóa của dân
tộc mình. Điều này được biểu hiện trong câu tục ngữ: “nhà Thái - nhà có gác -
đầu hồi có cột”. Nhà sàn của người Thái không phải dùng đến một mẩu sắt nào
trong thiết kế xây dựng. Thay vào những cái đinh đóng là cả một hệ thống dây
chằng, buộc, thắt khá công phu và tinh xảo bằng lạt tre, giang, mây và một số
loại vỏ cây chuyên dụng. Để nối các cột kèo, người ta dùng những đòn dầm
xuyên suốt các lỗ đục của các cột làm cho ngôi nhà rất chắc chắn, đủ sức chống
nắng, mưa, gió, bão Nhìn vào cấu trúc mái, có thể phân biệt được kiểu nhà của
từng nhóm địa phương khác nhau. Nhà sàn của người Thái Đen và Thái Trắng ở
Mộc Châu, Sơn La thì có mái “vòm khum mai rùa” và thường đặt ở hai đầu hồi
biểu tượng tạc bằng gỗ quét vôi trắng hai thanh tre, tựa như hai đôi sừng gọi là
khau cút. Nhà sàn của người Thái trắng ở Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ
(Lai Châu) do có mặt phẳng hình chữ nhật gần vuông nên có 4 mái thẳng và gấp

góc Nếp nhà sàn là một đơn vị không gian chứa đựng tế bào của xã hội. Đó có
thể là một gia đình nhỏ gồm một cặp vợ chồng và con cái chưa đến tuổi trưởng
thành, cũng có thể là tổ hợp gia đình lớn có từ hai cặp vợ chồng trở lên và đàn
con cháu của họ. Dù gia đình nhỏ hay lớn, đều có một sự thống nhất cộng đồng
tộc người trong giải pháp nội thất xử lý phân chia mặt bằng thành khái niệm:
Phân đôi không gian dọc theo chiều đòn nóc thành hai phần. Tục ngữ
Thái có câu “đầu gối đất, chân kề nước” quy định tập quán nơi ngủ thống nhất
23
quay đầu về sườn núi, đó cũng là “mé đầu” hay “phía trên” của thân nhà; duỗi
chân về phía cánh đồng hay dòng suối, sông con, đây là “mé chân” hay “ phía
dưới”. Từ đó, nẩy sinh việc bố trí, sắp xếp thành một nửa là các gian ngủ của gia
đình. Trong nửa phía trên (đầu) chủ nhà bao giờ cũng nằm kề sát gian thờ tổ
tiên, tục gọi là “ngủ cài hóng”. Nếu là gia đình lớn thì tiếp đó là gian ngủ theo
thứ tự con cả đến con thứ…nửa phía dưới (chân) là nơi để tiếp khách, đặt bếp
núc và giành cho sinh hoạt ban ngày.
Phân đôi bổ ngang theo chiều quá giang. Một bên là cầu thang dẫn lên
lan can đi vào cửa chính bên hồi để vào nội thất. Đầu tiên sẽ thấy “phía trên” có
gian thờ tổ tiên như được giấu kín trong buồng có vách ngăn - hóng; đối diện ở
phía dưới có khoang gọi là “gian cửa sổ tựa” để ngồi tựa hóng mát, tiếp khách lạ
và quý, đọc và viết lách khi cần thiết. Giữa nhà, nơi giáp với chân chỗ ngủ của
chủ nhà thường đặt thêm một bếp để sum họp gia đình. Nửa này tính từ phía
giữa gian nhà đổ về phía lan can hồi được gọi là “quản”, quy định giành chủ yếu
cho các sinh hoạt đàn ông. Một bên cầu thang dẫn lên sàn phơi và nơi đặt nước
dùng. Sàn phơi là nơi để thanh thiếu nữ ngồi kéo sợi, làm vải và là nơi ngồi tâm
tình cùng người yêu vào buổi tối. Qua cửa chính vào nội thất ở “phía dưới” sẽ
tiếp ngay với bếp ăn hàng ngày và đối diện về “phía trên” là nơi trang điểm và
sinh hoạt của phái đẹp - gọi là “cửa sổ gương”. Nửa này tính từ giữa nhà đổ về
phía sàn phơi gọi là “chan” quy định giành chủ yếu cho các sinh hoạt đàn bà,
gắn với công việc nội trợ.
Nếp nhà sàn còn là không gian chứa đựng văn hóa tâm linh. Theo cách tư

duy truyền thống này thì ngôi nhà sàn còn là nơi “trú ngụ của các linh hồn” mỗi
thành viên trong gia đình, được tập trung vào khái niệm linh hồn chủ nhà có vật
tượng trưng là “cột chủ áo” treo “thanh gươm thiêng của tông tộc”. Sự tín
ngưỡng linh hồn gắn liền với nếp nhà sàn, nó không những biểu hiện trong cuộc
sống hàng ngày mà còn sống động trong văn học, âm nhạc, nhảy múa…Nếp nhà
sàn còn mang ý niệm là “nơi chứa đựng cộng đồng những người thuộc dòng
máu cha” nên có tên “nhà tông - nhà cúng”. Riêng trong nhà của những người
24
thuộc dòng họ quý tộc thì có thêm gian thờ ở mé ngoài giáp lan can phía quản,
gọi là chong căm.
+ Vải vóc và các biểu hiện văn hóa: Theo truyền thống của dân tộc Thái,
theo phân công tự nhiên thì việc làm ra vải là lao động chủ yếu của nữ giới. Tập
quán, xã hội Thái đã rèn luyện cho người phụ nữ một tay nghề làm vải rất tài
hoa, là con gái Thái thì không được phép ngừng tay làm vải và phải đạt tới trình
độ tinh xảo như câu tục ngữ: “xấp đôi tay đã thành hoa văn, ngửa bàn tay đã
thành hoa lá”. Nếp sống xưa cho rằng: Biết làm vải thì mới là phụ nữ, bằng
không thì cho dù người phụ nữ đó dù có chăm chỉ mọi việc khác đến đâu, cũng
bị xã hội cho là chây lười, thường thì không ai muốn lấy làm vợ. Người đàn bà
sành nghề làm vải thì được bản mường tặng danh hiệu “Đàn bà tám cạnh sắc
nét”.
Trong văn hóa dân tộc Thái, vải vóc chứa đựng bốn khái niệm:
Thứ nhất, nó được coi như vật tượng trưng cho phái đẹp. Người Thái có
câu thành ngữ “thân hình cao thanh, óng ánh trong, tựa giải lụa”, và cái nết của
người đẹp đó là: “Vui làm vui ăn. Vui quay xa thành sợi. Vui kéo sợi ươm tơ”.
Thứ hai, nó là vật dùng trong suốt cả cuộc đời một con người.
Thứ ba, vải vóc là vật tượng trưng cho sự giàu sang trong xã hội. Trong
cuộc sống thường ngày, người ta coi vải vóc là sản phẩm quý. Tuy giá trị của nó
kém vàng, bạc, châu báu nhưng xét về yếu tố xã hội chứa trong nó, thì các sản
phẩm này có giá trị như nhau. Bởi thế, hiện tượng coi tiền bạc hơn phúc đức
cha, mẹ mới bị dư luận lên án mạnh mẽ.

Thứ tư, vải vóc là văn hóa kỹ thuật mà người sản xuất phải trải qua quá
trình hiểu biết mới làm ra được. Bởi việc làm ra vải là cả một quá trình dài có
thể chia làm hai giai đoạn chính trong đó bao gồm nhiều những công việc khác
nhau: Trước hết là trồng bông và từ bông dệt thành vải. Sau đó là công đoạn
nhuộm sợi cũng rất phức tạp và cầu kỳ. Tấm thổ cẩm là một dải vải hoa văn dày,
màu sắc tươi mát, phong phú, trong đó, màu đỏ đóng vai trò chủ đạo được
nhuộm bằng cánh kiến nấu pha với nhựa cây rừng.
25

×