Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Nghiên cứu giải pháp đắp đê bằng vật liệu địa phương và đắp đê trên nền đất yếu từ quảng ninh đến quảng nam tổng hợp các báo cáo khoa học tập 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 132 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN KHOA HỌC THỦY LỢI
_______o0o_______



Tên đề tài: Nghiên cứu giải pháp để đắp đê bằng vật liệu địa phương và
đắp đê trên nền đất yếu từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
Thuộc Chương trình: Nghiên cứu KHCN phục vụ xây dựng đê biển và
công trình thuỷ lợi vùng cửa sông ven biển
Tên cơ quan chủ trì đề tài:
Viện Khoa học Thuỷ lợi
Địa chỉ: 171- Tây sơn - Đống Đa – Hà nội
Chủ nhiệm đề tài:
Họ và tên: PGS.TS Nguyễn Quốc Dũng
Địa chỉ: Trung tâm Thuỷ công; số 3 Ngõ 95, Chùa Bộc, Hà nội

TẬP II
TỔNG HỢP CÁC BÁO CÁO KHOA HỌC
1. TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ;
2. TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP ĐẮP ĐÊ TRÊN NỀN ĐẤT YẾU;
3. GIẢI PHÁP THI CÔNG ĐÊ BIỂN VẬT LIỆU ĐỊA PHƯƠNG;
4. LỰA CHỌN VÀ ĐỀ CƯƠNG HOÀN THIỆN CÁC PHƯƠNG PHÁP
THIẾT KẾ VÀ THI CÔNG HIỆN CÓ.






7579-30


22/12/2009



Hà nội, tháng 01 năm 2008
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN KHOA HỌC THỦY LỢI
_______o0o_______


Tên đề tài: Nghiên cứu giải pháp để đắp đê bằng vật liệu địa phương và
đắp đê trên nền đất yếu từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
Thuộc Chương trình: Nghiên cứu KHCN phục vụ xây dựng đê biển và
công trình thuỷ lợi vùng cửa sông ven biển

TẬP II
TỔNG HỢP CÁC BÁO CÁO KHOA HỌC
1. TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ ĐÊ;
2. TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP ĐẮP ĐÊ TRÊN NỀN ĐẤT YẾU;
3. GIẢI PHÁP THI CÔNG ĐÊ BIỂN VẬT LIỆU ĐỊA PHƯƠNG;
4. LỰA CHỌN VÀ ĐỀ CƯƠNG HOÀN THIỆN CÁC PHƯƠNG PHÁP
THIẾT KẾ VÀ THI CÔNG HIỆN CÓ.

ĐƠN VỊ THỰC HIỆN
VIỆN KHOA HỌC THỦY LỢI
Viện trưởng






Chủ nhiệm đề tài: PGS. TS Nguyễn Quốc Dũng
Thực hiện chính: ThS. Khổng Trung Duân
KS. Nguyễn Hồng Điệp
ThS. Đỗ Thế Quynh
ThS. Phùng Vĩnh An

Hà nội, tháng 01 năm 2008
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
1
Mục lục
MụC LụC 1
CHƯƠNG I 3
TỔNG QUAN CHUNG HỆ THỐNG ĐÊ BIỂN TỪ QUẢN NINH ĐẾN QUẢNG NAM 3
1.1 TÌNH HÌNH CHUNG 3
1.2. ĐÊ BIỂN VIỆT NAM - QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN 4
1.3. HIỆN TRẠNG ĐÊ BIỂN CÁC TỈNH TỪ QUẢN NINH ĐẾN QUẢNG NAM 6
1.3.1. Đặc điểm chung của đê biển 6
1.3.2. Hiện trạng đê biển các tỉnh trước khi thực hiện kế hoạch củng cố, nâng cấp theo Quyết định
số 58/2006/QĐ-TTg ngày 14/3/2006 13

1.3.3. Thực hiện chương trình củng cố, nâng cấp đê biển theo Quyết định số 58/2006/QĐ-TTg ngày
13/4/2006 17

1.4. CƠ CHẾ PHÁ HUỶ ĐÊ BIỂN (QUA CÁC CƠN BÃO NĂM 2005) VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦNG CỐ, NÂNG
CẤP ĐÊ BIỂN GIAI ĐOẠN 2006 ĐẾN 2010 18
1.4.1. Cơ chế phá huỷ đê biển 18
1.4.2. Định hướng củng cố, nâng cấp đê biển 19
1.5. CÁC GIẢI PHÁP CỦNG CỐ, NÂNG CẤP ĐÊ BIỂN 22

1.5.1. Giải pháp về tuyến (tuyến đê hiện có) 22
1.5.2. Giải pháp công trình 22
1.4.3. Giải pháp phi công trình 23
CHƯƠNG II 25
TỔNG QUAN CÁC PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ ĐÊ BIỂN BẰNG VẬT LIỆU ĐỊA PHƯƠNG (ÁP
DụNG CHO ĐÊ NÂNG CấP) 25

2.1. TỔNG QUAN VIỆC ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN THIẾT KẾ ĐÊ 14 TCN 130-2002 25
2.2. NÂNG CAO TRÌNH ĐỈNH ĐÊ 26
2.2.1. Xây tường chắn sóng 26
2.2.2. Đắp tôn cao đê 30
2.3. MỞ RỘNG VÀ HOÀN CHỈNH MẶT CẮT ĐÊ 33
2.3.1. Phương pháp đắp gia tải dần 33
2.3.2. Phương pháp đắp có xử lý nền: xơ dừa, cọc tràm 37
2.4. ĐÊ CÓ KẾT HỢP ĐƯỜNG GIAO THÔNG 39
2.4.1. Gia cố mặt đê 39
2.4.2. Xử lý thân kết hợp gia cố mặt đê 40
2.4.3. Quy trình tính toán đê có kết hợp đường giao thông 40
CHƯƠNG III 42
TỔNG QUAN ĐẮP ĐÊ TRÊN NỀN ĐẤT YẾU (ÁP DụNG CHO ĐÊ XÂY MớI) 42
3.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG ĐÊ BIỂN TRÊN NỀN ĐẤT
YẾU 42
3.2. GIẢI PHÁP TUYẾN ĐÊ BIỂN 44
3.2.1. Cơ sở chọn tuyến 44
3.2.2. Yêu cầu về vị trí tuyến 45
3.2.3. Yêu cầu về hình dạng tuyến 45
3.2.4. Tuyến đê quai lấn biển 45
3.2.5. Tuyến đê vùng bãi biển xói 45
3.2.6. Tuyến đê vùng cửa sông 46
3.3. QUY TRÌNH THIẾT KẾ MẶT CẮT ĐÊ BIỂN 46

3.3.1. Chỉ dẫn chung 46
3.3.2. Xác định cao trình đỉnh đê 46
3.3.3. Mặt cắt và kết cấu các bộ phận 50
3.4. GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỀN 52
3.4.1. Thay thế một phần lớp đất nền bằng lớp đất tốt hơn 52
3.4.2. Bệ phản áp - cơ đê 54
3.4.3. Cọc cát 56
3.4.4. Phụt vữa xi măng hoặc xi măng đất sét 58
3.4.5. Khống chế tốc độ thi công 59
3.4.6. Gia cố nền bằng lớp xơ dừa hoặc mảng cừ tràm 61
3.4.7. Gia cố nền bằng cọc tràm (cọc tre) 66
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
2
3.4.8. Gia cố nền bằng cọc xi măng - đất 73

3.4.9. Xử lý nền bằng vải địa kỹ thuật 82
3.4.10. Gia cố nền bằng cọc cát - xi măng - vôi 84
3.5. GIẢI PHÁP XỬ LÝ ĐẤT KHỐI ĐẮP 88
3.5.1. Đất đắp vận chuyển từ nơi khác đến 88
3.5.2. Vật liệu tại chỗ 89
3.5.3. Khối đắp pha trộn - chế bị 90
3.6. LỰA CHỌN VÀ TÍNH TOÁN MỘT SỐ KẾT CẤU BẢO VỆ MÁI ĐÊ BIỂN 90
3.6.1. Dạng kết cấu và thành phần cụm công trình 90
3.6 2. Thiết kế lớp bảo vệ mái 93
3.6.3. Thiết kế tầng đệm, tầng lọc 95
3.6.4. Thiết kế chân khay 96
CHƯƠNG IV 98
PHƯƠNG PHÁP THI CÔNG ĐÊ BIỂN VẬT LIỆU ĐỊA PHƯƠNG 98
4.1. THI CÔNG BẰNG THỦ CÔNG 98

4.2. THI CÔNG BẰNG CƠ GIỚI 98
4.2.1. Những yêu cầu chung 98
4.2.2. Thi công bằng máy đào 100
4.2.3. Thi công bằng máy cạp 103
4.2.4. Thi công bằng máy ủi 105
4.2.5. Kiểm tra nghiệm thu công tác đất thi công theo phương pháp khô 106
4.3. THI CÔNG BẰNG CƠ GIỚI THUỶ 109
4.3.1. Nguyên tắc chung 109
4.3.2. Khai thác bằng súng phun thuỷ lực 109
4.3.3. Khai thác bằng tàu hút bùn 111
4.3.4. Kiểm tra và nghiệm thu công tác đất thi công bằng cơ giới thuỷ lực 113
CHƯƠNG V 115
LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ VÀ THI CÔNG HIỆN CÓ 115
5.1. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ỔN ĐỊNH (TRƯợT, LÚN) CỦA ĐÊ BIỂN 115
A Các giải pháp truyền thống 115
5.1.1. Đắp theo thời gian: 115
5.1.2. Nâng cao ổn định bằng phản áp 116
5.1.3. Đào thay thế toàn bộ hoặc một phần móng 117
5.1.4. Gia cố bằng xơ dừa, cành cây 118
5.1.5. Gia cố nền bằng cọc cây 118
B. Các giải pháp công nghệ mới 118
5.1.6. Thiết kế đê biển theo công nghệ đất có cốt VĐKT 118
5.1.7. Xử lý nền bằng cọc cát 120
5.1.8. Xử lý nền đê bằng Cọc xi măng đất 120
5.1.9. Đường thoát nước thẳng đứng + gia tải trước 121
5.1.10. Phương pháp gia tải nén trước 122
5.1.11. Cố kết bằng hút chân không 123
5.2. CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÁI ĐÊ BIỂN 123
5.2.1. Các giải pháp chống sóng 124
5.2.3. Các công trình ngăn cát giảm sóng 124

5,2.4. Các giải pháp gia cố bảo vệ mái đê biển truyền thống 125
5.3. THI CÔNG ĐÊ BIỂN 126
5.3.1. Quy định chung 127
5.3.2. Thi công bằng thủ công 127
5.3.3. Thi công bằng cơ giới 127
5.3.4. Thi công bằng cơ giới thuỷ lực 128
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
3
Chương I
TỔNG QUAN CHUNG HỆ THỐNG ĐÊ BIỂN TỪ QUẢN NINH ĐẾN
QUẢNG NAM
1.1 TÌNH HÌNH CHUNG
Nước ta có trên 3.200km bờ biển, là thuận lợi lớn trong việc phát triển kinh
tế, nhưng cũng là thách thức không nhỏ trong vấn đề đảm bảo an toàn dân sinh,
kinh tế khu vực ven biển. Dọc theo ven biển, hệ thống đê biển đã được hình thành
với quy mô khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội,
góp phần t
ăng cường quốc phòng an ninh.
Hệ thống đê biển, đê cửa sông thuộc các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng
Nam có tổng chiều dài khoảng 1.700km. Trước năm 2005, được sự quan tâm của
Nhà nước và các tổ chức quốc tế thông qua các dự án PAM 4617, PAM 5325,
OXFAM, CEC có khoảng 719km đê biển thuộc các đoạn đê xung yếu đã được đầu
tư củng cố, nâng cấp nhằm đảm bảo chống v
ới gió bão cấp 9 với mức nước triều tần
suất 5%. Tuy nhiên, do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế nên hệ thống đê biển chưa
đảm bảo kiên cố, chưa đồng bộ, ít được duy tu bảo dưỡng thường xuyên nên bị
xuống cấp nhanh.
Năm 2005 vùng ven biển nước ta liên tiếp chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiều
cơn bão mạnh vượt mức thiết kế

, trong đó đặc biệt là bão số 2, số 6, số 7 với sức gió
mạnh cấp 11, cấp 12, giật trên cấp 12 lại đổ bộ vào đúng thời điểm mực nước triều
cao, thời gian bão kéo dài gây sóng lớn, sóng leo lớn tràn qua mặt đê gây sạt lở mái
đê phía đồng, phía biển với chiều dài trên 54km thuộc Hải Phòng, Nam Định, Thái
Bình, Thanh Hoá và vỡ một số đoạn thuộc các tuyến đê biển Cát Hải (Hả
i Phòng), đê
biển Hải Hậu, Giao Thuỷ (Nam Định) với tổng chiều dài 1465m.
Sau bão số 7, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp & PTNT đã
nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện chương trình củng cố, bảo vệ, nâng cấp đê biển hiện
có tại các tỉnh có đê từ Quảng Ninh đến Quảng Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phòng,
chống thiên tai trong tình hình mới, cần có mức đảm bả
o cao hơn cho dân sinh kinh
tế, yêu cầu đồng bộ phục vụ đa mục tiêu
Ngày 14/3/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 58/2006/QĐ-TTg
phê duyệt chương trình với các mục tiêu chủ yếu như sau:
1) Chủ động phòng, chống lụt bão, nước biển dâng, hạn chế thiệt hại do thiên
tai gây ra; tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, góp phần bảo
đảm an ninh, qu
ốc phòng vùng ven biển.
2) Kết hợp nhiệm vụ ngăn mặn, giữ ngọt, chống lụt, bão một cách chắc chắn,
lâu dài với yêu cầu khai thác tối đa tiềm năng vùng ven biển, chuyển đổi cơ cấu sản
xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói, giảm nghèo.
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
4
3) Về lâu dài: xây dựng hệ thống đê điều kiên cố, đảm bảo an toàn phòng,
chống lụt, bão, lũ. Trước mắt phấn đấu đến năm 2010 đầu tư hoàn thành những
đoạn đê xung yếu nhằm bảo vệ dân cư tập trung, những khu vực kinh tế quan trọng.
Về Tiêu chuẩn thiết kế giai đoạn trước mắt đến năm 2010:
- Đối với các tuyến

đê bảo vệ trực tiếp các khu dân cư tập trung phải được
thiết kế bảo đảm an toàn chống với gió bão cấp 12, với mực nước triều trung bình
tần suất 5%.
- Đối với tuyến đê ngoài, đê bảo vệ sản xuất, nuôi trồng thuỷ sản thiết kế
chống gió bão cấp 9, cấp 10 với mức triều trung bình tần suất 5%, chấp nhận một
phần sóng leo tràn qua
đỉnh đê khi gió bão vượt mức thiết kế nhưng không gây vỡ
đê.
Về tiêu chuẩn thiết kế đê biển: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
ban hành tiêu chuẩn ngành 14 TCN 130 - 2002 Hướng dẫn thiết kế đê biển.
Sau một năm thực hiện Chương trình củng cố, nâng cấp đê biển hiện có
các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Nam, nhóm nghiên cứu tổng hợp đánh giá
một số điểm cơ bản của việc áp dụng quy chuẩn thiế
t kế đê biển của các đơn
vị tư vấn, nhằm khắc phục những tồn tại trong việc thiết kế và tạo sự đồng bộ
giữa các địa phương trong việc củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển hiện có đề
xuất những vấn đề cần làm rõ trong những năm tiếp theo, để từng bước hoàn
thiện quy chuẩn phục v
ụ lâu dài cho việc thiết kế đê biển.
1.2. ĐÊ BIỂN VIỆT NAM - QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Vùng ven biển nước ta có địa hình thấp trũng, thường xuyên chịu tác động
của thuỷ triều có biên độ lớn, bão với nước biển dâng cao, sóng to, gió lớn gây ảnh
hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Như vậy, hệ thống đê biển được hình
thành từ nhu cầu tất yếu để bảo vệ dân cư và sản xuất của các vùng ven biển. Các
tuyế
n đê biển được đắp từ lâu và thường xuyên được củng cố hàng năm, đê biển
vùng đồng bằng Bắc Bộ phần lớn được đắp từ đời nhà Trần, đê biển Thanh Hoá,
Nghệ An được hình thành từ những năm 1930, phần lớn đê biển và đê cửa sông khu
vực miền Trung được đắp trước và sau năm 1975. Các tuyến đê biển ban đầu được
hình thành chủ y

ếu do nhân dân tự đắp để bảo vệ sản xuất, Nhà nước hỗ trợ kinh
phí để đắp một số tuyến đê biển quan trọng.
Đê biển nước ta không liền tuyến do bị chia cắt bằng nhiều cửa sông lớn nhỏ,
các tuyến đê biển thường nối tiếp với các tuyến đê cửa sông, tổng chiều dài đê cửa
sông cũng gần xấp xỉ v
ới chiều dài đê trực tiếp biển. Hiện nay, các tuyến đê biển, đê
cửa sông từ Quảng Ninh đến Quảng Nam có tổng chiều dài khoảng 1670 km. Các
tuyến đê biển có nhiệm vụ ngăn mặn, giữ ngọt, bảo vệ sinh mạng và tài sản của dân
cư ven biển, bảo vệ cho sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn bảo vệ một số khu nuôi
trồng thuỷ sản hoặc vùng sả
n xuất muối.
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
5
Do tính chất và biên độ thuỷ triều, mức độ ảnh hưởng của bão hàng năm và
hình thái địa hình đối với từng vùng có khác nhau mà sự ra đời cũng như yêu cầu về
quy mô của đê biển cũng có sự khác nhau. Đối với vùng ven biển miền Trung,
những đụn cát hình thành ven biển như những đoạn đê tự nhiên để ngăn mặn. Ở
vùng gần các cửa sông Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình, Ba Lạt, Ninh Cơ,
Đáy bờ
biển bồi dần, nhân dân đắp đê quai lấn biển nên hình thành 2, 3 tuyến đê biển, có
tuyến mới bảo vệ cho hàng ngàn hecta diện tích như đê biển Bình Minh (huyện Kim
Sơn, tỉnh Ninh Bình). Ở vùng xa cửa sông, một số nơi đang bị biển lấn vào đất liền
đe doạ đến an toàn của đê biển, đê cũng được đắp thành 2 tuyến (tuyến chính và
tuyến dự phòng) như
đê biển Hải Hậu. Một số tuyến đê biển được đắp vòng khép
kín bảo vệ dân sinh, kinh tế như đê biển Hà Nam (Quảng Ninh), đê biển đảo Cát
Hải (Hải Phòng).
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp ngành và chính quyền địa
phương, cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các tuyến đê biển được đầu tư

xây dựng và th
ường xuyên được tu bổ sau mỗi mùa mưa bão. Một số dự án đầu tư
lớn được thực hiện trong những năm gần đây như sau:
- Từ năm 1993 đến năm 1998, cùng với sự giúp đỡ của Chương trình Lương
thực thế giới và đầu tư của Nhà nước thông qua Dự án PAM 4617 đã tập trung khôi
phục, nâng cấp được 456km đê và xây dựng được 224,3km kè thuộc các tỉnh ven
biển mi
ền Trung gồm Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam;
- Từ năm 1996 đến 2000 một số tuyến đê biển xung yếu thuộc các tỉnh
Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình tiếp tục được đầu tư
nâng cấp thông qua dự án PAM 5325. Tổng chiều dài đã khôi phục, nâng cấp
307,98km đê và xây dựng được 75,61km kè tại một số tuyến trọng điểm.
- Sau cơn bão số 4 năm 2000, một số tuyến đê biển, đê cửa sông thuộc tỉnh
Hà Tĩnh bị hư hỏng nặng cũng đã và đang được đầu tư củng cố, nâng cấp bằng
nguồn vốn ngân sách địa phương, đầu tư của Trung ương và hỗ trợ của Ngân hàng
phát triển Châu á nhằm khắc phục hậu quả bão lụt.
- Ngoài ra, với sự hỗ tr
ợ của các tổ chức quốc tế thông qua các dự án như
CARE, CEC, OXFAM khoảng 200km đê biển, đê cửa sông thuộc khu vực miền
Trung cũng đã được đầu tư, nâng cấp đảm bảo chống được với mức triều trung bình
có sóng ứng với gió cấp 7, cấp 8.
Các tuyến đê được đầu tư nâng cấp thông qua dự án PAM, đến nay nhìn
chung ổn định, có thể chống được với mức tri
ều tần suất p = 5% và gió bão cấp 9.
Theo tổng kết của các tỉnh và của Ban Quản lý dự án PAM, các vùng được
đầu tư nâng cấp đê biển đã thay đổi đáng kể mang lại hiệu quả thiết thực, nhờ có
tuyến đê được cải tạo, nâng cấp mà nhân dân yên tâm đầu tư cho sản xuất, xây dựng
cơ sở hạ tầng, tuyến đê biển được nâng cấp góp phần ổn
định sản xuất, tăng diện

Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
6
tích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản cũng như làm muối, ngoài ra với việc
trồng cây chống sóng, dải cây chắn cát ven biển cũng mang lại lợi ích về mặt môi
trường sinh thái.
1.3. HIỆN TRẠNG ĐÊ BIỂN CÁC TỈNH TỪ QUẢN NINH ĐẾN QUẢNG
NAM
1.3.1.
Đặc điểm chung của đê biển
a. Địa chất và vật liệu đắp đê:

Theo tài liệu thu thập được và các tài liệu báo cáo có liên quan, ở các tỉnh ven biển
miền Bắc, đê biển nằm trên lớp đất nền là cát hạt mịn pha đất thịt hoặc sét. Đó là dạng lớp
phù sa bồi của các cửa sông và được nâng dần lên thành bãi. Đường kính hạt thay đổi trong
khoảng từ 0,01mm đến 0,2mm. Góc nội ma sát ϕ = 5
o
÷ 25
o
, lực dính c = 0,03 ÷ 0,50
kg/cm
2
, trọng lượng thể tích γ = 1,1 ÷ 1,9 kg/cm
3
.
Sức chịu kéo và nén yếu, độ ngậm nước lớn, dễ bị tác động phá hoại của sóng và
dòng ven bờ; lún lớn và kéo dài, độ ổn định thấp.
Thân đê: (1) những tuyến đê biển “quan trọng” bảo vệ diện tích đất canh tác từ
5.000 ÷ 10.000 ha của các tỉnh như đê Hà Nam (Quảng Ninh), đê 1, 2, 3 (Hải Phòng), đê 5,
6, 7 và 8 (Thái Bình), đê Xuân Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng (Nam Định) và đê Hậu Lộ

c
(Thanh Hoá), chất lượng đất thân đê là thịt nhẹ, đất phù sa cửa sông. Hàm lượng cát tăng
đối với các tuyến đê xa dần cửa sông; một số tuyến đoạn đê được đắp hoàn toàn bằng cát
như đê Hải Thịnh (Nam Định); (2) những tuyến đê biển “ít quan trọng” bảo vệ diện tích
canh tác dưới 2.000 ha đến vài trăm ha, các tuyến đê này phần lớn là các tuyến đê khoanh
2 phía các sông, lạch nh
ỏ các tuyến ven biển tỉnh Quảng Ninh và Thanh Hoá và đê quai lấn
biển. Ngoài 1 số tuyến đê có nhiệm vụ bảo vệ sản xuất là lúa, nhiều tuyến đê là đê nuôi
trồng thủy sản, đê muối, bảo vệ khu du lịch, , chất lượng đất đắp đê là đất thịt nhẹ, đất
phù sa sông. Đê bảo vệ thân đê bằng cát và cát pha này, thân đê thường được bọc bằng một
lớp đất thịt, nhiều tuyến đê không có lớp bọc này nên nguy cơ bị bào mòn và các hư hỏng
cục bộ là rất lớn.
b. Mặt cắt đê:

Mặt cắt đê phổ biến có dạng hình thang. Một số đoạn đê ở Nam Định có dạng hình
thang kép (làm cơ đê phía trong đồng). Đê biển có bề rộng mặt đê nhỏ khoảng từ 3,0m ÷
4,0m, nhiều đoạn đê có chiều rộng mặt đê < 2,0m như một số đoạn thuộc các tuyến đê Hà
Nam, đê biển Bắc Cửa Lục,
đê Hoàng Tân (tỉnh Quảng Ninh), đê biển số 5, số 6, số 7 và số
8 (tỉnh Thái Bình), đê Cát Hải (TP. Hải Phòng); Mái dốc phía biển 2/1 ÷ 3/1 (đối với đoạn
đê đã được nâng cấp từ 3/1 ÷ 4/1), mái phía đồng từ 1,5/1 ÷ 2/1 (đối với đoạn đê được
nâng cấp từ 2/1 ÷ 3/1); Cao độ đỉnh đê dao động từ +3,5 ÷ +5,0, một số nơi sau khi được
đầu tư
bởi dự án PAM 5325 có cao độ đỉnh đê (hoặc tường chắn sóng) là +5,5 như đê biển
Hải Hậu, Giao Thủy (Nam Định), đê biển số I và số II (Hải Phòng). Hình 1.1 dưới đây là
tổng hợp một số mặt cắt đê biển điển hình của 6 tỉnh miền Bắc.
Tng quan phng phỏp thit k v thi cụng ờ bin vt liu a phng t Qung Ninh n Qung Nam
VTH: Trung tõm Thy cụng - VKHTL
7


a. Ct ngang in hỡnh ờ H Nam

b. Ct ngang in hỡnh ờ Ho Bỡnh

c. Ct ngang in hỡnh ờ Bc Ca Lc

d. Ct ngang in hỡnh on ờ cha gia c mỏi

Hỡnh 1.1.a. Mt ct ngang ờ bin Qung Ninh
Đê biển đảo cát hải
m
=
2
,
0
Đá lát khan dày 30cm
Đá dăm 1x2cm dày 10cm
Vải lọc
Vải lọc
Đá dăm 1x2cm
CKBTĐS (40x40x26)cm
Tờng BTCT đổ tại chỗ M200
Đá dăm lót 1x2cm dày 10cm
Vải lọc
Tấm BTĐS (20x40x80)
+0,50+0,50
-2.00
ống buy BT M200
+3,50
+4,50

m
=
3
,
5
+5,00

Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
8
Hình 1.1.b. Mặt cắt ngang đê biển Hải Phòng
+ Loại I: Kè mái bằng hai kết cấu: phía trên (từ cao trình +3,5 đến +5) kè bằng hình thức
khung đá xây bên trong lát đá hộc, phía dưới là kết cấu bê tông đúc sẵn. Đỉnh kè có tường
chắn sóng bằng đá xây vữa M100, chân kè chôn ống buy cao 2m, bên trong đổ một lớp cát
dày 50cm sau đó đổ đá hộc lên trên kết hợp thả rọ đá gia cố phía ngoài.

+ Loại II: Hình thức gần giống với kết cấu kè loại một chỉ khác là trong ống buy chỉ đổ đá
hộc và phía ngoài thả đá hộc gia cố chân.

+ Loại III: Tại một số đoạn đê chưa hoàn thiện cao trình đỉnh đạt từ 3 ÷ 4,5m, bề rộng
đỉnh từ 3 ÷12m, kè mái bằng đá lát đá khan đến cao trình +3,5.



+ Loại IV: Kè mái bằng hình thức đá lát khan trong khung đá xây, đỉnh kè có tường chắn
sóng cao 0,5m, chân kè lót một lớp đệm bằng tre rộng 2m bên trên thả đá hộc, phía ngoài
đóng cọc tre dài 2m gia cố.
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
9


Hình 1.1.c. Mặt cắt ngang đê biển Nam Định

+
Loại I: Kè mái bằng hình thức khung đá xây bên trong lát đá, đỉnh kè có làm tường chắn
sóng, chân kè đóng cọc cừ kết hợp thả đá hộc gia cố phía ngoài.



+ Loại II: Kè mái bằng hình thức đá xây khung bên trong lát đá khan, chân kè xếp ống
buy thả đá hộc bên trong kết hợp thả đá hộc gia cố phía ngoài.

Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
10

+ Loại III: Kè mái bằng đá xây khung bên trong lát đá khan tại những đoạn đê có vận tốc
dòng ven không lớn ít ảnh hưởng đến chân bãi.


+ Loại IV
: Kè mái bằng hình thức thả rồng đá lát mái hộ bờ dưới chân thả đá hộc gia cố.

Hình 1.1.d. Mặt cắt ngang đê biển Thái Bình

+ Loại I
: Kè mái bằng đá xây khung bên trong lát đá khan tại những đoạn đê có vận tốc
dòng ven không lớn ít ảnh hưởng đến chân bãi, chân đê đóng cọc tre và thả đá rối để giữ
chân



+ Loại II
: Kè mái bằng hình thức thả rồng đá lát mái hộ bờ dưới chân thả đá hộc gia cố.
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
11

+ Loại III: Kết cấu mặt cắt đê không gia cố.
m

=

3
m
=

2

Mặt cắt đại diện cho đoạn đê cửa sông
m

=

4
m

=

2


Mặt cắt đại diện cho đoạn đê biển

1.1.e. Mặt cắt ngang đê biển Ninh Bình


1.1.g. Mặt cắt ngang đê biển Thanh Hoá
Hình 1.1. Mặt cắt ngang đê biển miền Bắc
c. Cấu tạo bảo vệ mái đê và thân đê:
Mái đê biển và đê cửa sông ven biển Bắc Bộ được bảo vệ phần lớn ở các tuyến
bằng trồng cỏ. Những đoạn chịu tác dụng trực tiếp của sóng, gió được bảo vệ bằng kè đá
lát mái, kết cấu đang được sử dụng ở các địa phương là một lớp đá hộc dày 30 cm xếp
khan trên một lớp đá dăm dày kho
ảng 10 cm, lát từ chân đê phía biển lên đến đỉnh đê. Một
số nơi bãi biển bị bào xói, ngoài lát mái đá làm kè có làm một số mỏ hàn dọc và ngang để
bảo vệ bãi. Kè mỏ hàn bằng đá hộc cao 1m, mái 2, mặt rộng 1m, dài 70 m, xây dựng thành
hệ thống như ở khu vực Văn Lý (Nam Định).
Đến nay mới xây dựng được khoảng gần 90 km kè bảo vệ mái/484 km đê biển, nên những
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
12
nơi mái đê phía biển chưa có kè bảo vệ hoặc không còn cây chắn sóng vẫn thường xuyên
bị bào mòn theo thời gian, sạt lở hoặc có nguy cơ sạt lở đe doạ đến an toàn của đê biển, đặc
biệt trong mùa mưa bão.
d. Bảo vệ bãi biển trước chân đê:

Bảo vệ bãi biển trước chân đê khi sóng, bão thường là trồng cây chắn sóng như một
số đê biển ở Hải Phòng, Ninh Bình. Dải cây chắn sóng trước đê biển nhiều nơi chưa có, có
nơi đã có nhưng do công tác quản lý, bảo vệ còn bất cập nên bị phá hoại (như vụ phá rừng
ngập mặn để nuôi trồng thủy sản ở Kim Sơn, Ninh Bình), nhiều nơi ở xa vùng cửa sông
không thể trồng được cây chắn sóng. Vì vậy, đê biển đa phần chịu tác động trực tiếp của

sóng gây sạt lở.
e. Tình trạng ổn định đê biển:

Qua thu thập tình hình làm việc của đê biển ở các tỉnh ven biển Bắc Bộ có thể đánh
giá tình trạng ổn định của đê biển chung như sau:
- Để ổn định trong điều kiện khí tượng hải văn bình thường; mực nước triều trung bình đến
cao, có gió dưới cấp 7. Dưới điều kiện như vậy đê biển không có hư hỏng đáng kể đối v
ới
các tuyến đê trực tiếp với biển và đê vùng cửa sông (nếu mái đê được bảo vệ). Trừ trường
hợp đê biển Hải Hậu khi gió mùa đông Bắc cấp 6, 7 duy trì thời gian dài gặp triều cường
đê kè bị hư hỏng nhiều nơi.
Trong điều kiện bình thường có thể xẩy ra những hư hỏng nhỏ cục bộ đối với đê bi
ển như
xói mái đê phía biển dưới tác dụng của sóng và làm dịch chuyển các hòn đá kè lát mái. Xói
mặt và mái đê 2 phía thành rãnh sâu do mưa, nhất là những đoạn đê có thành phần hạt cát
nhiều; sạt trượt mái đê phía đồng hoặc hiện tượng rò rỉ thẩm lậu với đê cửa sông khi gặp lũ
và triều cao.
- Đê mất ổn định trong điều kiện khí tượng hải văn không bình thường: m
ực nước triều cao
hoặc trung bình, có gió cấp 8 trở lên; là trường hợp đê biển phải làm việc trong bão khi gió
cấp 8, 9 gặp triều cao hoặc gió cấp 10, 11 gặp triều bình thường. Các dạng đê biển Bắc Bộ
hư hỏng trong trường hợp này thường gặp là:
Sạt trượt mái đê phía biển những đoạn có mái đá lát hoặc mái cỏ dọc theo tuyến đê,
đặc biệt là các đoạn đ
ê trực tiếp sóng gió và có độ dốc bãi lớn (1 ≥ 0,002). Có trường hợp
mái sạt sập và sóng nước cuốn mất 1/2 ÷ 1/3 thân đê. Sạt trượt mái đê phía biển trong gió
bão là hiện tượng phổ biến nhất và hư hỏng đê biển Bắc Bộ không chỉ đối với các tuyến đê
chất lượng đất là cát mà ngay cả những đoạn đê lát đá kè bảo vệ mái, , sau các trận bão
phần l
ớn khối lượng đê khối phục đê biển là đắp trả lại mái đê phía biển.

So với các tuyến đê biển trực tiếp với biển thì các tuyến đê vùng cửa sông ít bị hư
hỏng lớn về mái, mặc dầu mái đê bảo vệ bằng cỏ, vì phần lớn các tuyến đê này bãi trước đê
có cây chắn sóng và chất lượng đắp đê cũng tốt h
ơn.
Sạt trượt mái đê phía biển và phía đồng trên phạm vi dài dọc theo tuyến đê trực tiếp
sóng gió. Hiện tượng xẩy ra khi đê làm việc gặp triều cường và có gió trên cấp 9, 10, sóng
nước làm trượt mái phía biển và các con sóng cao vượt qua đỉnh đê đổ xuống mái đê phía
đồng làm sạt trượt các mái đê phía đồng.
Khi điều kiện khí tượng không bình thường đê biển Bắc Bộ bị hư hỏng nặng, tình
tr
ạng hư hỏng của đê biển miền Bắc được trình bày ở 1.3.4 và phụ lục 1. Thực tế cho thấy
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
13
khi 1 cơn bão đổ vào một địa phương ở đồng bằng Bắc Bộ, gặp lúc triều trung bình đến
cao có thể gây hư hỏng cho đê biển ở tất cả các tỉnh từ Thanh Hoá đến Quảng Ninh. Khu
vực bị phá nặng nề là ở phía Bắc, vị trí của bão đổ bộ. Trong số các tuyến đê biển bị hư
hỏng thì đê Hải Hậu (Nam Định) bị hư hỏ
ng nghiêm trọng nhất.
Như vậy, có thể thấy rằng đê biển Bắc Bộ, kể cả những đoạn đê đã được đầu tư tu
bổ, nâng cấp thông qua dự án PAM 5325 nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra
hiện nay: Nhiều đoạn đê chưa nâng cấp nên còn thấp, nhỏ thiếu cao trình; Mặt đê nhỏ, hầu
hết chưa
được cứng hoá dễ bị xói sạt, lầy lội khi mưa, bão nên không đáp ứng được yêu
cầu giao thông, gây khó khăn cho việc ứng cứu khi mưa bão; Đặc biệt một số đoạn bãi
biển bị hạ thấp gây sạt lở kè bảo vệ mái đê biển, một số đoạn đang đứng trước nguy cơ có
thể bị phá vỡ bất cứ lúc nào,
1.3.2. Hiện trạng đê biển các tỉnh trước khi thực hiện kế hoạch củng cố, nâng
cấp theo Quyết định số 58/2006/QĐ-TTg ngày 14/3/2006
Dọc ven viển Việt Nam đã có hệ thống đê biển với các qui mô khác nhau

được hình thành qua nhiều thế hệ, bảo vệ cho sản xuất, dân sinh kinh tế của các
vùng trũng ven biển. Tuy nhiên, hệ thống đê sông, đê biển hiện nay mới chỉ có thể
đảm bả
o an toàn ở mức độ nhất định tuỳ theo tầm quan trọng về dân sinh, kinh tế
từng khu vực được bảo vệ, một số tuyến đê đã được đầu tư khôi phục, nâng cấp
thông qua các dự án PAM và các dự án hỗ trợ của ADB có thể chống với gió bão
cấp 9 và mức nước triều tần suất 5%, nhiều tuyến chưa được tu bổ, nâng cấp chỉ có
thể đảm b
ảo an toàn với gió bão cấp 8. Mặt khác, do điều kiện kinh tế việc đầu tư
chưa được tập trung đồng bộ, kiên cố, lại chịu tác động thường xuyên của mưa bão
nên hệ thống đê, kè biển vẫn tiếp tục bị xuống cấp như đê biển tại các tỉnh miền
Trung, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, đặc biệt đê biển Giao Thuỷ,
Hải H
ậu - Tỉnh Nam Định.
Đê biển nước ta không liền tuyến do bị chia cắt bằng nhiều cửa sông lớn nhỏ,
các tuyến đê biển thường nối tiếp với các tuyến đê cửa sông để tạo thành các tuyến
khép kín bảo vệ các vùng ven biển, tổng chiều dài đê cửa sông cũng gần xấp xỉ với
chiều dài đê trực tiếp biển. Các tuyến đê biển, đ
ê cửa sông từ Quảng Ninh đến
Quảng Nam có tổng chiều dài khoảng 1.700 km, trong đó có khoảng 853 km đê
biển, đê cửa sông là đê cấp III hoặc là đê được đầu tư chủ yếu bằng ngân sách
Trung ương.
Sau quá trình đầu tư khôi phục, cải tạo, nâng cấp thông qua các dự án và việc
đầu tư tu bổ hàng năm, hiện trạng các tuyến đê biển tại các khu vực có thể tóm tắt
chung như sau:
1. Đê biển các tỉnh Bắc Bộ: Các tỉnh từ Quảng Ninh đến Ninh Bình.
Vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ là nơi có địa hình thấp trũng, là một trung
tâm kinh tế của cả nước - đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, tập trung dân cư đông
đúc. Đây là vùng biển có biên độ thuỷ triều cao (khoảng 4 mét) và nước dâng do
bão cũng rất lớn. Để bảo vệ sản xuất và sinh hoạt c

ủa nhân dân, các tuyến đê biển,
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
14
đê cửa sông ở khu vực này đã được hình thành từ rất sớm và cơ bản được khép kín.
Tổng chiều dài các tuyến đê biển, đê cửa sông khoảng 484 km, trong đó có trên 350
km đê trực tiếp biển.
Đê biển Bắc Bộ có bề rộng mặt đê nhỏ khoảng từ 3,0m ÷ 4,0m, nhiều đoạn
đê có chiều rộng mặt đê < 2,0m như một số đoạn thuộ
c các tuyến đê Hà Nam, đê
Bắc cửa Lục, đê Hoàng Tân (tỉnh Quảng Ninh), đê biển số 5, số 6, số 7, số 8 (tỉnh
Thái Bình), đê Cát Hải (Hải Phòng), mái phía biển 2/1 ÷ 3/1 (đối với đoạn đê đã
được nâng cấp từ 3/1 ÷ 4/1), mái phía đồng từ 1,5/1 ÷ 2/1 (đối với đoạn đã được
nâng cấp từ 2/1 ÷ 3/1), cao độ đỉnh đê dao động từ +3,5 ÷ +5,0, một số nơi sau khi
được đầ
u tư bởi dự án PAM 5325 có cao độ đỉnh đê (hoặc tường chắn sóng) là +5,5
như đê biển Hải Hậu, Giao Thuỷ (Nam Định), đê biển số I, II (Hải Phòng).
Sau khi được đầu tư khôi phục, nâng cấp thông qua dự án PAM 5325 và quá
trình tu bổ hàng năm, các tuyến đê biển nhìn chung đảm bảo chống được mức nước
triều cao tần suất 5% có gió bão cấp 9. Tuy nhiên, tổng chiều dài các tuyến đê biển
rất lớ
n, dự án PAM mới chỉ tập trung khôi phục, nâng cấp các đoạn đê xung yếu.
Mặt khác, do tác động thường xuyên của mưa, bão, sóng lớn nên đến nay hệ thống
đê biển Bắc Bộ vẫn còn nhiều tồn tại, trong đó các tồn tại chính được tóm tắt như
sau:
- Nhiều đoạn thuộc tuyến đê biển Hải Hậu, Giao Thuỷ thuộc tỉnh Nam Định
đang đứng trướ
c nguy cơ bị vỡ do bãi biển liên tục bị bào mòn, hạ thấp gây sạt lở
chân, mái kè bảo vệ mái đê biển, đe doạ trực tiếp đến an toàn của đê biển. Một số
đoạn trước đây có rừng cây chắn sóng nên mái đê phía biển chưa được bảo vệ, đến

nay rừng cây chắn sóng bị phá huỷ, đê trở thành trực tiếp chịu tác động của sóng,
thuỷ
triều nên nếu không được bảo vệ sẽ có nguy cơ vỡ bất cứ lúc nào. Có đoạn
trước đây đê có 2 tuyến nên tuyến đê trong không được bảo vệ mái, đến nay tuyến
đê ngoài đã bị vỡ nên tuyến đê trong cấp thiết phải được củng cố, bảo vệ chống vỡ.
- Còn 257,5 km đê biển, đê cửa sông chưa đảm bảo cao trình thiết kế
,
cao độ đỉnh đê khoảng từ +3,5 ÷ + 5,0m trong khi cao độ thiết kế là từ +5,0 ÷
+5,5m.
- Đa số các tuyến đê ban đầu được đắp có chiều rộng mặt đê ≤ 3,0m, đến nay
trừ các tuyến đê biển số I, II, III (chiều dài khoảng 46,913km) thuộc Hải Phòng
có chiều rộng mặt đê B = 5,0m, còn lại 152,5km đê có chiều rộng khoảng 4,0 ÷
4,5m, 150 km có chiều rộng 3,0 ÷ 4,0m và 125 km có chiều rộng <3,0m, cá bi
ệt
có nơi chỉ rộng 1,6 ÷ 2,5m. Chiều rộng mặt đê nhỏ gây khó khăn cho việc giao
thông cũng như kiểm tra, ứng cứu đê như các tuyến đê Hà Nam (tỉnh Quảng Ninh),
đê biển Hải Hậu, Giao Thuỷ (Nam Định), đê biển số 5, 6, 7, 8 (Thái Bình), v.v
- Trừ một số đoạn đê đã được cải tạo nâng cấp để kết hợp giao thông ở Hải
Phòng,
hầu hết mặt đê chưa được gia cố cứng hoá nên khi mưa lớn hoặc trong
mùa mưa bão mặt đê thường bị sạt lở, lầy lội, nhiều đoạn không thể đi lại được.
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
15
- Đến nay mới xây dựng được khoảng gần 90km kè bảo vệ mái/484km đê
biển, nên những nơi mái đê phía biển chưa có kè bảo vệ hoặc không còn cây chắn
sóng vẫn thường xuyên bị sạt lở hoặc có nguy cơ sạt lở đe doạ đến an toàn của đê
biển, đặc biệt là trong mùa mưa bão.
- Đất đắp đê chủ yếu là đất cát pha, có độ chua lớn không trồng cỏ
được, có

tuyến được đắp chủ yếu bằng cát phủ lớp đất thịt như đê biển Hải Hậu, hầu hết
mái đê phía đồng chưa có biện pháp bảo vệ, nên thường xuyên bị xói, sạt khi
mưa, bão, đặc biệt tuyến đê biển Hải Hậu.
- Dải cây chắn sóng trước đê biển nhiều nơi chưa có, có nơi đã có nhưng do
công tác quản lý, bả
o vệ còn bất cập nên bị phá hoại (như vụ phá rừng ngập mặn để
nuôi trồng thuỷ sản ở Kim Sơn, Ninh Bình), nhiều nơi ở vùng xa cửa sông không
thể trồng được cây chắn sóng. Vì vậy, đê biển đa phần chịu tác động trực tiếp của
sóng gây sạt lở.
Như vậy, có thể thấy rằng đê biển Bắc Bộ mặc dù đã được
đầu tư tu bổ, nâng
cấp thông qua dự án PAM 5325 nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra hiện nay:
Nhiều đoạn chưa được nâng cấp nên còn thấp, nhỏ thiếu cao trình; Mặt đê nhỏ, hầu
hết chưa được cứng hoá dễ bị xói sạt, lầy lội khi mưa, bão nên không đáp ứng được
yêu cầu giao thông, gây khó khăn cho việc ứng cứu khi mưa bão; Đặc biệt một số

đoạn bãi biển bị hạ thấp gây sạt lở kè bảo vệ mái đê biển, một số đoạn đê đang đứng
trước nguy cơ có thể bị phá vỡ bất cứ lúc nào.
2. Đê biển Bắc Trung Bộ: Các tỉnh từ Thanh Hoá đến Hà Tĩnh.
Vùng ven biển Bắc Trung Bộ là vùng đồng bằng nhỏ hẹp của hệ thống sông
Mã, sông Cả, cũng là một trong nhữ
ng vùng trọng tâm về phát triển kinh tế, địa
hình ven biển thấp trũng và cao dần về phía Tây. Đây là vùng thường xuyên chịu
ảnh hưởng của thiên tai (đặc biệt là bão, áp thấp nhiệt đới), biên độ thuỷ triều nhỏ
hơn vùng biển Bắc Bộ, vùng ven biển đã bắt đầu xuất hiện các cồn cát có thể tận
dụng được như các đoạn đê ngăn mặn tự nhiên.
Mặc dù
đã được quan tâm đầu tư khôi phục, nâng cấp thông qua các dự án
PAM 4617, OXFAM, CEC, CARE, đặc biệt ADB hỗ trợ khôi phục sau trận bão số
4 năm 2000, nhưng tuyến đê biển nhìn chung là thấp, nhỏ. Một số tồn tại chính của

các tuyến đê biển Bắc Trung Bộ như sau:
- Còn khoảng 222,8 km đê biển, đê cửa sông thấp, nhỏ, chưa đảm bảo cao
trình chống lũ, bão theo tần suất thiết kế
(cao độ đỉnh đê còn thiếu từ 0,5 ÷ 1,0m so
với cao độ thiết kế).
- Chiều rộng mặt đê còn nhỏ: chỉ có khoảng 29 km có chiều rộng khoảng
4,0m, 192km có chiều rộng B = 3,0 ÷ 4,0m, vẫn còn 185,4 km có chiều rộng mặt
đê dưới 3,0m, nhiều đoạn mặt đê nhỏ hơn 2,0m gây khó khăn trong việc chống
lũ, bão cũng như giao thông (nhiều tuyến đê xe ô tô không thể đi lại dọc theo tuy
ến
đê).
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
16
- Bãi biển ở một số đoạn vẫn có xu hướng bị bào mòn, hạ thấp gây sạt lở
chân kè, đe doạ đến an toàn của đê biển như đoạn Ninh Phú, Hậu Lộc (tỉnh Thanh
Hoá), đoạn kè Cẩm Nhượng, đê Hội Thống (tỉnh Hà Tĩnh).
- Toàn bộ mặt đê chưa được gia cố cứng hoá, lại không bằng phẳng nên về
mùa mưa bão mặt đê th
ường bị sạt lở, lầy lội nhiều đoạn không thể đi lại được.
- Mái phía biển nhiều nơi chưa được bảo vệ, vẫn thường xuyên có nguy cơ
sạt lở đe doạ đến an toàn của đê, đặc biệt là trong mùa mưa bão.
- Mái đê phía đồng chưa được bảo vệ nên bị xói, sạt khi mưa lớn hoặc sóng
tràn qua.
- Dải cây chắn sóng trước đê bi
ển, đặc biệt là đê cửa sông nhiều hơn ở vùng
biển Bắc Bộ nhưng chưa đủ, cần tiếp tục trồng cây chống sóng và tăng cường công
tác quản lý, bảo vệ.
- Một vấn đề tồn tại lớn đối với các tuyến đê biển Bắc Trung Bộ là hệ thống
cống dưới đê rất nhiều về số lượng, hầu hế

t đã được xây dựng từ vài chục năm
trước đây với kết cấu tạm bợ và đang bị xuống cấp nghiêm trọng (năm 2002, Bộ
Nông nghiệp & PTNT đã phải chỉ đạo xử lý khẩn cấp cống Hói Cống thuộc tỉnh
Nghệ An bị sập trước mùa mưa bão). Cần có quy hoạch lại, sửa chữa và xây dựng
mới để đảm bảo an toàn cho đê, phù h
ợp với quy hoạch chung về phát triển sản
xuất.
3. Đê biển Trung Trung Bộ: Các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam.
Vùng ven biển Trung Trung Bộ là vùng có diện tích nhỏ hẹp, phần lớn các
tuyến đê biển đều ngắn, bị chia cắt bởi các sông, rạch, địa hình đồi cát ven biển.
Một số tuyến bao diện tích canh tác nhỏ hẹp dọc theo đầm phá. Đây là vùng có biên
độ thuỷ triều thấp nhấ
t, thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai. Khác với vùng
cửa sông đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là bồi, các cửa sông miền Trung có thể thay
đổi tuỳ theo tính chất của từng con lũ, do vậy tuyến đê được đắp theo một tuyến,
không có tuyến quai đê lấn biển hoặc tuyến đê dự phòng.
Đê biển, đê cửa sông khu vực Trung Trung Bộ với nhiệm vụ ngăn mặn, gi

ngọt, chống lũ tiểu mãn hoặc lũ sớm bảo vệ sản xuất ăn chắc 2 vụ lúa đông xuân và
hè thu, đồng thời phải đảm bảo tiêu thoát nhanh lũ chính vụ. Một số ít tuyến đê, bảo
vệ các khu nuôi trồng thuỷ sản. Đa số các tuyến đê biển bảo vệ diện tích canh tác
nhỏ dưới 3.000 hecta.Với mục tiêu, nhiệm vụ như trên, đê không c
ần đắp cao,
nhưng cần phải gia cố 3 mặt để chống hư hỏng khi lũ tràn qua.
Phần lớn các tuyến đê được đắp bằng đất thịt nhẹ pha cát, một số tuyến nằm
sâu so với cửa sông và đầm phá đất thân đê là đất sét pha cát như đê tả Gianh
(Quảng Bình) đê Vĩnh Thái (Quảng Trị), Một số đoạn đê đã được bảo vệ
3 mặt
hoặc 2 mặt bằng tấm bê tông để cho lũ tràn qua như tuyến đê phá Tam Giang (Thừa
Thiên Huế), đê hữu Nhật Lệ (Quảng Bình), Ngoài các đoạn đê trực tiếp chịu tác

động của sóng, gió được xây dựng kè bảo vệ, hầu hết mái đê được bảo vệ bằng cỏ,
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
17
đê vùng cửa sông được bảo vệ bằng cây chắn sóng với các loại cây sú, vẹt, đước.
Một số tồn tại chính của các tuyến đê biển Trung Trung Bộ như sau:
- Còn 238,8 km đê biển, đê cửa sông chưa được đầu tư tu bổ, nâng cấp
nên còn thấp nhỏ, chưa đảm bảo cao độ thiết kế.
- Trừ 1,5km đê Liên Hiệp thuộc thành phố Đà Nẵng có chiều rộ
ng mặt đê ≥
4,0m, còn lại 562km có chiều rộng mặt đê < 3,5m, trong đó có đến 272 km mặt
đê chỉ rộng từ 1,5 ÷ 3,0m. Chiều rộng mặt đê nhỏ gây khó khăn rất lớn trong việc
giao thông cũng như cứu hộ đê.
- Toàn bộ mặt đê chưa được gia cố cứng hoá, về mùa mưa bão mặt đê
thường bị lầy lội nhiều đoạn không th
ể đi lại được.
- Đến nay mới có khoảng 165km được xây dựng kè bảo vệ mái, phần lớn
mái đê phía biển chưa được bảo vệ, một số nơi đã được bảo vệ nhưng chưa đồng bộ
hoặc chưa đủ kiên cố nên vẫn thường xuyên bị sạt lở đe doạ đến an toàn của các
tuyến đê biển.
- Ngoài 22,5km
đê thuộc Thừa Thiên Huế và một số đoạn đê thuộc Quảng
Nam được gia cố 3 mặt, còn lại đa số mặt đê và mái đê phía đồng chưa được gia cố
nên rất dễ bị xói, sạt khi lũ, bão gây nước dâng tràn qua.
- Chưa đủ các đường tràn hoặc đoạn đê bảo vệ ba mặt có thể hoạt động như
đường tràn.
- Cần tiếp tục trồ
ng cây chống sóng và tăng cường công tác quản lý, bảo vệ.
- Cũng như vùng Bắc Trung Bộ, số lượng cống dưới đê rất lớn và đã được
xây dựng từ vài chục năm trước, với kết cấu tạm bợ, có khi cống không có cánh mà

đắp bằng đất. Nhiều cống không còn phù hợp với quy hoạch sản xuất, ngoài một số
cống được tu bổ, nâng cấp thông qua dự án PAM 4617, hầu hế
t các cống còn lại
đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Cần có quy hoạch lại, sửa chữa và xây dựng mới
để đảm bảo an toàn cho đê, phù hợp với quy hoạch chung về phát triển sản xuất.
1.3.3. Thực hiện chương trình củng cố, nâng cấp đê biển theo Quyết định số
58/2006/QĐ-TTg ngày 13/4/2006
Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 322/QĐ-TTg ngày 16/2/2006 bố trí
kinh phí từ nguồn ngân sách Trung ương
để đầu tư Chương trình củng cố, bảo vệ và
nâng cấp đê biển tại các tỉnh có đê từ Quảng Ninh đến Quảng Nam. Ngay sau khi
được phân bổ vốn, UBND các tỉnh đã khẩn trương chỉ đạo triển khai thực hiện.
Theo báo cáo của các địa phương đến hết tháng 11/2006 tổng giá trị khối lượng
thực hiện đạt 600 tỷ đồng, vượt mức kế hoạch được giao là 210%. M
ột số tỉnh làm
tốt như sau:
- Tỉnh Ninh Bình: Nâng cấp 13.000m đê trực diện biển thuộc tuyến đê biển
Bình Minh II, hiện đã hoàn thành việc đắp đất mặt cắt đê, đúc 13.000 ống buy, gần
100.000 cấu kiện bê tông
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
18
- Tỉnh Nam Định:
Giai đoạn 1: UBND tỉnh đã tập trung khắc phục những đoạ đê xung yếu tại
các huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu
Giai đoạn 2: UBND tỉnh tiếp tục nâng cấp những đoạn đê xung yếu khác như
đê Xuân Hà, An Hóa, đoạn đê Cai Đề - Cống số 9 với chiều dài khoảng 11.369m.
- Tỉnh Thanh Hóa: Đã hoàn thành kế hoạch 2006
Nhận xét:


Sau gần một năm triển khai Chương trình còn một số vấn đề như sau:
- Các tỉnh mới tập trung vốn đầu tư xây dựng công trình đê, kè, việc trồng
cây chắn sóng trước đê chưa được quan tâm đúng mức
- Việc triển khai thực hiện ở các tỉnh không đồng đều, chỉ mới có một số tỉnh
đã triển khai tốt công việc đó là: Quảng Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa,
Thừ
a Thiên Huế khối lượng thực hiện đến nay đã vượt mức kế hoạch được giao,
còn lại các địa phương khác triển khai rất chậm nhất là Hải Phòng, Quảng Bình,
Quảng Trị.
1.4. CƠ CHẾ PHÁ HUỶ ĐÊ BIỂN (qua các cơn bão năm 2005) VÀ ĐỊNH
HƯỚNG CỦNG CỐ, NÂNG CẤP ĐÊ BIỂN GIAI ĐOẠN 2006 ĐẾN 2010
1.4.1. Cơ chế phá huỷ đê biển
Năm 2005, trong một th
ời gian ngắn 3 trận bão mạnh là bão số 2, số 6, số 7
(bão Damrey) đổ bộ vào đất liền làm nhiều đoạn thuộc các tuyến đê biển Cát Hải,
đê biển I, đê biển II (Hải Phòng), đê biển Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng (Nam
Định), đê biển I Vích - Hậu Lộc, Hoằng Thanh - Hoằng Hoá (Thanh Hoá) đã bị
tràn, vỡ, sạt lở nghiêm trọng. Trong khi đó, các tuyến đê biển thuộc các tỉ
nh Thái
Bình, Ninh Bình hoặc một số đoạn của đê biển I - Đồ Sơn (Hải Phòng) chỉ bị hư
hỏng nhẹ, ảnh hưởng không đáng kể. Từ thực tế vỡ đê qua các cơn bão trong năm
2005 có thể tổng kết một số cơ chế phá huỷ như sau:
1. Kết cấu kè bảo vệ mái đê phía biển những đoạn trực tiếp chịu tác
động của sóng
còn chưa đủ kiên cố, đồng bộ để chống gió bão cấp 11, cấp12:
Hầu hết các đoạn đê bị phá hỏng là trực diện với biển chịu tác động trực tiếp
của sóng lớn. Thực tế qua các trận bão năm 2005 cho thấy, những đoạn đê trực tiếp
biển, mái phía biển được bảo vệ bằng đá hộc lát khan, đá xây t
ừ cao trình +3,50 trở
lên (từ cao trình +3,50 trở xuống bảo vệ bằng cấu kiện bê tông do trước đây không

đủ kinh phí đầu tư) là không đảm bảo ổn định bền vững; bão số 7 năm 2005 sóng
lớn đã làm hư hỏng nặng, hoặc phá huỷ phần đá lát khan, đá xây từ cao trình +3,50
trở lên, dẫn đến vỡ đê biển như: đê biển I - Đồ Sơn, đê biển Cát Hải, đê bi
ển Nam
Định. (những đoạn mái đê phía biển được bảo vệ toàn bộ bằng các loại cấu kiện bê
tông đúc sẵn có đủ chiều dày, trọng lượng phù hợp thì không bị phá hoại trong bão).
2. Tường chắn sóng chưa đủ kiên cố: Tường chắn sóng trên đỉnh đê bằng đá xây
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
19
hoặc bê tông thường (không có cốt thép), móng tường được đặt chưa đủ sâu nên
không đảm bảo ổn định, bên cạnh đó hình dạng tường một số khu vực chưa thực sự
phù hợp, khi chịu tác động trực tiếp của sóng, tường bị lật, hoặc bị bẻ gãy dẫn đến
vỡ đê. Đây là cơ chế vỡ đê đã xẩy ra ở Đồ Sơn - Hả
i Phòng.
3. Sóng và sóng leo cao hơn mức sóng tính toán khi thiết kế trước đây:
Giai đoạn trước đây đê được thiết kế chống với gió bão cấp 9, triều tần suất
5%, trong khi bão số 7 năm 2005 với sức gió cấp 12, giật trên cấp 12, lại trùng với
thời kỳ triều cường gây sóng lớn vượt mức thiết kế của đê. Sóng tràn qua mặt đê,
gây sạt lở mái đê phía đồng, mặ
t đê (những đoạn mặt đê chưa được cứng hoá, mái
đê phía đồng chưa được bảo vệ bằng đá lát, hoặc trồng cỏ) gây vỡ đê từ phía trong
ra. Đây là các cơ chế vỡ đê đã xảy ra đối với đê biển Hải Hậu, Cát Hải.
1.4.2. Định hướng củng cố, nâng cấp đê biển
1. Nhu cầu tất yếu phải nâng cấ
p hệ thống đê biển:
Vùng ven biển chủ yếu là vùng trũng, thấp, là vùng tập trung dân cư đông
đúc và nhiều trung tâm kinh tế, hạ tầng quan trọng, là trung tâm phát triển kinh tế.
Vì vậy, hệ thống đê, bờ bao có vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển bền
vững của vùng đất này. Xuyên suốt quá trình phát triển, hệ thống đê đã được hình

thành với khoảng 3.000 km đê biển, đê cửa sông cùng với hệ thống
đê sông tạo
thành những vùng khép kín.
Sau khi thống nhất đất nước, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và được
sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế, hệ thống đê biển đã được đầu tư và liên tục
được củng cố cả về quy mô và chất lượng.
Cùng với sự phát triển của đất nước, sự gia tăng về dân số, trong những năm
qua d
ải đất đồng bằng ven biển ngày càng được quan tâm đầu tư khai thác, cơ cấu
sản xuất chuyển đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ, du lịch và nuôi trồng, khai thác thuỷ, hải sản, Kinh tế phát triển,
dân số tăng nhanh, nhiều công trình hạ tầng quan trọng như giao thông, thuỷ lợi,
nhiều nhà máy, xí nghiệp, vùng kinh tế, du lịch trọng điểm đ
ã được đầu tư xây dựng
đã làm thay đổi bộ mặt vùng đất ven biển vốn hoang vu, nghèo nàn và lạc hậu. Tuy
nhiên sự phát triển không đồng bộ, khai thác thiếu quy hoạch như xây dựng quá sát
biển, chặt phá rừng phòng hộ ven biển cùng với sự thay đổi khí hậu toàn cầu làm
thiên tai lũ bão ngày càng khốc liệt, số cơn bão tăng cả về tần suất và cường độ,
mực nước biển có xu thế dâng cao; hệ th
ống đê biển, đê cửa sông chưa được đầu tư
tương xứng, chỉ một số đoạn đê xung yếu mái đê được bảo vệ bằng lát cấu kiện bê
tông và đá lát khan, việc tu bổ hàng năm chưa được như mong muốn (do kinh phí
hạn chế) nên bị xuống cấp, khó đảm bảo an toàn khi gặp tổ hợp triều và bão vượt
thiết kế. Điề
u đó đã đặt vùng đất ven biển hiện nay đứng trước nguy cơ phát triển
không bền vững. Điển hình như trận bão số 2, số 6, số 7 và số 8 năm 2005 đã gây
tràn, vỡ và hư hỏng nhiều đoạn đê biển ở phía Bắc, và Bắc Trung Bộ nơi có hệ
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
20

thống đê biển đến nay được coi là lớn nhất trong cả nước.
Để bảo vệ những thành quả đã đạt được trong việc xây dựng hệ thống đê
biển trước đây, khai thác hiệu quả tiềm năng to lớn của vùng đất ven biển, đảm bảo
sự phát triển bền vững, việc đầu tư xây dựng, nâng cấp và bảo vệ các tuyến đê biển
là hết sức cần thiết.
2. Định hướng phát triển đê biển:
Đối với mỗi quốc gia, việc điều chỉnh mức bảo đảm an toàn cho hệ thống đê
điều nói chung thường thực hiện sau mỗi đợt thiên tai lớn xảy ra và tuỳ thuộc điều
kiện kinh tế của đất nước tại thời điểm đó. Ở Việt Nam, sau những tr
ận bão mạnh
năm 2005, hệ thống đê biển phải được đầu tư củng cố, nâng cấp bảo đảm an toàn
chống gió bão cấp 10 với mức nước triều tần suất 5%, đối với đê bảo vệ khu vực
dân cư tập trung ven biển đảm bảo chống gió bão cấp 12.
Tuy nhiên, đê biển Việt Nam có chiều dài lớn, khác với đê sông, đê biển
thường xuyên chịu tác
động của sóng, thuỷ triều nên cần thực hiện tập trung, đồng
bộ, đòi hỏi đầu tư kinh phí tập trung rất lớn (lớn hơn đê sông rất nhiều). Trong khi
ngân sách Nhà nước hỗ trợ hàng năm còn hạn chế (không thể đáp ứng đủ theo nhu
cầu vốn - thực tế nhu cầu vốn hiện nay mỗi năm khoảng 1000 tỷ, trong khi ngân
sách bố trí trong năm 2006 là 280 tỷ đồng) nên cần sắ
p xếp thứ thự ưu tiên, có cơ
chế phù hợp. Trước mắt tập trung củng cố, nâng cấp các tuyến đê hiện có ở phía
Bắc là nơi có tần suất bão và biên độ thuỷ triều cao; ưu tiên đầu tư các đoạn đê xung
yếu, trực tiếp biển, đê bảo vệ dân cư theo hướng xây dựng đồng bộ, làm đâu chắc
đấy, kết hợp đa mụ
c tiêu (vừa phòng chống thiên tai, vừa kết hợp giao thông, an
ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế ven biển).
Từ bài học thực tế về cơ chế phá huỷ đê biển trong bão số 2, số 7 năm 2005
và thực trạng hệ thống đê biển hiện nay, việc củng cố, nâng cấp đê biển sẽ thực hiện
theo hướng làm đến đâu vững chắc đến đấy, kết hợp giữa gi

ải pháp công trình và
phi công trình, trong đó chú trọng trồng dải cây chắn sóng tạo rừng ngập mặn,
phòng hộ trước đê biển để đảm bảo ổn định lâu dài và có các biện pháp, cơ chế
thích hợp để quản lý, bảo vệ cây chắn sóng, coi đây là một bộ phận của đê biển. Cụ
thể:
(i) Về mức bảo đảm an toàn đối với đê biển: Mong muốn của chúng ta là
ch
ống được với mức càng cao thì càng tốt, đặc biệt sau bão số 7 năm 2005 dư luận
chung mong muốn hệ thống đê biển phải chống đỡ được bão cấp 12. Tuy nhiên do
mức đảm bảo của đê liên quan đến yếu tố kinh tế - kỹ thuật và tiềm lực của Quốc
gia, đồng thời ngoài việc củng cố bản thân con đê vẫn có những biện pháp khác để
nâng mức đả
m bảo khả năng chống đỡ của con đê. Do vậy hiện nay chọn mức đảm
bảo cho đê là chống gió bão cấp 10, đối với những khu dân cư chọn cấp 12, mức
triều tần suất 5%.
(ii) Về tuyến: Việc lựa chọn tuyến đê biển có vai trò quyết định. Đối với
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
21
những tuyến đê hiện có điều chỉnh tuyến về phía đồng, hạn chế những đoạn đê sát
ven biển (như khu vực Ninh Phú - tỉnh Thanh Hoá và một số tuyến đê thuộc tỉnh
Nghệ An, Nam Định, ) hoặc xây dựng đê biển theo 2 tuyến, tuyến ngoài chủ yếu
bảo vệ sản xuất, tuyến trong là tuyến đê dự phòng bảo vệ dân cư. Ngoài ra cần rà
soát xây d
ựng khép kín tuyến đê nhằm đảm bảo hiệu quả trong việc ngăn lũ, ngăn
triều.
(iii) Kết cấu đê biển: Đê phải được xây dựng đồng bộ, kiên cố hơn theo
hướng củng cố vững chắc, làm đâu được đấy.
- Chiều rộng mặt đê tối thiểu phải từ 5,0m đến 6,0m để kết hợp phục vụ giao
thông và là tuyế

n đường đảm bảo an ninh, quốc phòng ven biển;
- Mặt đê cần được cứng hoá bằng bê tông mác tối thiểu 200 dày 0,20m để
không bị xói, sạt, lầy lội khi mưa lớn và nhất là sóng leo tràn qua khi gặp tổ hợp
bão, triều vượt mức thiết kế gây xói lở mặt đê dẫn đến vỡ đê như đã từng xẩy ra
trong bão số 2 và số 7 năm 2005.
- Mái đê phía biển: Đối với đ
oạn trực tiếp biển thường xuyên chịu tác động
của sóng, thuỷ triều cần bảo vệ toàn bộ mái bằng các tấm hoặc cấu kiện bê tông đúc
sẵn mác 200, kích thước tấm (hoặc cấu kiện) bê tông tuỳ theo điều kiện tại từng khu
vực nhưng nên được thiết kế kiên cố đủ đảm bảo không bị phá hỏng khi gặp gió bão
cấp 11, cấp 12 với mức tri
ều tần suất 5% (để thuận lợi cho việc nâng cao mức độ
đảm bảo an toàn của đê biển trong giai đoạn sau này). Từ cơ chế phá huỷ mái đê
phía biển như đã trình bày ở phần trên, thì việc bảo vệ mái đê phía biển bằng cấu
kiện bằng bê tông đúc sẵn là phù hợp. Tuy nhiên, hình dạng cấu kiện bê tông đúc
sẵn không phải là yếu tố quyết định đến s
ự ổn định của đê biển mà chủ yếu phụ
thuộc vào chiều dày, trọng lượng cấu kiện và mác bê tông.
- Mái đê phía đồng: Tuỳ theo từng khu vực cụ thể có biện pháp gia cố bằng
việc trồng cỏ vetiver, bằng đá lát, đá xây, v.v để chống xói, sạt khi sóng leo tràn
qua đỉnh đê gây xói lở mái đê, mặt đê gây sập mái đê phía biển dẫn đến vỡ đê như
đ
ã xẩy ra trong bão số 7 năm 2005.
- Đối với những khu vực đê đi qua nền địa chất yếu cần có biện pháp xử lý
gia cố nền bằng các biện pháp truyền thống cũng như áp dụng các công nghệ mới
bảo đảm ổn định lâu dài.
(iv) Bãi trước đê:
- Đối với khu vực đã có bãi: Ưu tiên sử dụng giải pháp trồng cây chắn sóng,
đặc biệt là trong phạm vi bảo vệ
đê điều. Chiều rộng dải cây tối thiểu là 200m để

đảm bảo hiệu quả cắt giảm sóng.
Trường hợp bãi trước đê rộng có thể xem xét cho khai thác một phần diện
tích phục vụ nuôi trồng thuỷ sản nhưng phải đảm bảo cách xa chân đê tối thiểu
200m theo như qui định tại Nghị định 171/2003/NĐ-CP ngày 26/12/2003 của Chính
phủ, đồng thời không được đắp b
ờ bao khép kín làm chết cây chắn sóng trước đê.
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
22
Khu vực bãi hiện đang nuôi trồng thuỷ sản, làm muối, khai thác du lịch trước đê thì
cần có phương án, kế hoạch cụ thể đền bù cho nhân dân và thu hồi phần đất đã giao
sử dụng cho các mục đích khác để trồng cây chắn sóng.
- Đối với các khu vực chưa có bãi hoặc khu vực biển tiến: Xây dựng công
trình giữ bãi bảo vệ đê biển như xây dựng hệ thống kè mỏ hàn ngang, mỏ hàn d
ọc
để chống hạ thấp bãi (có thể gồm cả mỏ hàn cứng truyền thống như ống buy bê tông
đúc sẵn, mỏ hàn kết cấu mềm như lươn cát, )
- Đối với những khu vực chưa có bãi: Có biện pháp tạo bãi như gây bồi,
phun cát nuôi bãi, sau đó trồng cây chắn sóng để đảm bảo ổn định lâu dài.
(v) Các cống dưới đê: Củng cố, nâng cấp đảm bảo phù hợp vớ
i quy hoạch
phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu tránh trú bão của ngư dân theo hướng gom
cống để hạn chế số lượng cống dưới đê.
Về lâu dài, để nâng tiếp tục mức bảo đảm an toàn của đê biển, trên cơ sở
tuyến đê đã được củng cố, nâng cấp sẽ kết hợp với các biện pháp khác như trồng
cây tạo rừng ngậ
p mặn chắn sóng, xây dựng hệ thống mỏ hàn tạo bãi, bơm cát nuôi
bãi nhằm giảm sóng, v.v
1.5. CÁC GIẢI PHÁP CỦNG CỐ, NÂNG CẤP ĐÊ BIỂN
1.5.1. Giải pháp về tuyến (tuyến đê hiện có)

Củng cố, nâng cấp trên cơ sở các tuyến đê hiện có, xem xét điều chỉnh một
số vị trí cục bộ để ổn định lâu dài, hiệu quả kinh tế trên cơ sở bảo
đảm tính thống
nhất và kế thừa tuyến đê hiện có. Việc lựa chọn tuyến đê có rừng cây chắn sóng
trước đê, sự ổn định của bãi trước đê là rất quan trọng đối với sự ổn định đê biển.
Qua thực tế cho thấy nếu phía ngoài đê biển có rừng ngập mặn bảo vệ (như đê biển
ở Thái Bình, Ninh Bình, một số
đoạn đê biển Hải Phòng), hay trước đê có bãi cao
thì hiệu quả chống sóng, giữ ổn định đê biển được nâng cao đáng kể.
1.5.2. Giải pháp công trình
(i). Nâng cao trình đỉnh đê:
- Đắp tôn cao đê hoặc xây tường chắn sóng đối với những tuyến đê hiện có
chưa đảm bảo cao trình theo mức thiết kế.
- Đối với trường hợp vượt mức thiết kế vẫn có th
ể đảm bảo an toàn cho đê
bằng cách gia cố mặt đê và mái đê phía đồng, đồng thời tăng cường công tác hộ đê.
(ii). Mở rộng, hoàn chỉnh mặt cắt đê:
Đắp mở rộng mặt cắt đê, mặt đê tối thiểu phải rộng 5m, tuỳ theo yêu cầu của
từng đoạn, những đoạn chiều cao đê lớn hơn 5m cần đắ
p thêm cơ đê để đảm bảo ổn
định. Về kỹ thuật đắp đê kết hợp hài hoà 2 phương pháp:
+ Phương pháp gia tải dần: Đây là phương pháp truyền thống phù hợp với
việc đắp đê trên nền đất yếu giảm giá thành xây dựng.
Tổng quan phương pháp thiết kế và thi công đê biển vật liệu địa phương từ Quảng Ninh đến Quảng Nam
ĐVTH: Trung tâm Thủy công - VKHTL
23
+ Phương pháp đắp có xử lý nền: Phương pháp này đảm bảo thi công nhanh
nhưng kinh phí đầu tư lớn.
(iii). Gia cố mặt đê:
Gia cố mặt đê bằng bê tông đảm bảo ổn định chống xói mòn, kết hợp phục

vụ giao thông nông thôn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, ứng cứu, hộ
đê trong mùa mưa, bão. Đồng thời về lâu dài các tuyến đê biển cần nâng tầm lên là
tuyến giao thông trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế ven biển, du lịch và tạo
tuyến vành đai bảo vệ quốc phòng, an ninh.
(iv). Bảo vệ mái đê phía biển:
- Xây dựng kè bảo vệ mái đê phía biển bằng cấu kiện phù hợp, bảo đảm ổn
định và mỹ quan công trỡnh.
- Xây dựng hệ thống mỏ hàn giữ bói hoặc kè giảm súng.
- Tạo rừng ngập mặn chống sóng b
ảo vệ đê, đồng thời cải tạo hệ sinh thái
ven biển tại các khu vực có điều kiện trồng cây chắn sóng.
(v). Bảo vệ mái đê phía đồng:
- Gia cố bằng vật liệu cứng, trồng cỏ mái phía đồng tại những đoạn đê chịu
tác động mạnh của sóng.
- Xây dựng các đường ngang (đường xương cá) phía đồng: Vừa để kết hợp
cứu h
ộ, cứu nạn khi cần vừa giảm diện tích ngập lụt khi xẩy ra tình huống vỡ đê
giảm thiểu thiệt hại.
(vi). Đối với đê vùng cửa sông không chịu tác động mạnh của sóng: Trồng
cỏ mái thượng lưu và mái hạ lưu.
(vii). Đối với đê miền trung: Gia cố bảo vệ 3 mặt để đảm bảo ổn định khi lũ,
triều vượt t
ần suất thiết kế.
(viii). Qui hoạch, xây dựng, nâng cấp các cống dưới đê bảo đảm an toàn đê
và phù hợp với sự phát triển sản xuất, tiêu úng, kiểm soát mặn,
1.4.3. Giải pháp phi công trình
- Tăng cường công tác dự báo, cảnh báo nguy cơ sạt lở, xói mòn bãi biển, bờ
biển.
- Nghiên cứu ban hành các văn bản mang tính pháp lý để quản lý vùng bãi
ven biển nhằm hạn chế thiệt hại do việc xây dựng công trình, nhà cửa vào các khu

vự
c bờ biển có nguy cơ sạt lở.
- Tăng cường công tác quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản tại các khu
vực bờ biển, nhất là tại các khu vực bãi biển được bồi đắp sau khi xây dựng các
công trình giữ bãi, gây bồi.

×