Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

hiệu quả sản xuất lúa ở xã hải thành, huyện hải lăng, tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.96 KB, 72 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA Ở XÃ HẢI THÀNH, HUYỆN HẢI
LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

Sinh viên thực hiện: Giáo viên hướng dẫn:
Lý Kiều Tiên Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
Lớp: K43B - KTNN
Niên khóa: 2009 - 2013
Huế, tháng 05 năm 2013
SVTH: Lý Kiều Tiên
ii
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
Lời Cám Ơn
Để thực hiện nghiên cứu và hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp “Hiệu quả sản
xuất lúa ở xã Hải Thành, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị” ngoài sự nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của các tổ chức ,cá nhân.
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô giáo đã giảng dạy tôi trong suốt
bốn năm học vừa qua để tôi có nhiều kiến thức bổ ích và nhiều kinh nghiệm quý báu.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.s. Phạm Thị Thanh Xuân, người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận
này.
Xin cảm ơn ban giám hiệu trường Đại Học Kinh Tế, Khoa Kinh Tế và Phát Triển đã
tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực tập.
Đồng thời tôi cũng bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến ban lãnh đạo là các chú, các anh,


các chị thuộc UBND xã Hải Thành đã tình giúp đỡ trong việc cung cấp số liệu, văn
bản tài liệu, góp ý và giải đáp thắc mắc tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành kỳ thực
tập và khóa luận này. Và cùng toàn thể bà con nông dân 3 thôn Kim Sanh, Phước
Điền, Trung Đơn đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình khảo sát và thu thập số liệu tại địa
phương.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn tất cả những người thân, bạn bè đã giúp đỡ và đóng góp
cho tôi những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành khóa luận này
Xin chân thành cám ơn !
Huế, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Lý Kiều Tiên
SVTH: Lý Kiều Tiên
iii
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của Việt Nam từ 2007- 2011 Error:
Reference source not found
Bảng 2. Tình hình sản xuất lúa tỉnh Quảng Trị từ năm 2007 - 2011 Error: Reference
source not found
Bảng 3. Tình hình sản xuất lúa tại huyện Hải Lăng năm 2009 - 2011 Error: Reference
source not found
Bảng 4: Quy mô, cơ cấu đất đai của xã Hải Thành Error: Reference source not found
Bảng 5: Tình hình sản xuất lúa của xã Hải Thành giai đoạn 2005-2012 Error:
Reference source not found
Bảng 6: Tình hình nhân khẩu và lao động các hộ điều tra năm 2012 Error: Reference
source not found
Bảng 7: Quy mô, cơ cấu đất nông nghiệp của các hộ điều tra( BQ/hộ) Error: Reference
source not found

Bảng 8: Tình hình trang bị tư liệu sản xuất của các hộ điều tra (BQ/hộ) Error:
Reference source not found
Bảng 9 : Diện tích, năng suất, sản lượng của các hộ điều tra (BQ/hộ) Error: Reference
source not found
Bảng 10: Tình hình đầu tư chi phí cho sản xuất lúa của các hộ điều tra (BQ/sào) . Error:
Reference source not found
SVTH: Lý Kiều Tiên
iv
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
Bảng 1 1 : Kết quả và hiệu quả trồng lúa của các hộ điều tra (BQ/sào) Error: Reference
source not found
Bảng 12: Ảnh hưởng của quy mô ruộng đất đến kết quả và hiệu quả sản xuất lúa năm 2012 . . Error:
Reference source not found

Bảng 13: Ảnh hưởng của quy mô IC đến kết quả và hiệu quả sản xuất lúa năm 2012 Error:
Reference source not found

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
CNH – HĐH: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
BVTV: Bảo vệ thực vật
LĐNN: Lao động nông nghiệp
HTX: Hợp tác xã
SVTH: Lý Kiều Tiên
v
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
KHKT: Khoa học kỹ thuật
CÁC ĐƠN VỊ QUY ĐỔI

1 sào = 500 m
2
1 tạ = 100 kg
1 ha = 10.000 m
2
= 20 sào
1 tấn = 1.000 kg
SVTH: Lý Kiều Tiên
vi
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
SVTH: Lý Kiều Tiên
vii
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Luận văn tốt nghiệp được xem là công trình nghiên cứu khoa học đầu tay, đầu tư
nhiều công sức nhất trong quá trình học ở trường. Đây cũng là dịp để tôi vận dụng những
kiến thức lý thuyết đã được tiếp nhận ở nhà trường vào thực tế làm phong phú thêm kiến
thức cho bản thân. Qua quá trình thực tập tại UBND xã Hải Thành tôi đã lựa chọn đề tài:
“Hiệu quả sản xuất lúa ở xã Hải Thành, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị”.
Mục tiêu chính của việc nghiên cứu đề tài: Hệ thống các vấn đề lý luận chung
về sản xuất lúa và tình hình sản xuất lúa tại xã Hải Thành, tìm hiểu thực trạng sản xuất
lúa trên địa bàn, đánh giá thực trạng sản xuất lúa trên địa bàn xã, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất lúa.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu điều tra
các hộ dân trồng lúa tại 3 thôn Kim Sanh, Phước Điền, Trung Đơn phương pháp thống
kê mô tả các thông tin và số liệu được cụ thể hoá thành các bảng biểu, đề tài còn sử
dụng phương pháp chuyên gia, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Kết quả đạt được:

Về mặt lý luận, đề tài đã khái quát được các vấn đề lý luận liên quan đến hiệu quả
kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Về mặt nội dung, đề tài đã đánh giá được hiệu quả sản xuất lúa của các hộ dân xã
Hải Thành, thông qua phỏng vấn, đề tài tìm hiểu một số thông tin về tình hình sản xuất
lúa của người dân ở đây để từ đó đưa ra một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất lúa
Hạn chế của đề tài: Do thời gian thực tập có hạn, bản thân tiếp cận với nghiên cứu
khoa học chưa sâu nên đề tài này chỉ giới hạn trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất lúa tại
địa bàn.
SVTH: Lý Kiều Tiên
viii
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thế giới không ngừng phát triển, mỗi quốc gia điều có những chiến lược phát
triển riêng của đất nước mình. Hầu hết mọi quốc gia đều đi theo con đường công
nghiệp hóa, tăng tỉ trọng đóng góp của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng
đóng góp của ngành nông nghiệp trong thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên
nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu
kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho mọi quốc gia.
Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển với hơn 70% dân số sống ở nông
thôn và nghề nghiệp chính của họ vẫn là sản xuất nông nghiệp. Do đó việc phát triển
sản xuất nông nghiệp luôn được quan tâm hàng đầu ở nước ta. Từ một nước phải nhập
khẩu lương thực, thực phẩm thì đến nay Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu
nông sản lớn trên thế giới.
Trong kinh ngạch hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, không thể không
nhắc đến vai trò của cây lúa, sản xuất lúa không những cung cấp lương thực, thực
phẩm cho con người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến mà
còn góp phần quan trọng trong xuất khẩu, đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Vì

vậy, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng việc sản xuất lương thực, coi đây là nhiệm vụ
hàng đầu cho vấn đề an ninh lương thực Quốc gia.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam có bước phát triển: Chuyển
từ nền sản xuất tự cung tự cấp sang nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN, tạo ra động lực mới cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam. Trong thời kỳ CNH-HĐH ngày nay, diện tích sản xuất luá phải nhường chỗ
cho các công trình xây dựng, cho phát triển công nghiệp, cho quá trình đô thị hóa diễn ra
ồ ạt thì vấn đề đảm bảo lương thực càng đặt lên vai người nông dân.
Xã Hải Thành huyện Hải Lăng là một xã nghèo, thuần nông. Thu nhập của đại
bộ phận người dân trong xã phụ thuộc vào sản xuất lúa. Trong nhiều năm qua sản
lượng nông nghiệp đã đạt đươc những tiến bộ đáng kể, trong đó cây lúa đóng vai trò
chủ đạo. Với lợi thế địa hình bằng phẳng, đất đai phì nhiêu, xã đã áp dụng nhiều biện
SVTH: Lý Kiều Tiên
1
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
pháp kỹ thuật mới vào sản xuất nên có năng suất cao. Vì vậy mà những năm qua sản
lượng lúa được ổn định trong khi diện tích canh tác giảm. Bên cạnh đó vẫn còn không
ít hộ nông dân sản xuất kém hiệu quả, mất mùa do thời tiết, do chăm sóc phân bón,
phun thuốc không đúng kỹ thuật, năng suất không cao do sử dụng giống kém hiệu quả.
Xuất phát từ thực tế đó cùng với quá trình nghiên cứu thực tiễn tại địa phương
tôi đã chọn đề tài : “Hiệu quả sản xuất lúa ở xã Hải Thành, huyện Hải Lăng, tỉnh
Quảng Trị” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế sản xuất lúa.
- Đánh giá thực trạng sản xuất lúa của các hộ nông dân.
- Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả kinh tế sản xuất lúa.
- Xác định những khó khăn, trở ngại trong hoạt động sản xuất lúa.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất lúa của xã trong
thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng và nội dung nghiên cứu
Hiệu quả kinh tế sản xuất lúa của các hộ nông dân xã Hải Thành
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Điều tra 40 hộ nông dân sản xuất lúa tại xã Hải Thành
- Phạm vi thời gian: Phân tích số liệu điều tra năm 2012
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp chọn điểm và chọn mẫu nghiên cứu
Tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên và phỏng vấn, điền vào bảng câu hỏi điều tra
40 hộ sản xuất lúa của 3 thôn Trung Đơn, Kim Sanh, Phước Điền.
4.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Số liệu thứ cấp: Các số liệu và thông tin về tình hình phát triển kinh tế - xã
hội của xã Hải Thành được thu thập từ các báo cáo phát triển kinh tế - xã hội, các tài
liệu, các tư liệu nghiên cứu về xã.
+ Số liệu sơ cấp: Việc điều tra nguồn số liệu sơ cấp được tiến hành trên cơ sở
khảo sát thực tế, điều tra thu thập.
SVTH: Lý Kiều Tiên
2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
4.3. Phương pháp phân tích
- Phương pháp phân tổ: Tiến hành phân tổ số liệu theo các tiêu thức khác nhau
nhằm đánh giá cũng như xác định nhân tố nào có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và
hiệu quả sản xuất lúa trên địa bàn.
- Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp tất cả các số liệu có liên quan đến kỹ thuật
sản xuất, tổng hợp tất cả các phiếu điều tra để xem xét đánh giá chi phí sản xuất, kết
quả và hiệu quả của sản xuất lúa trên địa bàn xã. Số liệu thu thập được từ các phiếu
điều tra được hệ thống hóa thành các bảng biểu với các chỉ tiêu khác nhau nhằm phân
tích đánh giá thực trạng cũng như hiệu quả sản xuất lúa trên địa bàn.
SVTH: Lý Kiều Tiên

3
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT LÚA
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý luận về hiệu quả kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một khái niệm được xem như là một tiêu chuẩn để đánh giá
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, vẫn đang còn nhiều quan điểm
khác nhau.
Theo quan điểm của Farrell (1957) cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là một phạm trù
kinh tế mà trong đó sản xuất phải đạt cả hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả phân bổ”.
Hiệu quả kĩ thuật: Là lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi phí
đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ thể về kĩ thuật
hay công nghệ áp dụng vào nông nghiệp. Hiệu quả kĩ thuật của việc sử dụng các
nguồn lực được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, giữa các sản
phẩm khi nông dân ra quyết định sản xuất.
Hiệu quả phân bổ: Phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí về
đầu vào hay nguồn lực. Thực chất hiệu quả phân bổ là hiệu quả kĩ thuật có tính đến
các yếu tố về giá các yếu tố đầu vào và đầu ra.
Như vậy, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất phải đạt
cả hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả phân bổ.
1.1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hiệu quả kinh tế
Nghiên cứu hiệu quả kinh tế cho ta biết được mức độ sử dụng các yếu tố đầu
vào như thế nào để có thể thu được nhiều sản phẩm nhất với chi phí trên một đơn vị
sản phẩm là nhỏ nhất.
Trong nông nghiệp việc nghiên cứu hiệu quả kinh tế nhằm mục đích tìm ra
những nguyên nhân gây ra việc sản xuất không đạt hiệu quả. Từ đó ta có thể điều
chỉnh các yếu tố đầu vào hợp lí nhất để mang lại năng suất và sản lượng cao nhất.

Đồng thời bên cạnh đó giá trị trên mỗi sản phẩm cũng phải được nâng lên bằng cách
đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích và tiết kiệm chi phí.
1.1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất
1.1.1.3.1. Chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất
SVTH: Lý Kiều Tiên
4
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
+ Giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị bằng tiền của các sản phẩm được tạo
ra trong một thời kỳ nhất định trên một đơn vị diện tích.
GO = Q * P
Trong đó: Q là khối lượng sản phẩm
P là đơn giá bình quân sản phẩm
+ Chi phí trung gian (IC): Là bao gồm những khoản vật chất và dịch vụ được sử
dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp.
+ Giá trị gia tăng (VA): phản ánh phần chi phí thu thêm so với chi phí trung
gian của hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó.
VA = GO – IC
+ Thu nhập hỗn hợp (MI): MI = VA – A
Trong đó: A là khấu hao.
+ Tiền công lao động gia đình và các chi phí vật chất tự có (CL): Bao gồm lao
động trực tiếp và quản lý, tính theo giá thuê lao động.
+ Lợi nhuận (Pr): Pr = MI – CL
1.1.1.3.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất
- Giá trị sản xuất trên chi phí trung gian (GO/IC): Chỉ tiêu này cho biết cứ một
đồng chi phí trung gian được đầu tư vào quá trình sản xuất thì tạo ra bao nhiêu đồng
giá trị sản xuất. Nếu tỷ số này cao thì sản xuất càng có hiệu quả.
- Giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC): Theo chỉ tiêu cứ một đồng
chi phí trung gian được bỏ vào quá trình sản xuất lúa thì tạo ra bao nhiêu đồng giá trị
gia tăng.

- Giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất( VA/GO): Chỉ tiêu này phản ánh một đồng
giá trị sản xuất lúa tạo ra bao nhiêu đồng giá trị gia tăng.
- Năng suất cây trồng: Chỉ tiêu này biểu hiện một đơn vị diện tích gieo trồng
trong một vụ sản xuất thì thu được bao nhiêu sản lượng lúa.
N= Q/S
Trong đó: Q: Sản lượng cây trồng
S: Diện tích đất trồng
1.1.2. Nguồn gốc của cây lúa
Cây lúa trồng hiện nay đã trải qua một lịch sử tiến hóa lâu dài và khá phức tạp,
với nhiều thay đổi rất lớn về đặc điểm hình thái, nông học, sinh lý và sinh thái để thích
nghi với điều kiện khác nhau của môi trường thay đổi theo không gian và thời gian. Sự
tiến hóa này bị ảnh hưởng rất lớn bởi 2 tiến trình chọn lọc: chọn lọc tự nhiên và chọn
SVTH: Lý Kiều Tiên
5
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
lọc nhân tạo. Hiểu biết về nguồn gốc cây lúa trồng giúp ta hình dung được quá trình
tiến hóa và hiểu được điều kiện môi trường cùng những yêu cầu sinh thái tự nhiên mà
cây lúa cần cho nhu cầu sinh trưởng và phát triển đặc biệt của nó. Điều này sẽ rất cần
thiết cho công cuộc nghiên cứu cải tiến giống và biện pháp kỹ thuật để gia tăng năng
suất lúa. Nguồn gốc cây lúa đã có nhiều tác giả đề cập tới nhưng cho tới nay vẫn chưa
có những dữ liệu chắc chắn và thống nhất. Có một điều là lịch sử cây lúa có từ rất lâu
và gắn liền với lịch sử phát triển của nhân dân các nước Châu Á.
Makkey cho rằng vết tích cây lúa cổ xưa được tìm thấy trên các di chỉ đào được ở
vùng Penjab Ấn Độ, có lẽ của các bộ lạc sống ở vùng này cách đây khoảng 2000 năm.
Vavilov(1926) trong nghiên cứu nổi tiếng của ông về sự phân bố đa dạng di
truyền của cây trồng, cho rằng cây lúa được xem như phát triển từ Ấn Độ.
Theo Grist cây lúa xuất phát từ Đông Nam Á, từ đó lan dần lên phía Bắc.
Gutchchin, Ghose, Erughin và nhiều tác giả khác thì cho rằng Đông Dương là cái nôi
của cây lúa. De Candolle, Rojevich lại quan niệm rằng Ấn Độ mới là nơi xuất phát

chính của cây lúa. Đinh Dĩnh( Trung Quốc) dựa vào lịch sử phát triển lúa hoang ở
trong nước cho rằng lúa trồng có xuất xứ ở Trung Quốc. Một số nhà nghiên cứu Việt
Nam lại cho rằng nguồn gốc cây lúa là ở Miền Nam nước ta và Campuchia.
Tuy có nhiều ý kiến nhưng chưa thống nhất, nhưng căn cứ vào các tài liệu lịch
sử, di tích khảo cổ, đặc điểm sinh thái học của cây lúa trồng và sự hiện diện rộng rãi
của các loài lúa hoang dại trong khu vực, nhiều người đồng ý rằng nguồn gốc cây lúa
là ở vùng đầm lầy Đông Nam Á rồi từ đó lan dần đi các nơi. Thêm vào đó, sự kiện
thực tế là cây lúa và nghề trồng lúa đã có từ rất lâu từ vùng này, lịch sử và đời sống
của các dân tộc Đông Nam Á lại gắn liền với lúa gạo đã chứng minh nguồn gốc của
cây lúa.
Về lịch sử ngành trồng lúa theo Oka(1988) trong quyển “Nguồn gốc lúa trồng”
cho rằng việc thuần hóa cây lương thực đã được khởi sự gần 10.000 năm nay. Riêng cây
lúa, Candolle(1982) cho rằng việc thuần hóa cây lúa trồng xãy ra ở Trung Quốc, mặc dù
không bác bỏ nguồn gốc của lúa ở Ấn Độ do có nhiều lúa hoang hiện diện ở đây.
1.1.3. Giá trị kinh tế của lúa gạo
SVTH: Lý Kiều Tiên
6
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
1.1.3.1. Giá trị dinh dưỡng
Gạo là thức ăn giàu dinh dưỡng. So với lúa mì, gạo có thành phần tinh bột và
protein hơi thấp hơn, nhưng năng lượng tạo ra cao hơn do chứa nhiều chất béo hơn.
Ngoài ra, nếu tính trên đơn vị 1 hecta, gạo cung cấp nhiều calo hơn lúa mì do năng
suất cao hơn nhiều so với lúa mì.
Giả sử một người trung bình cần 3200 calo mỗi ngày thì một hecta lúa có thể
nuôi 2055 người/ngày hoặc 5,63 người/năm. Trong gạo có nhiều acid amin thiết yếu
như Lysine, Threonine, Methionine, Tryptophan,
Trong hạt gạo hàm lượng dinh dưỡng tập trung ở các lớp ngoài và giảm dần vào
trung tâm. Phần bên trong nội nhũ chỉ chứa chủ yếu là chất đường bột. Cám hay lớp vỏ
ngoài của hạt gạo chiếm khoảng 10% trọng lượng khô là thành phần rất bổ dưỡng của lúa,

chứa nhiều protien, chất béo, khoáng chất và vitamin đặc biệt là các vitamin nhóm B.
Tấm gồm có mầm hạt lúa bị tách ra khi xay chà, cũng là thành phần rất bổ
dưỡng, chứa nhiều protein, chất béo, đường, khoáng chất và vitamin.
1.1.3.2. Giá trị sử dụng
Ngoài cơm ra, gạo còn dùng để chế biến nhiều loại bánh, làm môi trường để
nuôi cấy niêm khuẩn, men, cơm mẻ, Gạo còn dùng để cất rượu cồn, Người ta
không thể nào kể hết công dụng của nó.
Cám hay đúng hơn là các lớp vỏ ngoài của hạt do chứa nhiều protein, chất béo,
chất khoáng, vitamin, nhất là vitamin nhóm B, nên được dùng làm bột dinh dưỡng trẻ
em và điều trị người bị bệnh phù thũng. Cám là thành phần cơ bản trong thức ăn gia
súc, gia cầm và trích lấy dầu ăn,
Trấu ngoài công dụng làm chất đốt, chất độn chuồng còn dùng làm ván ép, vật
liệu cách nhiệt, cách âm, chế tạo carbon và silic,
1.1.3.3. Giá trị thương mại
Theo thống kê trên thế giới cây lúa được 250 triệu nông dân trồng, lúa là cây
lương thực chính của 1.3 tỷ người nghèo nhất trên thế giới và là sinh kế chủ yếu của
nông dân.
Trên thị trường thế giới, gái gạo xuất khẩu tính trên đơn vị trọng lượng cao hơn
SVTH: Lý Kiều Tiên
7
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
rất nhiều so với các loại hạt cốc khác. Nói chung, giá gạo xuất khẩu cao hơn gạo lúa
mì từ 2 -3 lần và hơn bắp hạt từ 2-4 lần.
Việt Nam là một nước nông nghiệp và sản xuất lúa chiếm vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân đóng góp một phần lớn vào tăng trưởng kinh tế của đất
nước. Với hơn 86 triệu người và 100% người Việt Nam đều sử dụng gạo làm lương
thực chính. Cả sản phẩm chính và sản phẩm phụ của cây lúa đều góp phần quan trọng
trong đời sống của người dân đặc biệt là người dân ở nông thôn.
Trong những năm qua lúa gạo đã và đang góp phần vào thắng lợi của quá trình

công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước, với vị thế là nước đứng thứ 2 về xuất khẩu
gạo đã mang về một lượng lớn ngoại tệ.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
1.1.4.1. Các nhân tố kỹ thuật
• Giống: Là một nhân tố quan trọng, quyết định năng suất cũng như chất
lượng sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp nói chung và trong sản xuất lúa nói riêng.
Cuộc cách mạng xanh là một minh chứng cụ thể của việc áp dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, nhất là công nghệ về giống, cho năng suất và chất lượng cao
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Đối với sản xuất lúa giống
giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng năng suất cũng như hiệu quả của
quá trình sản xuất. Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ
nhất là công nghệ sinh học thì người ta đã lai tạo và chọn lọc được nhiều giống lúa
mới cho năng suất và chất lượng cao có khả năng thích ứng cao khả năng chống chịu
với sâu bệnh tốt.
• Kỹ thuật gieo cấy: Ở Việt Nam, từ xa xưa nhân dân đã sử dụng 2 phương pháp
gieo trồng đó là sạ và cấy. Tùy vào điều kiện tự nhiên của từng vùng, từng vụ cũng như
giống sử dụng mà chọn cách gieo trồng mang lại hiệu quả cao nhất. Tùy cách gieo cấy mà
có những quy trình kỹ thuật cần phải tuân thủ để nâng cao năng suất.
+) Cấy: Đây là biện pháp gieo trồng được áp dụng phổ biến ở khu vực phía Bắc
của nước ta, người ta tiến hành cấy mạ non chứ không tiến hành sạ mộng. Đây là biện
pháp phù hợp với các chân ruộng sâu bị ngập nước. Đối với biện pháp này nếu được
chăm sóc đúng kỹ thuật thì cây lúa sẽ sinh trưởng rất nhanh và mạnh và vì có những
khoảng cách nhất định khi cấy nên khi trỗ bông lúa thường rất dài và hạt chắc nên
SVTH: Lý Kiều Tiên
8
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
năng suất lúa cũng khá cao.
+) Sạ: Trước khi sạ người ta tiến hành ngâm và ủ giống qua một thời gian khi hạt
lúa bắt đầu ra rễ khoảng 2-3cm thì tiến hành gieo xuống đất. Ưu điểm của phương pháp này

là tiến hành trong thời gian ngắn tốn ít công lao động cho công tác gieo trồng.
• Phân bón: Phân bón là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất
lúa. Việc sử dụng phân bón hợp lý, đúng liều lượng, đúng quy trình và cân đối các yếu
tố thì không những sẽ tạo điều kiện cho cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt cho năng
suất cao bên cạnh đó sẽ góp phần tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất. Ngược
lại nếu bón quá ít hoặc quá nhiều thì năng suất thấp, chi phí cao, hư hại đất đai, hiệu
quả sản xuất thấp. Phân bón sử dụng cho sản xuất lúa bao gồm phân chuồng, phân
đạm, phân kali, phân lân, phân NPK và hiện nay ở một số vùng người ta còn sử dụng
thêm phân vi sinh. Thông thường nông dân thường bón 3 lần trong suốt quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây lúa đó là bón lót, bón thúc lần 1 và bòn thúc lần 2. Trong
bón lót thường được tiến hành ngay khi làm đất xong trước khi gieo sạ, trong lần bón
này nông dân chủ yếu bón phân chuồng và NPK, tác dụng của lần bón này là để cung
cấp dinh dưỡng cho đất để khi cây lúa bén rễ sẽ có dinh dưỡng ngay cho cây sinh
trưởng. Bón thúc lần 1 tiến hành khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh, lần bón này có tác dụng
giúp cây lúa đẻ nhánh nhanh và khỏe, phân đạm và phân lân thường được sử dụng
trong lần bón này. Bón thúc lần 2 đây là lần bón có ảnh hưởng quyết định đến năng
suất và kết quả của quá trình sản xuất, lần bón này nhằm kích thích cây lúa ra đòng,
urê và kali là 2 loại phân được sử dụng cho lần bón phân cuối cùng này. Trong quá
trình bón cần phải tuân thủ những biện pháp kỹ thuật về lượng bón cũng như thời điểm
phù hợp với từng giống lúa, để đem lại hiệu quả cao nhất.
Có 2 cách bón phân cho cây lúa: bón vào đất và phun lên lá
Loại phân bón vào đất đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho cây lúa trong suốt thời
gian sinh trưởng và phát triển. Phân bón vào đất thường ở dạng thô, phân chuồng, phân
xanh, phân vi sinh hay ở dạng bột, phân đạm, phân lân, phân kali hay bón ở dạng viên.
Loại phân phun lên lá: Thông thường là những loại phân đa lượng dễ tan hay
phân vi lượng hoặc một số hóa chất kích thích. Phun lên lá có đặc điểm là cây lúa
SVTH: Lý Kiều Tiên
9
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân

nhanh hấp thu và là biện pháp kỹ thuật rất hữu hiệu trong điều kiện đất đai và bộ rễ
cây lúa hư hại, kém phát triển hoặc cần bổ sung dinh dưỡng nhanh cho cây lúa phát
triển kịp thời. Mặt khác thì phân bón qua lá có thể kết hợp phun cùng thuốc bảo vệ
thực vật giúp giảm công lao động trong quá trình sản xuất.
• Nước
Ông cha ta thường nói “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”, điều đó cho
thấy nước là yếu tố quan trọng trong sản xuất lúa nếu thiếu nước thì cây lúa sẽ không sinh
trưởng và phát triển bình thường . Lúa là loại cây trồng cần lượng nước nhiều và lúa cũng
cần ngâm chân trong nước, do vậy lượng cần cung cấp cho cây lúa là từ 6-7mm/ngày vào
mùa mưa và 8-9mm/ngày vào mùa khô. Trong một tháng lúa cần 200mm nước, thiếu hay
thừa nước đều không tốt làm cho năng suất cây lúa kém đi. Công tác thủy nông cần phải
được quan tâm đúng mức, phải xây dựng mới hoặc cải tạo và nâng cấp hệ thống kênh
mương nội đồng, chủ động trong công tác tưới tiêu nhất là vào những thời điểm hạn hán
hoặc lũ lụt.
• Các loại sâu, dịch bệnh, chuột hại và công tác BVTV
Việt Nam là một quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều
nên rất thuận lợi cho các loại sâu bệnh trên cây trồng phát triển, đặc biệt trong sản xuất
lúa. Chính vì thế người trồng lúa luôn phải đối mặt với việc phát sinh của các loại sâu
bệnh và dịch hại, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của lúa. Mặc dù hàng năm nhà nước
cùng với chính quyền địa phương các cấp và nhân dân đã có nhiều nỗ lực trong công
tác phòng ngừa và tiêu diệt các loại sâu bệnh nhưng vẫn có rất nhiều cánh đồng rơi
vào tình trạng mất trắng do sự tàn phá quá mạnh của nhiều loại sâu bệnh ký sinh và
phà hoại như rầu nâu, sâu đục thân, sâu cuốn là, bọ xít, và các dịch bệnh như bệnh
đạo ôn(lá và cổ bông), bệnh khô vằn, bệnh bạc lá. Bên cạnh đó vấn đề chuột hại cũng
là một vấn đề đau đầu của nhà nông cũng như các nhà quản lý nông nghiệp. Vì vậy
trong thời gian tới cần triển khai một cách sâu rộng các biện pháp phòng ngừa và tiêu
diệt các nhân tố ảnh hưởng xấu đến quá trình sản xuất nói trên để có thể giữ vững và
làm tăng năng suất lúa trong những năm tới. Bên cạnh đó thì công tác BVTV cũng cần
được sự quan tâm đúng mức hơn.
SVTH: Lý Kiều Tiên

10
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
• Công tác thu hoạch và chế biến
Đây là khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất lúa, thời điểm thu hoạch ảnh
hưởng lớn đến năng suất và sản lượng, nếu thu hoạch sớm khi hạt lúa chưa chín hết
làm tăng tỷ lệ hạt non, hạt lép ngược lại nếu thu hoạch khi hạt lúa quá chín làm hạt dễ
bị rơi rụng trong công tác vận chuyển thu hoạch.
Ngoài ra, trong công tác thu hoạch cần chọn thời điểm nắng nhiều để thuận tiện
cho công tác phơi trách thất thoát do thời tiết.
1.1.4.2. Các yếu tố kinh tế - xã hội
 Thị trường tiêu thụ: Bất kỳ một hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hóa dịch
vụ nào cũng chịu sự tác động qua lại của cung cầu trên thị trường. Sự thay đổi của
cung cầu thi trường dịch vụ hàng hóa sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cơ chế hình thành giá
từ đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hàng hóa dịch vụ đó. Trên thị
trường lúa gạo cũng vậy một thị trường lúa gạo được ổn định, giá cả được giữ ở mức
cao sẽ khuyến khích người dân tham gia sản xuất, đầu tư thâm canh để đem lại hiệu
quả cao và ngược lại.
 Chính sách của nhà nước: Các chính sách thể chế cũng có ảnh hưởng lớn
đến quá trình sản xuất của người dân. Một chính sách thông thoáng trong việc vay
vốn, tiếp cận khoa học kỹ thuật sẽ làm cho người dân mạnh dạn hơn trong việc đầu tư
đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất nâng cao hiệu suất lao động,
mở rộng diện tích.
 Tập quán canh tác: Nhìn chung tập quán canh tác sản xuất lúa của người dân
ta lâu nay vẫn còn mang tính lạc hậu chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của ông cha từ xa
xưa để lại ít áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, làm cho sản xuất vẫn chưa bắt kịp
với xu thế chung của thế giới.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Việt Nam nằm ở phía Đông của bán đảo Đông Dương với tổng chiều dài là

1650km, phía Đông giáp biển, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và
Campuchia. Với địa bàn trải dài trên 15 vĩ độ bắc bán cầu, từ Bắc vào Nam đã hình
thành những đồng bằng châu thổ trồng lúa phì nhiêu. Với tổng diện tích tự nhiên là
SVTH: Lý Kiều Tiên
11
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
32.924,061ha, trong đó 20-25% đất đai được sử dụng vào mục đích sản xuất nông
nghiệp. Tuy diện tích đất nông nghiệp không nhiều, song trên một nửa là dùng cho sản
xuất lúa. Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm rất thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng. Việt Nam cũng được xem như là cái nôi
của nền văn minh lúa nước, đã từ lâu cây lúa được xem là cây lương thực chủ yếu có ý
nghĩa quan trọng đối với đời sống của người dân và nền kinh tế xã hội.
Xuất phát điểm của Việt nam là một nước nông nghiệp, cây lúa là cây trồng
chính và lâu đời, được phân bố khắp mọi miền của đất nước từ Bắc vào Nam, là một
trong những nước có điều kiện khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa. Hơn
70% dân số Việt nam sống bằng nghề trồng lúa, nhân dân ta rất cần cù, sáng tạo và
giàu kinh nghiệm trong nghề trồng lúa nước, được kế thừa những kinh nghiệm của cha
ông và đúc rút nhiều thành công trong công tác chăm sóc và gieo trồng.
Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của Việt Nam từ 2007- 2011
Diện tích lúa nghìn ha 7192,50 7422,20 7437,20 7489,40 7651,40
Năng suất tạ/ha 49,90 52,30 52,40 53,40 55,30
Sản lượng nghìn tấn 35.890,60 38.818,10 38.970,90 39.993,40 42.312,20
( Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2012)
Qua bảng số liệu thực tế, ta thấy rằng diện tích lúa tăng lên trong năm năm qua
từ 7192,50 nghìn ha lên 7651,40 nghìn ha. Năng suất và sản lượng cũng không ngừng
tăng lên cụ thể năng suất năm 2007 là 49,90 tạ/ha tăng lên 55,30 tạ/ha năm 2011, sản
lượng tăng từ 35.890,60 nghìn tấn năm 2007 lên 42.312,20 nghìn tấn năm 2011.
Nguyên nhân một phần do áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất cũng như áp dụng
các giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao trên diện rộng, đây là điều đáng mừng

cho nông nghiệp, nông dân Việt Nam.
SVTH: Lý Kiều Tiên
12
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
1.2.2. Tình hình sản xuất lúa ở tỉnh Quảng Trị
Trong năm năm qua tình hình sản xuất lúa ở tỉnh Quảng Trị có nhiều biến động.
Đến nay, ở Quảng Trị có hàng năm ha cách đồng với các loại cây trồng, vật nuôi xen
lẫn nhau cho thu nhập từ 60 triệu đồng/ha/năm trở lên.
Mặc dù giá trị mang lại so với một số địa phương khác trong cả nước chưa cao,
nhưng đối với một vùng đất thường xuyên xảy ra lũ lụt, hạn hán như Quảng Trị, thì
đây là nỗ lực lớn của nông dân, sự chỉ đạo điều hành của các ngành, các cấp tìm tòi
mô hình sản xuất hợp lý để tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích.
Mặc dù năm nào trên địa bàn cũng có rét đậm, rét hại và hạn hán, nhưng nhờ có
các giải pháp chỉ đạo kịp thời, đồng bộ của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn và các địa phương đã cung cấp giống lúa ngắn ngày, chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
kỹ thuật rút ngắn khung thời vụ, sử dụng mạ khay(mạ ném) và bằng kinh nghiệm trồng
lúa, người nông dân đã biết lách thời vụ tránh hậu quả thiên tai nên đã khắc phục được
khó khăn về thời tiết để ruộng lúa cho năng suất cao.
Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp, nhiều
địa phương ở Quảng Trị đã có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, quy hoạch phát triển
sản xuất cho từng vùng, miền; đưa ra những công thức cụ thể để chuyển giao công
nghệ, tập huấn cho nông dân xây dựng mô hình, thành lập trang trại, cải tạo đồng
ruộng và tổ chức các dịch vụ khuyến nông nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế
cao, tạo ra những cánh đồng có quy mô sản xuất tập trung, chuyên canh, có khối lượng
hàng hóa lớn, chất lượng cao, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, các
địa phương còn tạo điều kiện cho các hộ gia đình vay vốn ưu đãi thực hiện và tổ chức
hội thảo nhân rộng mô hình có hiệu quả phù hợp vùng, miền.
Tỉnh Quảng Trị đang chỉ đạo các địa phương nhân thêm những cánh đồng
"vàng", với các mô hình sao cho phù hợp đất đai của từng vùng: gò đồi miền núi, đồng

bằng và cát ven biển. Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tuyển chọn giống
cây trồng, vật nuôi thích hợp, cho giá trị kinh tế cao để cung cấp cho các địa phương
và hộ gia đình.
Hướng dẫn người dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
tiên tiến để nhân rộng các mô hình sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, khai thác có hiệu
SVTH: Lý Kiều Tiên
13
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
quả lợi thế về đất đai, nguồn tài nguyên, huy động các nguồn lực phát triển sản xuất.
Cải tạo môi trường sinh thái cùng với cải tạo đất, tạo ra cánh đồng có quy mô tập
trung, chuyên canh nhằm nâng cao hiệu suất đầu tư sản xuất theo hướng hội nhập, tăng
thu nhập, ổn định đời sống.
Chủ trương "dồn điền đổi thửa" đã tập trung được ruộng đất, mở rộng quy mô
sản xuất cho các hộ gia đình, tạo điều kiện để thâm canh và cơ giới hóa, quy hoạch
vùng phát triển nông nghiệp theo công thức cho từng mô hình mang lại hiệu quả kinh
tế cao.
Tuy vậy, trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nhân rộng các
mô hình sản xuất nông nghiệp có giá trị kinh tế phải xuất phát từ nhu cầu thực tế, nhu
cầu phát triển hàng hoá của thị trường, không tiến hành nhân rộng mô hình một cách
manh mún, máy móc, tùy tiện. Có cơ chế hỗ trợ cho nông dân thực hiện chuyển đổi,
lấy hiệu quả sản xuất trên một đơn vị diện tích gieo trồng và chăn nuôi làm thước đo
cho việc chuyển đổi.
Gắn phát triển sản xuất với việc hình thành các vùng nguyên liệu có năng suất,
chất lượng cao cung cấp cho các nhà máy, cơ sở chế biến trên địa bàn tỉnh. Xây dựng
thương hiệu đối với các sản phẩm có lợi thế, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, bởi đó
chính là động lực để người nông dân yên tâm sản xuất, làm giàu trên đồng đất quê hương.
Bảng 2. Tình hình sản xuất lúa tỉnh Quảng Trị từ năm 2007 - 2011
Chỉ tiêu ĐVT 2007 2008 2009 2010 2011
Diện tích Nghìn ha 47,1 48,1 48,1 48 48,5

Năng suất Tạ/ha 46,1 46,3 44,3 45 48,6
Sản lượng Nghìn tấn 217,1 222,7 213,1 216 235,7
(Nguồn: Niêm giám thống kê, năm 2012)
Vùng lúa Triệu Phong, Hải Lăng thường ở trong tình trạng chưa mưa đã ngập,
chưa nắng đã hạn, nên làm được hạt lúa trên đồng này, người nông dân đã rất cực nhọc
gấp nhiều lần những nơi khác mà xác suất mất mùa, giá thấp là thường xuyên. Mặc dù
luôn ở trong tình thế bất lợi do thiên tai tác động, có khi liên tục trong cả hai vụ chính,
nhưng nghề trồng lúa ở Quảng Trị vẫn đứng vững, sản lượng lúa có biến động nhưng
nhìn chung tăng từ năm 2008 đến 2011, sản lượng lúa đạt 235,7 nghìn tấn năm 2011
tăng 8 %(18,6 nghìn tấn) so với năm 2008.
SVTH: Lý Kiều Tiên
14
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
1.2.3. Tình hình sản xuất lúa ở huyện Hải Lăng
Bảng 3. Tình hình sản xuất lúa tại huyện Hải Lăng năm 2009 - 2011
Mùa vụ Chỉ tiêu ĐVT Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
Đông Xuân
Diện tích Ha 6.504 6.641 6.655
Năng suất Tạ/ha 53,71 55,09 57,43
Sản lượng Tấn 34.933 36.585 38.220
Hè Thu
Diện tích Ha 6.390 6.440 6.507
Năng suất Tạ/ha 36,5 46,51 56,4
Sản lượng Tấn 23.323 29.952 36.699
Cả năm
Diện tích Ha 12.894 13.081 13.162
Năng suất Tạ/ha 45,18 50,87 56,92
Sản lượng Tấn 58.255 66.543 74.918
(Nguồn: Niên giám thống kê Huyện Hải Lăng năm 2011)

Qua bảng 3 cho thấy huyện Hải Lăng có khả năng gieo cấy được 2 vụ là vụ
Đông Xuân và Hè Thu.
Diện tích lúa của huyện qua 3 năm 2009-2011 đều tăng năm 2009 là 12.894 ha
đến năm 2011 là 13.162 ha, tăng lên 2% so với năm 2009.
Năng suất lúa của hai vụ từ năm 2009-2011 cũng có chiều hướng tăng. Về sản
lượng năm 2009 là 58.255 tấn đến năm 2011 tăng lên 74.918 tấn, tăng lên đến 28,6%
so với năm 2009.
Có được như vậy là do sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp uỷ đảng, chính
quyền và các đoàn thể, nhân dân trong huyện. Đồng thời cũng đã chuyển dịch cơ cấu
cây trồng hợp lý, các giống lúa mới có năng xuất cao được lựa chọn và đưa vào sản
xuất đại trà, đưa năng xuất và sản lượng lúa của huyện đạt ở mức khá cao. Bên cạnh
đó huyện đã làm tốt công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật cho bà con nông dân về
sản xuất lúa, qua đó người dân đã biết áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất,
mang lại những kết quả đáng kể trong sản xuất nông nghiệp của huyện.
CHƯƠNG 2: HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA Ở XÃ HẢI THÀNH,
HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1. Đặc điểm chung của địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
SVTH: Lý Kiều Tiên
15
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
Xã Hải Thành có tổng diện tích đất tự nhiên 589,63 ha, gồm 3 thôn, cách trung
tâm huyện 8 km về phía Đông - Nam. Trên địa bàn có các tuyến đường bộ đi qua:
Đường tránh lũ, cứu hộ, cứu nạn và phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng
vùng ven biển phía Nam tỉnh Quảng Trị, đường Thiện-Thành-Dương, Đường Hải Quế-
Hải Thành và tuyến Hải Thành-Hải Tân. Các tuyến đường thủy: Hải Thành theo kênh
Mai Lĩnh đi Hải Tân, Hải Chánh, Hải Sơn, Hải Dương và đi một số xã của huyện
Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên Huế.

Địa giới hành chính của xã:
- Phía Bắc giáp xã Hải Quế.
- Phía Nam giáp xã Hải Hòa, Hải Tân.
- Phía Đông giáp xã Hải Dương.
- Phía Tây và Tây Bắc giáp xã Hải Thọ và Hải Thiện.
Hải Thành là một xã được phù sa bồi đắp hàng năm, khá thuận lợi cho việc phát
triển nông nghiệp chuyên canh về lúa nước và trồng cây ngắn ngày. Là xã thuần nông, việc
phát triển kinh tế thương mại và dịch vụ còn gặp nhiều hạn chế. Mặt khác xã nằm tương đối
xa huyện lỵ và quốc lộ 1A do vậy việc giao lưu hàng hóa còn gặp nhiều khó khăn.
2.1.1.2. Địa hình và thổ nhưỡng
Hải Thành là xã thuộc vùng đồng bằng thấp trũng của huyện Hải Lăng, vào
mùa mưa lũ thường xuyên ngập lụt, các khu dân cư bị chia cắt. Thời gian xuất hiện
vào trung tuần tháng 9 đến tháng 11 hàng năm. Diện tích ngập lụt bình quân từ 1,5-2m
chiếm khoảng 30% địa bàn của xã; diện tích ngập lụt từ 0,5-1,5m chiếm khoảng 30%.
Đặc biệt có 5% diện tích tự nhiên của xã thấp hơn mặt nước biển khoảng 0,8m.
Trên địa bàn xã có hệ thống kênh mương của công trình thủy lợi Nam Thạch
Hãn và kênh Mai Lĩnh chảy qua.
Đặc điểm thổ nhưỡng, gồm các nhóm đất:
- Nhóm đất phù sa được bồi đắp bởi sông ngòi
- Nhóm đất phù sa không được bồi đắp
- Nhóm đất phù sa có tầng loang lỗ đỏ vàng và đỏ vàng biến đổi do trồng luá nước
- Nhóm đất phù sa Glay
SVTH: Lý Kiều Tiên
16
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
- Nhóm đất than bùn
- Nhóm đất xám bạc màu, đất nâu vàng trên phù sa cổ
- Nhóm đất nâu tím trên đá sét tím, đất đỏ vàng trên đá biến chất và đất sét
2.1.1.3. Khí hậu, thủy văn

+ Khí hậu:
Mang đặc điểm khí hậu chung của vùng Bắc Trung bộ, một năm có 4 mùa,
trong đó: Có 2 mùa chính là mùa Hạ và mùa Đông;
- Mùa Hạ xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 9 hằng năm với thời tiết nắng nóng, nền
nhiệt cao từ 35-37
o
c, có khi lên đến 42
o
c kèm theo gói Tây Nam khô nóng thổi mạnh.
- Mùa Đông xuất hiện từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau: Với thời tiết ẩm ướt,
nhiệt độ thấp từ 16-20
o
C; có năm xuất hiện rét đậm và rét hại với nền nhiệt dưới 13
o
C.
- Mùa Thu và mùa Xuân là 02 tiểu thời tiết xuất hiện giữa mùa Hạ và mùa
Đông, thời gian xảy ra ngắn. Mùa Thu xuất hiện vào trung tuần tháng 8-9; mùa Xuân
vào trung tuần tháng 12 đến tháng 1 năm sau với tiết trời mát mẽ, trong lành; nền nhiệt
vừa phải thuận lợi cho cây cối, hoa màu sinh trưởng.
Nhiệt độ trung bình trong năm ở vào khoảng 24
0
C, nhiệt độ trong tháng cao
nhất khoảng 35-36
0
C có khi lên tới 39 - 40
0
C. Lượng mưa trung bình hàng năm 2500 -
2799 mm.
Mưa lũ xuất hiện với với các hiện tượng chủ yếu là lũ Tiểu mãn, lũ sớm, lũ
chính vụ và lũ muộn.

Lũ Tiểu mãn vào trung tuần tháng 4 hằng năm; lũ xuất hiện nhanh nhưng xảy ra
với thời gian ngắn.
Lũ sớm xuất hiện vào trung tuần tháng 7 -8, lũ chính vụ vào tháng 9-10 hằng
năm và lũ muộn xảy ra sau tháng 10.
Nhìn chung, khi mưa lũ xuất hiện, địa bàn của xã thường xảy ra ngập lụt, gây
thiệt hại lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân.
+ Thuỷ văn:
- Sông Cựu Vĩnh Định với chiều dài 15km, với lưu vực dòng chảy khá lớn. Chế
độ dòng chảy, mùa hạ thường khô hạn, mùa mưa thì gây ngập lụt. Hiện nay đoạn chảy
SVTH: Lý Kiều Tiên
17
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phạm Thị Thanh Xuân
qua địa phận xã Hải Thành đang bị bồi lấp khá nặng cần được nạo vét để tăng lưu
lượng dòng chảy và hạn chế ô nhiễm môi trường.
- Sông Ô Giang: Chiều dài khoảng 3km, nối kênh Mai Lĩnh với sông Cựu Vĩnh
Định. Lưu vực dòng chảy rất nhỏ và hiện nay đang bị bồi lấp nghiêm trọng, chỉ cung
cấp nước tưới nội đồng.
- Kênh Mai Lĩnh: Chiều dài khoảng 12km, chảy theo hướng Tây – Đông, có lưu
vực dòng chảy lớn, cung cấp một lượng lớn nước tưới và thoát lũ cho vùng thượng
lưu. Lưu lượng dòng chảy lớn, hàng năm thường xảy ra sạt lỡ bờ sông. Kênh Mai Lĩnh
cung cấp một lượng lớn phù sa bồi đắp cho đồng ruộng các xã trong vùng.
2.1.1.4. Tài nguyên
- Đất đai
Tổng diện tích đất của xã Hải Thành 589,63 ha, trong đó diện tích đất nông
nghiệp 461,31 ha, đất phi nông nghiệp 113,55 ha. Phần lớn đã được khai thác, sử
dụng, chỉ còn 14,77 ha là chưa sử dụng thuộc bãi bồi ven sông.
- Tài nguyên nước
+ Nguồn nước mặt:
Chủ yếu được cung cấp bởi các con sông: Ô Giang, sông Cựu Vĩnh Định, kênh

Mai Lĩnh, cùng với mạng lưới kênh mương chạy theo địa bàn các vùng sản xuất và
khu dân cư. Hàng năm, tổng lưu lượng dòng chảy lên tới hàng trăm ngàn m
3
nước kết
hợp với lượng mưa hàng năm khá lớn Nhìn chung, nguồn nước mặt cơ bản đáp ứng
đủ nhu cầu về nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp.
+ Nguồn nước ngầm:
Theo Báo cáo quy hoạch quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước
dưới đất miền đồng bằng tỉnh Quảng Trị, xã Hải Thành nằm trong tiểu vùng V.3 có
mô đun dòng chảy ngầm trung bình năm 1,65l/s.km2, có chất lượng đảm bảo phục vụ
cho sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên, chất lượng nước phần lớn bị nhiễm phèn cao,
không đảm bảo phục vụ sản xuất, sinh hoạt trực tiếp mà phải quan xử lý. Trong nhiều
thập kỷ qua, đây vẫn là nguồn cung cấp nước chính sử dụng trong sinh hoạt và sản
xuất của nhân dân, vì vậy trong những năm đến cần có biện pháp nâng cao chất lượng
nước sử dụng.
SVTH: Lý Kiều Tiên
18

×