Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

LS-thegioi-CD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.45 KB, 68 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
F 7 G






GIÁO TRÌNH
LỊCH SỬ THẾ GIỚI
CỔ ĐẠI





NGUYỄN GIA PHU


Lòch sử thế giới Trung Đại - 1 -
MỤC LỤC
PHẦN I. XÃ HỘI NGUYÊN THỦY ................................................................4
I. Bầy người nguyên thủy. ........................................................................... 4
II. Công xã thò tộc....................................................................................... 5
III. Văn hóa nguyên thủy............................................................................. 9
PHẦN II. LỊCH SỬ PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI ...........................................11
B
ÀI
1.



A
I
C
ẬP CỔ ĐẠI
........................................................................................11
I. Đòa lý và cư dân..................................................................................... 11
II. Các thời kỳ lòch sử của Ai Cập cổ đại.................................................. 11
III. Tình hình kinh tế xã hội và bộ máy nhà nước. .................................... 14
B
ÀI
2.

LƯỢNG



CỔ

ĐẠI............................................................................19
I. Đòa lý và cư dân..................................................................................... 19
II. Các quốc gia ở Lưỡng Hà cổ đại ......................................................... 19
B
ÀI
3.

ẤN

ĐỘ


CỔ

ĐẠI ....................................................................................23
I. Đòa lý và cư dân..................................................................................... 23
II. Văn hóa Haráppa................................................................................. 23
III. THỜI KỲ VÊ ĐA................................................................................. 24
IV. ẤN ĐỘ TỪ THẾ KỶ VI TCN ĐẾN THẾ KỶ III CN. ........................... 26
B
ÀI
4.

TRUNG

QUỐC

CỔ

ĐẠI.......................................................................33
I. Đòa lý và cư dân..................................................................................... 33
II. Các triều đại Hạ, Thương, Chu. ........................................................... 33
III. Tình hình kinh tế xã hội. ..................................................................... 37
PHẦN III. LỊCH SỬ HY LẠP VÀ LA MÃ CỔ ĐẠI....................................42
B
ÀI
1.

H
Y
L
ẠP CỔ ĐẠI

.......................................................................................42
I. Đòa lý và cư dân..................................................................................... 42
II. Văn hoá Crét Myxen và thời Hôme:..................................................... 42
III. Thời kì thành bang: ( Thế kỷ VIII – IV TCN ) ..................................... 43
IV. Sự thiết lập quyền bá chủ ở Hy Lạp và cuộc chinh phục phương Đông
của Makêđônia:........................................................................................ 49
B
ÀI
2.

LA



CỔ

ĐẠI ....................................................................................52
I. Đòa lý và dân cư: ................................................................................... 52
II. Thời kỳ cộng hòa.................................................................................. 52
III. Thời kỳ quân chủ................................................................................. 61

Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 2 -
LỜI NÓI ĐẦU

Lòch sử thế giới cổ đại là lòch sử giai đọan có nhà nước đầu tiên trên
thế giới. Tuy nhiên trước khi giới thiệu lòch sử cổ đại các nước phải tìm hiểu
giai đoạn đầu tiên của lòch sử loài người, đó là giai đoạn xã hội nguyên
thủy. Vì vậy, lòch sử xã hội nguyên thủy được ghép vào lòch sử cổ đại.

1. Lòch sử thế giới cổ đại gồm hai phần: Lòch sử các nước Phương
Đông cổ đại và lòch sử Hy Lạp, La Mã (Roma) cổ đại.
a. Lòch sử Hy Lạp La Mã cổ đại là lòch sử xã hội chiếm nô. Đó là
một xã hội trong đó có hai giai cấp đối kháng cơ bản là giai cấp chủ nô và
giai cấp nô lệ.
Giai cấp chủ nô chiếm hữu hầu hết tư liệu sản xuất trong xã hội và
chiếm hữu cả người nô lệ như một thứ tài sản. Trên cơ sở đó, giai cấp chủ
nô cưỡng bức nô lệ lao động sản xuất để chiếm đoạt thành quả lao động của
họ.
b. Lòch sử Phương Đông cổ đại là lòch sử các nước Ai cập cổ đại, các
quốc gia cổ đại vùng Lưỡng Hà, n Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại.
Lòch sử Phương Đông cổ đại về mặt phương thức sản xuất không
giống Hy Lạp và La Mã cổ đại. Tuy vậy, có một số học giả nước ngoài vẫn
cho xã hội Phương Đông cổ đại là xã hội chiếm nô song đó là một kiểu
chiếm nô khác với chế độ chiếm nô ở Hy Lạp La Mã cổ đại.
Sự thực xã hội phương Đông cổ đại không phải là xã hội chiếm nô.
Từ năm 1924, chủ tòch Hồ Chí Minh đã nói: “… n Độ hay Trung
Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời trung
cổ, cũng như thời cận đại…
Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất đònh của
lòch sử , nhưng lòch sử nào? Lòch sử châu Âu.Mà lòch sử châu Âu là gì ? Đó
chưa phải là toàn thể nhân loại.
Mác cho ta biết rằng sự tiến triển các xã hội phải trải qua ba giai
đoạn: chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản … Chúng ta phải coi
chừng! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu không ? “
(1)

Tình hình cụ thể của xã hội phương Đông cổ đại là:
- Ngành kinh tế quan trọng nhất là nông nghiệp.


1 Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập I.NXB Chính trò Quốc gia. Sự Thật. Hà Nội.1995. Trang 465.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 3 -
- Tư liệu sản xuất chủ yếu của nông nghiệp là ruộng đất, nhưng ở
đây đại bộ phận ruộng đất thuộc quyần sỡ hữu của nhà nước.
- Trong xã hội tuy cũng tồn tại giai cấp nô lệ, nhưng giai cấp đông
đảo nhất là nông dân và nông dân là giai cấp giữ vai trò quan trọng nhất
trong lónh vực lao động sản xuất. Hình thức bóc lột chủ yếu là thuế do nông
dân nộp cho nhà nước.
2. Về mặt thời gian, lòch sử Hy Lạp và La Mã cổ đại bắt đầu từ khi
nhà nước ra đời đến năm 476 tức là năm đế quốc Tây La Mã diệt vong. Sự
kiện đó vừa đánh dấu chế độ chiếm nô chấm dứt vừa đánh dấu sự kết thúc
của giai đoạn lòch sử cổ đại ở phương Tây để chuyễn sang giai đoạn trung
đại.
Cò ở phương Đông, do phương thức sản xuất thời cổ đại và thời trung
đại không khác nhau nhiều lắm nên không những không thể tìm một mốc
lòch sử chung đánh dấu sự kết thúc thời cổ đại cho cả phương Đông mà tìm
những mốc riêng cho từng nước cũng chỉ là một việc làm có tính chất quy
ước. Ví dụ
Khi nhận đònh về đặc điểm đó của xã hội n Độ Mác nói:
“ Dù những thay đổi về chính trò trong qúa khứ của n Độ có lớn lao
đến như thế nào chăng nưã thì những điều kiện xã hội của Ấn Độ vẫn
không hề thay đổi từ thời cổ đại hết sức xa xôi cho đến mười năm đầu tiên
của thế kỷ XIX”
(
1
)
.
Như vậy dù hiện nay các học giả đều lấy năm 320 là năm vương

triều Gupta thành lập làm mốc kết thúc lòch sử n Độ cổ đại, nhưng đó
cũng chỉ là một quy ước chứ không phải trong giai đoạn trước và sau năm
320 ở n Độ có sự khác nhau rõ rệt về tình hình xã hội.
*
* *
Đây chỉ là bản tóm tắt Lòch sử thế giới cổ đại. Bản tóm tắt này chỉ
mới giới thiệu khái quát nội dung chủ yếu của thời kỳ lòch sử này, đồng thời
chỉ mới nêu ra những vấn đề chính trong từng bài từng mục.
Vì vậy, để nắm được tương đối rõ nội dung của phần lòch sử này, sau
khi đọc các bài trong bảng tóm tắt, học viên phải đọc thêm quyển “Lòch sử
Thế giới cổ đại” của các tác giả Lương Ninh (chủ biên) Đinh Ngọc Bảo,
Đặng Quang Minh, Nguyễn Gia Phu, Nghiêm Đình Vỹ do Nhà xuất bản
Giáo Dục xuất bản.

1 C.Mác và Ph. ngghen. Toàn tập. Tập 9.NXB Chính Trò Quốc Gia. Sự Thật. Hà Nội.1993. Trang 174.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 4 -
Phần I.


HỘI

NGUYÊN

THỦY
Xã hội nguyên thủy là giai đoạn đầu tiên trong qúa trình phát triển của
lòch sử loài người. Giai đoạn này bắt đầu từ khi loài người xuất hiện cho đến
khi nhà nước ra đời, dài hàng triệu năm.
Xã hội nguyên thủy chia làm hai thời kỳ lớn là thời kỳ bầy người nguyên

thủy và thời kỳ công xã thò tộc.
I.
Bầy người nguyên thủy.
1. Nguồn gốc loài người.
Từ rất sớm, người ta đã muốn tìm hiểu về nguồn gốc của loài người
nhưng vì chưa có ánh sáng khoa học dọi vào nên chưa giải thích được một
cách đúng đắn.
Đến thế kỷ XIX, nhà sinh vật học người Anh tên là Đác-uyn mới giải
quyết được vấn đề đó. Trong tác phẩm “Nguồn gốc các loài
” (1859) và
“Nguồn gốc loài
người và sự chọn lọc giới tính” (1871), Đác-uyn đã nêu ra
rằng loài người bắt nguồn từ một giống vượn hình người gọi là Vượn người.
Từ đó đến nay, giới khảo cổ học của nhiều nước đã phát hiện được xương
hoá thạch của loài vượn người này ở nhiều nơi trên thế giới như ở o, n
Độ, Châu Phi…
2. Tác dụng của lao động trong việc chuyển biến từ vượn thành người.
Nhờ lao động, các bộ phận của vượn người dần dần phát triển, do đó
vượn người đã biến thành người. Cụ thể là:
- Trước hết, hai tay ngày càng phát triển. Tay không còn dùng để đi
nữa mà dùng để lao động.
- Thứ hai, trong qúa trình lao động, họng và thanh đới ngày càng phát
triển. Hơn nữa, trong qúa trình lao động tập thể, họ cần phải truyền tín hiệu
cho nhau, do đó tiếng nói đã sinh ra.
- Thứ ba, do lao động bộ óc của vượn ngày càng phát triển.
3. Qúa trình tiến triển của loài người.
Sau khi thoát khỏi giới động vật, trong qúa trình tiến triển, loài người
đã trải qua các chặng đường sau đây :
- Người vượn
: Đến nay giới khảo cổ học đã phát hiện được xương

hóa thạch của người vượn ở nhiều nơi như Giava (Inđônêxia), Trung quốc,
Châu Phi. Ở Việt nam, tại hang Thẩm Khuyến, và Thẩm Hai ở Lạng Sơn
cũng tìm thấy răng của người vượn. Những xương hóa thạch của những
người vượn đã phát hiện được có niên đại từ khoảng 40 vạn năm đến 4 triệu
năm.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 5 -
Người vượn về mặt cơ thể còn giữ lại nhiều dấu vết của vượn.
- Người cổ
: Xương hóa thạch của loại người này tìm thấy lần đầu tiên
vào năm 1856 tại hang Nêanđéctan ở Đức. Người Nêanđéctan đã biết cách
đập đá lấy lửa, từ đó loài người mới biết ăn thức ăn chín, do đó sinh lý
người thay đổi và cơ thể người cũng hoàn thiện hơn một bước. Tuy vậy
người cổ vẫn chưa loại bỏ hết dấu vết của vượn. Người Nêanđéctan có niên
đại cách đây khoảng 10 vạn năm. Ngoài Đức, người ta còn tìm thấy ở nhiều
nơi khác như Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Trung Á, Trung quốc v.v…
- Người hiện đại
: Đến khỏang 4 vạn năm trước đây, loài người mới
hoàn toàn biến thành người hiện đại, còn gọi là người tinh khôn. Xương hoá
thạch của người tinh khôn tìm được ở nhiều nơi như Châu Âu, Châu Phi,
Trung Á, Trung quốc…,trong đó người Crô-Manhông (Cro-Magnon) tìm
thấy ở Pháp năm 1865 được coi là tiêu biểu.
Cùng với sự hình thành người hiện đại, ba chủng tộc vàng, trắng, đen
cũng xuất hiện.
4. Đời sống của bầy người nguyên thủy.
Trong qúa trình hình thành loài người, con người đã biết dùng công
cụ đá thô sơ để lao động. Về khảo cổ học thời kỳ này gọi là thời kỳ đồ đá
cũ.
Họ sống bằng những thức ăn nhặt được trong thiên nhiên. Hình thức

kinh tế ấy gọi là kinh tế hái lượm.
Họ sống thành từng đàn trong các hang núi, nhưng chưa có những quy
đònh về tổ chức xã hội, vì vậy những tập thể người ấy được gọi là bầy người
nguyên thủy.
Về quan hệ hôn nhân, nhiều người cho rằng lúc đầu chỉ có quan hệ
tap giao, về sau thì có sự phân biệt theo lứa tuổi. Tuy vậy có một số người
qua việc quan sát đời sống của một số nhóm động vật cấp cao đã phản đối
thuyết đó.
II.
Công xã thò tộc.
Từ khi người hiện đại xuất hiện thì xã hội loài người cũng bước vào
giai đoạn có tổ chức. Cơ sở của tổ chức ấy là cùng chung dòng máu, vì vậy
những tổ chức xã hội đầu tiên ấy gọi là những công xã thò tộc.
Công xã thò tộc trải qua hai giai đoạn phát triển: Thò tộc mẫu hệ và
thò tộc phụ hệ.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 6 -
1. Thò tộc mẫu hệ
a. Sự phát triển của sức sản xuất.
Đồ đá là loại công cụ đầu tiên của loài người. Trong qúa trình lao
động, tuy chậm chạp, nhưng đồ đá cũng được cải tiến. Căn cứ theo đặc
điểm chế tác, đồ đá chia làm ba thời kỳ:
Đồ đá cũ.
Đồ đá giữa.
Đồ đá mới.
Đồ đá cũ là đồ đá chưa được gia công, về thời gian của các thời kỳ
này ở các nơi trên thế giới không đồng đều, nhưng đại thể là đến khoảng
14.000 năm trước công nguyên thì thời kỳ đồ đá cũ kết thúc.
Đồ đá giữa (từ khoảng 14.000 – 8000 TCN) còn gọi là đồ đá nhỏ.

Đặc điểm của loại đồ đá này là có nhiều hình dạng, về cơ bản cũng chưa
được gia công.
Trong thời kỳ này, loài người có một số phát minh quan trọng:
- Nuôi chó.
- Cung tên.
- Làm thuyền.
Nhờ vậy, về kinh tế đã qúa độ từ hái lượm sang trồng trọt và chăn
nuôi.
Thời đại đồ đá mới (8000 – 4000 TCN): đặc điểm đồ đá của thời kỳ
này là đồ đá mài.
Trong thời kỳ này, nông nghiệp dùng cuốc, chăn nuôi, thủ công
nghiệp đã trở thành những nghề quan trọng.
b. Tổ chức thò tộc mẫu hệ.
Vào thời hậu kỳ đồ đá cũ, công xã thò tộc bắt đầu ra đời. Trong điều
kiện kinh tế lúc bấy giờ, vai trò người phụ nữ rất quan trọng, vì vậy khi xã
hội thoát khỏi tình trạng bầy người nguyên thủy thì tế bào của xã hội có tổ
chức đầu tiên là các thò tộc mẫu hệ.
Hơn nữa, về quan hệ hôn nhân, nhiều người cho rằng, trong thời kỳ
này đã tồn tại chế độ quần hôn tức một nhóm nữ thanh niên của thò tộc này
kết hôn với một nhóm nam thanh niên của thò tộc kia. Do vậy, con cái sinh
ra chỉ biết mẹ mà không biết cha, cho nên phải lấy theo họ mẹ.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 7 -
Trong thời kỳ công xã thò tộc mẫu hệ, mọi tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt đều là của chung. Do chưa có của riêng nên chưa có giai cấp, mọi
người đều bình đẳng.
Tuy người đứng đầu thò tộc là một phụ nữ, nhưng nam nữ đều bình
đẳng và đều được tham dự đại hội toàn thò tộc.
Dần dần do số người trong thò tộc tăng lên, thò tộc được chia thành hai

ba thò tộc mới. Những thò tộc mới này vẫn giữ quan hệ với nhau và lập thành
một tổ chức gọi là bào tộc. Khi các thò tộc mới này qúa đông thì mỗi thò tộc
lại trở thành một bào tộc mới. Bào tộc cũ giờ đây trở thành bộ lạc. Do
những quyền lợi chung, nhiều bộ lạc gần nhau thường tổ chức thành liên
minh bộ lạc.
2. Thò tộc phụ hệ.
a. Sự phát triển của sức sản xuất.
Vào khoảng 4000 TCN, đồ kim loại bắt đầu ra đời.
Thời đại kim loại chia làm hai thời kỳ: đồ đồng và đồ sắt.
Thời kỳ đồ đồng lại chia làm hai thời kỳ nhỏ: Thời kỳ đồng đá (thời
kỳ đồng đỏ) và thời kỳ đồng thau. Đồng thau tức là loại đồng pha thiếc, so
với đồng đỏ có hai ưu điểm là cứng và độ nóng chảy thấp (700 – 900
o
).
Thời kỳ đồ sắt ra đời sớm nhất vào khoảng cuối thiên kỷ II TCN ở
vùng Tây Á, Ai Cập.
Sự tiến bộ về công cụ sản xuất đã làm cho các ngành nghề càng phát
triển.đặc biệt là, trước kia, trong nông nghiệp chỉ mới dùng cuốc nên thích
hợp với sức khỏe của phụ nữ, giờ đây chuyễn sang dùng cày do súc vật kéo,
việc đó chỉ có đàn ông khỏe mạnh mới đảm nhiệm được. Đồng thời nghề
chăn nuôi các đàn gia súc lớn như cừu, bò, ngựa… cũng phát triển. Đây
cũng là một công việc đòi hỏi sức khỏe và sự dũng cảm.
b. Sự phân công lao động xã hội.
Đến thời kỳ này, do sự phát triển của các ngành kinh tế, trong xã hội
diễn ra ba lần phân công lao động lớn:
- Lần phân công lao động lớn thứ nhất là việc nghề chăn nuôi tách
khỏi nghề nông.
- Lần phân công lao động lớn thứ hai là thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp.
- Lần phân công lao động lớn thứ ba là sự ra đời của thương nghiệp.

Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 8 -
c. Công xã thò tộc phụ hệ.
Do sự thay đổi trong đới sống kinh tế, giờ đây vai trò của phụ nữ trở
thành thứ yếu, trái lại vai trò của đàn ông trong lao động sản xuất trở nên
quan trọng nhất. Chính vì thế chế độ mẫu quyền phải nhường chỗ cho chế
độ phụ quyền.
Đến đây,trong quan hệ hôn nhân cũng có sự thay đổi lớn. Vào cuối
thời công xã thò tộc mẫu hệ đã xuất hiện một hình thức hôn nhân gọi là hôn
nhân đối ngẫu (hôn nhân từng cặp), trong đó chồng phải đến ở trong thò tộc
của vợ. Nay vợ phải sang ở bên nhà chồng và con cái sinh ra được tính theo
họ cha. Như vậy các gia đình phụ quyền đã xuất hiện. Nhiều gia đình họp
thành gia tộc, nhiều gia tộc họp thành thò tộc. Đứng đầu thò tộc phụ hệ là
một tộc trưởng nam giới. Trong thò tộc phụ hệ, mọi sinh hoạt dân chủ vẫn
được duy trì, nhưng trong các cuộc họp ấy chỉ có đàn ông được tham gia mà
thôi.
Thời kỳ thò tộc phụ hệ là thời kỳ tan rã của công xã nguyên thủy.
Trong thời kỳ này đã xuất hiện một số hiện tượng mới sau đây:
- Chế độ của riêng
: Do nông nghiệp và chăn nuôi phát triển, người ta
có khả năng sản xuất được nhiều tư liệu hơn so với số tư liệu cần thiết cho
đời sống của họ. Vì vậy trong xã hội đã có một số của cải dư thừa. Ngoài ra,
các chiến lợi phẩm thu được trong các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc càng
làm tăng thêm số của cải dư thừa ấy. Những của cải dư thừa thường thuộc
những người đứng đầu các gia tộc, thò tộc và bộ lạc.
- Nô lệ ra đời
: Trước đây, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh
hoặc bò giết chết hoặc biến thành thành viên của thò tộc. Giờ đây, do sức lao
động của con người có khả năng sản xuất được nhiều hơn so với số tư liệu

cần thiết cho đời sống của họ, vì vậy người ta đã biến tù binh thành nô lệ để
làm việc cho những người đứng đầu thò tộc bộ lạc. Như vậy, trong xã hội đã
xuất hiện kẻ giàu người nghèo và đồng thời có sự phân biệt giữa người tự
do và nô lệ.
- Công xã nông thôn xuất hiện: Do sự ra đời của các gia đình cá thể,
do sự phát triển của hiện tượng phân hóa giàu nghèo, do sự di cư của những
gia đình nghèo khổ, công xã thò tộc được ràng buộc bằng quan hệ máu mủ
tan rã. Những gia đình cùng ở trên một khu vực đất đai do nhu cầu phải hợp
tác với nhau để chinh phục thiên nhiên đã lập thành những công xã nông
thôn.
Công xã nông thôn khác công xã thò tộc ở hai điểm chủ yếu:
+ Cơ sở của công xã nông thôn là khu vực đất đai chứ không phải là
dòng máu.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 9 -
+ Có hai hình thức sở hữu tài sản là sở hữu chung và sở hữu riêng,
trong đó đất đai là của chung. Ruộng đất canh tác do công xã đònh kỳ phân
chia cho các gia đình nông dân cày cấy. Ngoài đất đai gồm ruộng đất canh
tác, bãi cỏ, rừng núi ao hồ ra, những tài sản còn lại như vườn tược nhà cửa,
thu hoạch trên các phần đất được chia v.v… đều thuộc quyền sở hữu riêng
của nông dân công xã.
Như vậy, công xã nông thôn là công xã cuối cùng của xã hội nguyên
thủy, là thời kỳ qúa đo ätừ che áđộ công hữu sang chế độ tư hữu, đồng thời là
hình thức qúa độ từ xã hội nguyên thủy sang xã hội có giai cấp.
-Chế độ dân chủ quân sự xuất hiện
: Đến giai đoạn cuối của xã hội thò
tộc, các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc thường xẩy ra. Để chỉ huy các
cuộc chiến tranh ấy, các bộ lạc thường cử một người làm thủ lónh quân sự.
Tuy rằng thủ lónh quân sự đã trở thành một nhân vật có nhiều quyền hành,

nhưng đồng thời các hình thức sinh hoạt dân chủ như đại hội nhân dân vẫn
được duy trì. Do thời kỳ này vừa có thủ lónh quân sự vừa duy trì sinh hoạt
dân chủ nên chế độ ấy gọi là chế độ dân chủ quân sự.
Chế độ dân chủ quân sự chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ở một số
nơi trên thế giới mà thôi. Tuy vậy chế độ dân chủ quân sự cũng là một hình
thức qúa độ sang xã hội có nhà nước.
Đến cuối thiên kỷ IV đầu thiên kỷ III TCN, do sự phát triển của hiện
tượng phân hóa giai cấp, ở một số nơi như Ai Cập, Tây Á, n Độ, Đông
Nam Âu, nhà nước đã ra đời. Tại những nơi ấy, xã hội nguyên thủy đến đây
đã kết thúc.
III.
Văn hóa nguyên thủy.
Trong giai đoạn nguyên thủy, loài người đã tích lũy được một số kiến
thức về các mặt như y dược, số học, sinh học… và cũng đạt được một số
thành tựu về văn học nghệ thuật, nhưng những thành tựu phong phú nhất là
về mặt tôn giáo và nghệ thuật.
1. Tôn giáo.
Biểu hiện của quan niệm tôn giáo của người nguyên thủy gồm các
mặt sau đây:
a. Tô tem giáo:
Người nguyên thủy thường có quan niệm rằng người và một loại
động vật hay thực vật nào đó vốn có quan hệ họ hàng với nhau, vật đó cùng
sinh ra đồng thời với thò tộc. Vật đó được gọi là vật tổ (tô tem). Người mới
sinh ra tức là do vật tổ nhập vào thân thể của bà mẹ rồi sinh ra, người chết
thì lại biến thành vật tổ. Thò tộc thờ vật tổ nào thì kiêng giết hại hoạc ăn thòt
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 10 -
động vật ấy. Về sau có một số động vật người ta chỉ kiêng ăn một bộ phận
nào đó như đầu, gan… mà thôi.

b. Thờ linh hồn người chết:
Người nguyên thủy tin rằng con người có linh hồn, do đó sau khi chết,
con người sẽ sống ở một thế giới khác. Xuất phát từ quan niệm ấy, người
nguyên thủy đã đặt ra nhiều nghi lễ trong việc mai táng, đồng thời còn chôn
theo người chết nhiều đồ dùng hàng ngày.
c. Thờ các vật tự nhiên:
Xuất phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh”, người nguyên thủy thờ
nhiều thứ như mặt trời, nước, lửa, đá v.v… trong đó đặc biệt nhất là thờ các
tảng đá lớn. Ngày nay ở nhiều nơi vẫn còn những tảng đá xếp thành vòng
tròn hoặc xếp thành hàng dài. Ví dụ ở Pháp có một bãi đá gồm 2813 tảng
đá lớn xếp thành 13 hàng dài, trong đó tảng đá lớn nhất cao 20 m, nặng 300
tấn. Ngoài ra còn có những bàn đá hoặc nhà nhỏ làm bằng đá.
Đến cuối thời nguyên thủy, nội dung và hình thức của tôn giáo càng
phức tạp, qủy thần càng nhiều,do đó tầng lớp thầy cúng đã ra đời.
2. Nghệ thuật:
Nghệ thuật thời nguyên thủy được bảøo tồn đến ngày nay gồm những
tác phẩm thuộc hai lónh vực hội họa và điêu khắc. Trên váchcác hang đá ở
nhiều nơi nay còn giữ lại nhiều bức tranh khá sinh động vẽ các con vật,
cảnh săn bắn, cảnh chiến tranh v.v….
Về điêu khắc, đề tài chủ yếu là các động vật và phụ nữ.
*
* *
Đặc điểm của xã hội công xã nguyên thủy
:
1. Quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, do đó sản phẩm làm ra cũng là của chung. Bởi vậy thời kỳ này chưa
có giai cấp, chưa có hiện tượng áp bức bóc lột, chưa có nhà nước.
2. Lực lượng sản xuất của thời kỳ này còn rất thấp kém, đời sống của
con người hết sức gian khổ, xã hội phát triển rất chậm chạp.
Nội dung ôn tập

.
1/ Qúa trình hình thành loài người.
2/ Tình hình công xã thò tộc mẫu hệ và thò tộc phụ hệ (chú ý những
đặc đểm chính của công xã thò tộc và sự khác nhau giữa công xã thò tộc và
công xã nông thôn).
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 11 -
Phần II.
L
ỊCH SỬ
P
HƯƠNG
Đ
ÔNG CỔ ĐẠI

Bài 1.
Ai Cập cổ đại
I.
Đòa lý và cư dân.
Ai cập ở vùng Đông bắc Châu Phi, nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu
vực sông Nin. Sông Nin bắt nguồn từ vùng xích đạo của Châu Phi, dài 6700
Km, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700 km. Miền đất đai do sông Nin
bồi đắp chỉ rộng từ 15-25 km, ở phí Bắc có nơi rộng đến 50 km vì ở đây
sông Nin chia làm nhiều nhánh trước khi đổ ra biển.
Hàng năm, từ tháng 6 đến tháng 11,nước sông Nin dâng cao đem theo
một lượng phù sa rất phong bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày
càng thêm màu mỡ. Chính vì vậy nền kinh tế ở đây phát triển sớm tạo điều
kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế giới.
Tuy vậy, về mặt đòa hình, Ai Cập là một nước tương đối bò đóng kín:

Phía Bắc giáp Đòa Trung Hải, phía Đông giáp biển Đỏ, phiá Tây giáp sa
mạc Xahara, phía Nam giáp một vùng núi hiểm trở khó qua lại của Nubi.
Chỉ có ở Đông Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập cổ đại mới
có thể qua lại với vùng Tây Á.
Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin từ Nam
lên Bắc: miền Thượng Ai Cập (miền Nam) là một dải lưu vực hẹp; miền Hạ
Ai Cập (miền Bắc) là một đồng bằng hình tam giác.
Cư dân Ai Cập thời cổ đại là người Libi, người da đen và có thể có cả
người Xêmít di cư từ châu Á tới nữa.
II.
Các thời kỳ lòch sử của Ai Cập cổ đại.
Theo Manêtông (Manéthon), một thầy tu kiêm sử gia Ai Cập sống
vào thế kỷ III TCN, tác giả quyển “Lòch sử Ai Cập
” nay đã thất truyền thì
lòch sử Ai Cập cổ đại bao gồm 31 vương triều. Trên cơ sở ấy, người ta chia
lòch sử Ai Cập từ cuối thiên kỷ IV TCN đến cuối thiên kỷ I TCN thành 5
thời kỳ:
- Thời kỳ Tảo vương quốc (3200 – 3000 TCN)
(
1
)

- Thời kỳ Cổ vương quốc (3000 – 2200 TCN).
- Thời kỳ Trung vương quốc (2200 – 1570 TCN).

1 Về niên đại các thời kỳ lòch sử Ai Cập cổ đại, các tài liệu đưa ra những con số khác nhau, vì vậy những con số này
chỉ có ý nghóa tương đối.- Thời kỳ Tân vương quốc (1570 – 1090 TCN).
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 12 -

- Thời Hậu kỳ vương quốc (1090 – 332 TCN).
1. Thời kỳ Tảo Vương quốc.
Cư dân đầu tiên ở Ai Cập cũng sống trong xã hội nguyên thủy. Đến
thiên kỷ thứ IV TCN, công xã thò tộc tan rã, công xã nông thôn xuất hiện.
Dần dần các công xã nông thôn liên hợp lại thành các châu. Đó là những
nhà nước đầu tiên ở Ai Cập. Tiếp đó các châu lại liên hợp với nhau và hình
thành hai miền gọi là Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập. Đến cuối thế kỷ IV
TCN, hai miền đã đấu tranh với nhau, kết qủa là Thượng Ai Cập đã thống
nhất được Hạ Ai Cập.
Sau khi thống nhất, lòch sử Ai Cập bước vào một thời kỳ gọi là Tảo
vương quốc gồm hai vương triều là Vương triều I và Vương triều II.
2. Thời kỳ Cổ Vương quốc.
Thời kỳ Cổ vương quốc bao gồm 8 vương triều từ vương triều III đến
vương triều X. Đây là thời kỳ lòch sử Ai Cập có một bước phát triển quan
trọng. Chính sự phát triển về kinh tế và sự tăng cường quyền lực của chính
phủ trung ương đã cho phép các Pharaông (vua) thuộc các vương triều III và
vương triều IV có` thể huy động sức người sức của để xây cho mình những
Kim tự tháp nổi tiếng trong lòch sử. Trước kia kinh đô của Ai Cập đóng ở
Abiđốt nhưng bắt đầu từ vương triều III thì chuyển đến Memphít.
Sự thống nhất hùng mạnh của Ai Cập chỉ duy trì được trong hai vương
triều III và IV, tiếp đó Ai Cập bước vào thời kỳ hỗn loạn kéo dài trong
nhiều thế kỷ.
3. Thời kỳ Trung Vương quốc.
Sau một thời gian chia cắt, ở miền Bắc và miền Nam đã hình thành
hai trung tâm của việc thống nhất đất nước là Hêraclêôpôlít và Tebơ
(Thèbes) đến khỏang năm 2200 TCN, một lần nữa, miền Nam lại thống
nhất được cả nước. Vua Mentuhôtép của Tebơ trở thành vua của cả Ai Cập.
Vương triều XI bắt đầu được thành lập. Thời kỳ Trung Vương quốc gồm 7
vương triều (từ vương triều XI đến vương triề XVII), nhưng trong đó thời kỳ
ổn đònh nhất là dưới thời thống trò của vương triều XI và vương triề XII.

Sau đó, thời Trung vương quốc có hai sự kiện nổi bật, đó là cuộc khởi
nghóa của dân ngèo và sự thống trò miền bắc Ai Cập của người Hích Xốt.
- Đến năm 1750 TCN, do chính sách áp bức bóc lột tàn bạo của giai
cấp thống trò, nhân dân ở kinh đô đã nổi dậy khởi nghóa. Quần chúng khởi
nghóa trước hết đến bắt vua, lật đổ chính quyền trung ương. Cả bộ máy
thống trò cũ bò sụp đổ, tất cả những người trong cung bò đuổi khỏi cung đình.
Ngay sau đó, quần chúng khởi nghóa thành lập chính quyền mới, tự qủan lý
các mặt hành chính, tư pháp và tài chính. Tuy vậy, cuối cùng cuộc khởi
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 13 -
nghóa này không tránh khỏi bò thất bại, giai cấp thống trò lại khôi phục được
chính quyền của mình.
- Sau khi dẹp tắt được ngọn lửa đấu tranh của quần chúng nhân
không lâu, Ai Cập bò người HíchXốt,một bộ tộc ở vùng Palextin xâm nhập.
Kết qủa là năm 1710 TCN, người HíchXốt chinh phục được miền Bắc Ai
Cập, lập nên ở đây một vương triều ngoại tộc rồi lấy miền Bắc làm đòa bàn
để khống chế cả miền Nam. Người Hích Xốt thống trò Ai Cập trong vòng
140 năm, đến năm 1570 mới bò đánh đuổi.
4. Thời kỳ Tân vương quốc.
Thời kỳ Tân vương quốc bao gồm 3 vương triều từ vương triều XVIII
đến vương triều XX.
Chính sách thống trò của người Hích xốt làm cho nhân dân Ai Cập hết
sức căm phẫn, vì vậy họ không ngừng nổi dậy đấu tranh. Đến năm 1570,
vua tmét (Ahmès) ở miền Nam đã lãnh đạo nhân dân Ai Cập đánh đuổi
được người Hích Xốt khôi phục nền độc lập và thống nhất cho đất nước.
Atmét là người sáng lập vương triều XVIII, từ đó lòch sử Ai Cập bước vào
thời kỳ Tân vương quốc.
Từ đây, Ai Cập trở thành một nước hùng mạnh. Trên cơ sở ấy, Atmét
và những người kế thừa ông đã thi hành chính sách xâm lược bên ngoài, do

đó đã biến Ai Cập thành một đế quốc có lãnh thổ bao gồm Libi, Nubi ở
Châu Phi và Xiri, Phênixi, Palextin ở Châu Á.
Đến cuối thời vương triều XVIII, ở Ai Cập có một sự kiện quan
trọng, đó là cuộc cải cách tôn giáo của Íchnatôn.
Nguyên nhân của cuộc cải cách tôn giáo này là sau các cuộc chiến
tranh thắng lợi, các Pharaông Ai Cập thường ban cấp nhiều của cải cho các
đền thờ thần mặt trời Amôn, do đó đã làm cho thế lực của tầng lớp tăng lữ
(những người hành nghề tôn giáo) đền thờ thần Amôn nhất là các tăng lữ ở
kinh đô Tebơ mạnh hẳn lên. Dựa vào thế lực kinh tế và uy lực tôn giáo,
tầng lớp tăng lữ trở nên có vai trò quan trọng về chính trò, có thể cử người
của mình làm Tể tướng, biến vua thành bù nhìn.
Vì vậy, đến đầu thế kỷ XIV TCN, vua Amenhôtép IV đã tiến hành
một cuộc cải cách nhằm làm yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ đền thờ thần
Amôn, lòch sử gọi là cuộc cải cách tôn giáo Íchnatôn.
Để thực hiện mục đích của mình, Amenhôtép IV chủ trương thờ một
thần mặt trời khác gọi là thần Atôn, cấm thờ cúng tất cả các thần khác. Ông
còn sai thợ đá đi xóa tên các thần khắc trên tường nhất là tên thần Amôn.
Bản thân ông cũng không dùng hiệu Amenhôtép nữa vì có mang tên thần
Amôn mà đổi thành Íchnatôn nghóa là “Người hầu của thần Atôn”. Hơn nữa
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 14 -
Amenhôtép IV (Íchnatôn) còn bỏ kinh đô Tebơ, nơi thế lực tầng lớp tăng lữ
thờ thần Amôn rất mạnh, xây dựng một kinh đô mới và đặt tên là Akhêtatôn
có nghóa là “Chân trời của thần Atôn”.
Như vậy, về hình thức, cuộc cải cách của Amenhôtép IV là một cuộc
cải cách tôn giáo, nhưng thực chất đó là một cuộc đấu tranh chính trò nhằm
tăng cường quyền lực của vua và chính phủ trung ương.
Những biện pháp cải cách của Amenhôtép IV chỉ được thực hiện
trong thời gian trò vì của ông. Sau khi ông chết, các vua nối ngôi dần dần

xóa bỏ các nội dung cải cách, thậm chí thành Akhêtatôn cũng bò phá hủy.
Trong khi đó, vùng Xiri, Palextin thuộc Ai Cập đang bò người Hítít,
tấn công. Cư dân ở đây liên minh với người Híttít để chống lại Ai Cập.
Đến vương triều XX, chính quyền trung ương càng suy yếu, xu hướng
chia cắt đất nước ngày càng gia tăng. Đến khoảng năm 1090 TCN, thời kỳ
Tân vương quốc kết thúc.
5. Thời Hậu kỳ vương quốc.
Từ vương triều XXI trở đi là thời Hậu kỳ vương quốc trong lòch sử Ai
Cập. Từ đây Ai Cập luôn bò chia cát trầm trọng, do vậy đã thành nơi thống
trò của các thế lực bên ngoài.
Vào giữa thế kỷ X TCN, một thủ lónh quân đội đánh thuê Libi đã
dành được ngôi Pharaông lập ra một vương triều ngoại tộc.
Đến thế kỷ VIII TCN, người Nubi ở phía Nam đã tấn công Ai Cập lật
đổ vương triều của người Libi và thành lập một vương triều ngoại tộc mới
vào năm 726 TCN. Đó là vương triều XXV.
- Năm 671 TCN, Ai Cập lại bò txiri thống trò.
- Năm 654 TCN, một qúy tộc ở miền Bắc đã lãnh đạo nhân dân đánh
đuổi được người txiri lập nên vương triều XXVI (654 – 525 TCN).
- Năm 525 TCN, Ai Cập bò BaTư xâm lược và thống trò (525 – 332
TCN).
- Năm 332 TCN, Ai Cập bò Alếchxăng Makêđônia chinh phục. Sau
khi Alếchxăng chết, Ai Cập thuộc quyền thống trò của tướng Ptôlêmê và
tiếp đó là vương triều Ptôlêmê cho đến năm 30 TCN thì bò nhập vào đế
quốc LaMã.
III.
Tình hình kinh tế xã hội và bộ máy nhà nước.
1. Các ngành kinh tế
a. Công cụ sản xuất:

Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử


Lòch sử thế giới Cổ Đại - 15 -
Thời Cổ vương quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ. Thời Trung vương
quốc đã dùng đồng pha thiếc nhưng tỉ lệ thiếc qúa cao nên chưa gọi là đồng
thau, đồng thời đồng đỏ vẫn giữ vai trò chủ yếu.
Đến thời Tân vương quốc, đồng thau mới được sử dụng rông rãi, về
sau, sắt đã bắt đầu xuất hiện nhưng sắt còn rất hiếm nên được coi là một
kim loại qúy.
b. Nông nghiệp:
Nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế của Ai Cập cổ đại được nhà
nước rất quan tâm.
- Từ thời Tảo vương quốc đã có lễ “xuống cày”. Trong lễ đó, vua đội
mũ miện, cầm cuốc cuốc luống đất đầu tiên. Sau vua, có người cầm giỏ
gieo hạt giống xuống luống đất vua vừa mới cuốc.
- Thủy lợi có vai trò quan trọng đối với nền nông nghiệp của nước
này, vì vậy nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng các công trình thủy
lợi. Đến thời Tân vương quốc, việc tưới nước do quan Tể tướng quản lý.
- Tuy công cụ còn thô sơ nhưng nhờ đất đai màu mỡ lại biết chú ý
đến thủy lợi nên nền nông nghiệp của Ai Cập đã khá phát triển. Từ thời Cổ
vương quốc, Ai Cập đã biết trồng nhiều loại cây như lúa mì, đại mạch, đậu,
rau, ôliu v.v…
c. Thủ công nghiệp.
Ai Cập có nhiều kim loại qúy như vàng, đồng, chì, kền… và nhiều
loại đá trong đó có nhiều loại đá qúy như mã não, bích ngọc v.v… Đó là
những nguyên liệu giúp cho các nghề thủ công như nghề luyện kim, nghề
kim hoàn,nghề chế tác đá.v.v… phát triển.
Ngoài ra, từ sớm Ai Cập còn có các nghề khác như nghề làm đồ gốm,
nghề dệt, nghề thuộc da, nghề làm đồ thủy tinh. Đến thời Tân vương quốc,
người Ai Cập đã chế tạo được thủy tinh màu và đồ sứ.
d. Thương nghiệp.

- Từ thời Cổ vương quốc đã có trao đổi nhưng chỉ mới tiến hành dưới
hình thức lấy vật đổi vật. Tuy vậy từ thời kỳ này đã có quan hệ trao đổi với
nước Pun ở phía Nam và với Xiri ở phía Bắc.
- Thời Trung và Tân vương quốc, thương nghiệp càng phát triển nhất
là việc buôn bán với bên ngoài. Hàng hóa qúy được đưa về Ai Cập ngày
càng nhiều. Thời kỳ này vàng và bạc được dùng làm vật môi giới trong việc
trao đổi.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 16 -
2. Tình hình ruộng đất :
Quyền sở hữu ruộng đất ở Ai Cập cổ đại trong các thời kỳ không
hoàn tòan giống nhau.
- Đầu thời cổ vương quốc, toàn bộ ruộng đất trong nước thuộc quyền
sở hữu của nhà nước. Trên cơ sở đó, vua giữ lại một phần do mình trực tiếp
quản lý, một phần ban cấp cho qúy tộc quan lại đền miếu, một phần giao
cho các công xã nông thôn.
Phần ruộng đất do vua và quan lại quản lý được tổ chức thành các
nông trang.
- Cuối thời Cổ vương quốc, một số công xã nông thôn tan rã. Ruộng
tư bắt đầu xuất hiện.
- Thời Trung và Tân vương quốc, công xã nông thôn càng tan rã
nhiều, ruộng tư càng ngày càng phát triển. Tuy vậy, quyền sở hữu tối cao về
ruộng đất vẫn thuộc về nhà nước tức là thuộc về vua.
3. Quan hệ giai cấp.
Trong xã hội Ai Cập cổ đại có các giai cấp và tầng lớp sau đây:
a. Giai cấp bóc lột:
Giai cấp này gồm hai bộ phận chính là vua quan và tăng lữ. Tư liệu
sản xuất chủ yếu của họ là ruộng đất mà nguồn ruộng đất chủ yếu là do nhà
nước ban tặng.

Để quản lý và canh tác ruộng đất của mình, các quan lại và các đền
miếu tổ chức thành những nông trang rồi thuê nông dân nông trang sản xuất
để thu hoạch toàn bộ hoặc giao đất cho nông dân nông trang cày cấy rồi thu
đòa tô.
Ngoài ruộng đất, giai cấp này còn có rất nhiều nô lệ. Một bộ phận nô
lệ cũng có tham gia sản xuất nhưng phần lớn nô lệ bò sử dụng vào việc hầu
hạ.
b. Giai cấp nông dân.
Giai cấp nông dân là giai cấp đông đảo nhất và là giai cấp giữ vai trò
quan trọng nhất trong đời sống kinh tế xã hội. Do quyền sở hữu và quyền sử
dụng ruộng đất có nhiều loại khác nhau nên giai cấp nông dân ở Ai Cập cổ
đại bao gồm ba loại: nông dân công xã, nông dân nông trang và nông dân tự
canh.
Cùng với sự phát triển của lòch sử, tỷ lệ giữa ba loại nông dân đó tuy
có thay đổi nhưng nói chung nông dân công xã là thành phần đông đảo nhất.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 17 -
Họ cày cấy ruộng đất của công xã chia cho nhưng họ là dân tự do và được
gọi là “thần dân của Vua”.
Nông dân tự canh là loại nông dân có một ít ruộng đất riêng. Loại
này đã xuất hiện từ thời Cổ vương quốc. Về số lượng, loại này chiếm tỷ lệ
rất nhỏ.
Nông dân nông trang là loại nông dân không có ruộng đất. Họ phải
canh tác ruộng đất trong các nông trang của vua, quan, đền miếu.
Nông dân công xã và nông dân tự canh có nghóa vụ phải nộp thuế, đi
phu và đi lính cho nhà nước, còn nông dân nông trang thì hoặc là làm việc
rồi được nhận thù lao, hoặc là được giao cho một mảnh đất để canh tác rồi
phải nộp đòa tô.
c. Giai cấp nô lệ.

Giai cấp nô lệ ở Ai Cập cổ đại tương đối đông. Nguồn nô lệ chính là
tù binh, những người bản xứ bò nô dòch và những người do các nước lệ thuộc
cống nạp.
Nô lệ thuộc quyền sở hữu của nhà nước, của vua, của qúy tộc quan
lại, của đền miếu, của tăng lữ. Ngoài ra, một số binh lính, thợ thủ công,
nông dân khá giả cũng có nô lệ.
Nô lệ phần lớn bò sử dụng vào những công việc phi sản xuất như hầu
hạ chủ, làm các công việc trong nhà, xây dựng các công trình kiến trúc
v.v…. Có một số nô lệ cũng bò sử dụng vào việc sản xuất nông nghiệp. Tuy
vậy, nói chung vai trò của giai cấp nô lệ trong nền kinh tế của Ai Cập cổ
đại rất có hạn.
4. Tầng lớp thợ thủ công:
Tầng lớp thợ thủ công ở Ai Cập cổ đại chia làm hai loại: Loại thợ thủ
công làm việc trong các nông trang của quan lại và đền miếu, và loại thợ
thủ công tự do.
Loại thợ thủ công làm việc trong các nông trang bò quản lý rất chặt
chẽ nên quyền tự do bò hạn chế.
Loại thợ thủ công tự do phần lớn sống ở thành thò. Họ làm các nghề
như thợ giày, thợ mộc, thợ nề, thợ đá, thợ giặt, thợ cạo v.v… . Nói chung họ
phải làm việc rất vất vả nhưng đời sống rất khổ cực. Tuy nhiên trong đó có
một số ít có cuộc sống khá giả. Đó là những thợ thủ công được làm việc cho
nhà vua.
Về tầng lớp buôn bán thì mãi đến thời Tân vương quốc mới xuất
hiện, trong đó có một số chuyên bán các thứ như lương thực, bánh, rượu, thòt
v.v… do các đền miếu giao cho. Những người này đều bò lệ thuộc vào đền
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 18 -
miếu. Ngoài ra còn có một số người buôn bán phục vụ cho tư nhân. Nói
chung tầng lớp buôn bán ở Ai Cập cổ đại chưa phát triển lắm.

5. Bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước Ai Cập cổ đại được tổ chức theo chế độ quân chủ
chuyên chế. Đứng đầu bộ máy nhà nước ấy là vua được gọi là Pharaông có
nghóa là “cung điện”. Pharaông là người có quyền lực vô cùng lớn, là người
đứng đầu về chính trò và còn đứng đầu về tôn giáo. Pharaông Ai Cập còn
được thần thánh hóa, ví dụ vua sáng lập vương triều V được nói là con của
một nữ tu sỹ với thần Ra. Chính nhờ có uy quyền lớn như vậy nên nhiều
Pharaông ở Ai Cập đã có thể xây cho mình những kim tự tháp nổi tiếng.
Dưới vua là một bộ máy quan lại trung ương và đòa phương mà người
đứng đầu là Tể tướng. Tể tướng có quyền quản lý các công việc về chính
trò, tài chính, kinh tế. Quan Tể tướng cũng là quan chánh án tối cao.
Cấp hành chính đòa phương dưới trung ương gọi là Châu. Viên quan
đứng đầu các Châu gọi là châu trưởng. Chức quan này không những có
quyền quản lý mọi công việc ở trong châu mà còn là người đứng đầu tôn
giáo ở đòa phương.

Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 19 -
Bài 2.
LƯỢNG HÀ CỔ ĐẠI
I.
Đòa lý và cư dân.
Lưỡng Hà là miền nằm giữa hai sông: sông Tigrơ ở phía Đông và
sông Ơphơrát ở phía Tây. Cả hai sông này bắt nguồn từ miền rừng núi
Acmêria chảy qua lãnh thổ nước Irắc ngày nay rồi đổ ra vònh Ba Tư.
Về mùa xuân, tuyết ở cao nguyên Acmêria tan làm nước hai sông
Tigrơ và Ơphơrát dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vùng rộng lớn.
Chính nhờ nước lụt, đất đai ở đây không ngừng được bồi đắp và trở nên màu
mỡ. Do lượng phù sa rất nhiều nên sau mấy nghìn năm bờ biển của vònh Ba

Tư phải lùi xa gần 200 km. Vì vậy, hai dòng sông Tigrơ và Ơphơrát vốn đổ
ra biển bằng hai cửa sông khác nhau đã nhập lại thành một dòng trước khi
ra biển.
Về đòa hình, Lưỡng Hà là một vùng mà khắp mọi phía không có núi
non hiểm trở che chắn, vì vậy nơi này đã trở thành một đòa bàn để nhiều tộc
khác nhau đến thành lập quốc gia của mình .
Cư dân xưa nhất ở Lưỡng Hà là người Xume. Đến thiên niên kỷ III
TCN, người c cát thuộc tộc Xêmít cũng đến đònh cư ở Lưỡng Hà. Cuối
thiên kỷ III TCN một chi nhánh của người Xêmít là người Amôrít cũng tràn
vào Lưỡng Hà. Trong qúa trình ấy, các tộc này đã đồng hóa với nhau.
II.
Các quốc gia ở Lưỡng Hà cổ đại

Từ khi bắt đầu xuất hiện nhà nước vào đầu thiên kỷ III TCN đến cuối
thiên kỷ I TCN, ở Lưỡng Hà đã tồn tại các quốc gia sau đây:
1. Những thành bang của người Xume.
Vào khoảng đầu thiên kỷ III TCN, ở miền Nam Lưỡng Hà, nơi cứ trú
của người Xume, do sự phát triển cảu lực lượng sản xuất, do sự phân hóa
giàu nghèo, đã xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ lấy một thành thò làm trung
tâm gọi là thành bang. Người đứng đầu những thành bang ấy gọi là Patêxi
(vua).
Giữa các thành bang ấy thường diễn ra những cuộc đấu tranh để dành
đất đai và nguồn nước. Đến giữa thiên kỷ III TCN, trong số các thành bang
ở miền Nam Lưỡng Hà nổi bật nhất Lagát. Bằng nhiều cuộc chiến tranh
liên tiếp, Lagát đã chinh phục được nhiều thành bang lân cận.
Tuy vậy trong nội bộ Lagát, vì Patêxi chiếm đoạt tài sản của đền
miếu và tăng cường áp bức bóc lột nhân dân nên đã diễn ra một cuộc đấu
tranh do Urucaghina lãnh đạo. Sau đó, Urucaghina được lên làm Patêxi.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử


Lòch sử thế giới Cổ Đại - 20 -
Urucaghina đã tiến hành một cuộc cải cách nhằm giải quyết những
mâu thuẫn trong xã hội, do đó Lagát càng hùng mạnh.
Không lâu sau đó, Lagát bò thành bang Umma ở phía Bắc đánh bại.
Tiếp đó Umma còn chinh phục được nhiều thành bang khác và thống nhất
toàn bộ miền Nam Lưỡng Hà.
2. ccát thống nhất Lưỡng Hà .
Thành bang ccát do người Xêmít thành lập ở phía bắc Xume. Đến
thời vua Xácgông (2369 – 2314 TCN), ccát trở htành một quốc gia hùnh
mạnh. Xácgông đã thi hành nhiều chính sách để phát triển kinh tế và lực
lượng quân sự, Sau đó tấn công các thành bang ở phía Nam, chinh phục
được vùng Xume và lần đầu tiên thống nhất được toàn bộ Lưỡng Hà.
Tiếp đó Xácgông còn chiếm được các vùng xung quanh, lập thành
một quốc gia lớn mạnh, Xácgông tự xưng là “vua của bốn phương” .
Đến thời kỳ thốnh trò của Naramxin (2290 – 2254 TCN) ccát lại
càng hùng mạnh. Naramxin tiếp tục mở rộng lãnh thổ ra xung quanh và
ngạo nghễ tự xưng là “Naramxin thần thánh, thần hùng cường của ccát”.
Tuy vậy sau khi Naramxin chết, ccát bò suy yếu, toàn bộ Lưỡng Hà
bò người Guti chinh phục và thống trò trong một thời gian khá dài.
3. Vương triều III của Ua. (2132 – 2024 TCN)
Sau khi người Guti bò đánh đuổi, quyền thống trò ở Lưỡng Hà chuyển
sang tay vương triều III của Ua, một thành bang cổ xưa của Xume. Phạm vi
thống trò của vương triều này cũng rất rộng.
Ua đã ban bố một bộ luật mà ngày nay đã phát hiện được một số
đoạn. Đó là bộ luật cổ nhất trong lòch sử thấ giới.
Như vậy, dưới thời vương triều III, Ua đã trở thành một nước lớn
mạnh, nhưng đến cuối thế kỷ XXI TCN, Ua bò suy yếu và bò liên quân của
lam (một bộ tộc ở phía đông) và Mari (một thành bang ở phía bắc) đánh
bại.
4. Cổ Babilon.

Babilon là một thành phố do người Amôrít (một chi nhánh của người
Xêmít) thành lập ở miền trung Lưỡng Hà. Trong thời kỳ đầu, Babilon còn
tương đối yếu,nhưng đến nửa sau thế kỷ XVIII TCN, dưới thời vua
Hammurabi (1792 – 1750 TCN), Babilon trở thành một quốc gia hùng mạnh
nổi tiếng trong lòch sử Lưỡng Hà cổ đại.
Hammurabi là một nhà chính trò rất khôn khéo, đã lần lượt đánh bại
các thành bang xung quanh, thống nhất được hầu hết vùng Lưỡng Hà. Trên
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 21 -
cơ sở đó Hammurabi đã xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền
trung ương .
Đặc biệt Hammurabi đã ban hành bộ luật gọi là bộ luật Hammurabi.
Bộ luật này khắc trên một cột đá, được một nhà khảo cổ học người Pháp
phát hiện năm 1901. Đây là bộ luật cổ được giữ lại tương đối nguyên vẹn.
Luật Hammurabi gồm ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần mở đầu nói về sức mạnh thần thánh của Hammurabi và mục
đích ban bố bộ luật.
Phần nội dung bao gồm 282 điều luật về dân sự và hình sự, trong đó
phần lớn đầ cập đến các mặt kinh tế xã hội như ruộng đất, nô lệ, đòa tô, vay
nợ, gia đình v.v…
Phần kết luận nhắc lại công đức của Hammurabi và yêu cầu đời sau
phải nghiêm chỉnh thi hành bộ luật.
(
1
)
5. Tân Babilon.
Từ giữa thế kỷ VII TCN, txêri bắt đầu suy yếu. Nhân tình hình ấy,
năm 626 TCN, một tướng lónh người Canđê, một chi nhánh của người Xêmít
tên là Nabôpôlaxa, người đã từng phục vụ chính quyền txiri và hình như

được cử làm Tổng đốc của txiri ở miền Nam Babilon đã tuyên bố Babilon
độc lập. Để phân biệt với Cổ Babilon, quốc gia này đã được gọi là Tân
Babilon.
Ngay sau đó, Tân Babilon liên minh với nước Mêđi ở phía đông bắc
cùng tấn công txiri. Năm 605 TCN, txiri bò diệt vong. Đất đai của txiri
bò chia làm hai phần: Nửa phía bắc thuộc về Mêđi, nửa phía Nam thuộc về
Tân Babilon.
Để tăng thêm tình hữu nghò giữa hai nước Nabôpôlaxa đã hỏi công
chúa Mêđi cho con trai của mình là Nabusôđônôxo. Năm 604 TCN,
Nabôpôlaxa chết. Nabusôđônôxo (604-562 TCN) lên nối ngôi. Đây là thời
kỳ thònh vượng nhất của Tân Babilon.
Do một số nơi như Phênixi, Do Thái v.v… vốn nằm trong bản đồ
txiri nhưng nay dựa vào Aicập không chòu khuất phục Tân Babilon nên
Nabusôđônôxo đã mở nhiều cuộc tấn công và đã chiếm được những nước
này. Ở trong nước, Nabusôđônôxã cho xây dựng nhiều công trình kiến
trúc nguy nga như thành Babilon, đến miếu, tháp, đặc biệt là vườn hoa trên
không. Cũng như Kim tự tháp của Ai Cập, vườn hoa trên không của Babilon
được coi là một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại.

1 Xem luật Hammurabi ở phần phụ lục sách Lòch sử thế giới cổ đại.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 22 -
Năm 562 TCN, Nabusôđônôxo chết, từ đó tình hình nội bộ Tân
Babilon không được ổn đònh. Năm 538 TCN, Tân Babilon bò Batư tiêu diệt.
6. Ba Tư.
Trong khi Tân Babilon suy yếu, ở Iran bắt đầu xuất hiện nước Ba Tư.
Năm 550 TCN, Ba Tư đánh bại Mêđi, Babilon cũng trở thành mục
tiêu chinh phục của Ba Tư.
Năm 538 TCN, quân Ba Tư tấn công và chiếm được thành Babilon.

Babilon trở thành một bộ phận của đế quốc Ba Tư.
Năm 328 TCN, đế quốc Ba Tư bò quân Alếchxăng Makêđônia tiêu
diệt. Từ đó Babilon và cả Tây Á bò nhập vào đế quốc Makêđônia. Sau khi
Alếcxăng chết, đế quốc Makêđônia bò phân chia, vùng Lưỡng Hà nằm trong
bản đồ của vương triều Xêlơcút ở Tây Á.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 23 -
Bài 3.
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I.
Đòa lý và cư dân.
n Độ là một bán đảo ở Nam Á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi
chắn ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. n Độ chia làm hai miền
Nam Bắc lấy dãy núi Vin-đi-a làm ranh giới. Miền bắc n Độ có hai con
sông lớn là sông n (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông n chia làm 5
nhánh, nên vùng đồng bằng ở 5 nhánh sông ấy được gọi là vùng Pungiáp
(nghóa là vùng Năm sông). Tên nước n Độ là gọi theo tên dòng sông này.
Sông Hằng ở phía đông được coi là một dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân
n Độ thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ
tắm mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông nàybồi đắp thành hai đồng
bằng màu mỡ ở miền bắc n Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của
nền văn minh của đất nước này.
Cư dân n Độ gồm hai thành phần chính: người Đraviđa chủ yếu cư
trú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở miền bắc.
II.
Văn hóa Haráppa.
Tài liệu lòch sử giúp chúng ta hiểu biết về thời kỳ này không phải là
tài liệu thành văn mà là tài liệu khảo cổ học. Vì vậy trước năm 1921, giai
đoạn lòch sử này chưa được biết đến.

Năm 1921 và 1922, các nhà khảo cổ học n Độ đã tìm thấy ở
Haráppa và Môhengiô Đarô thuộc lưu vực sông n hai thành phố cùng rất
nhiều hiện vật bò chôn vùi dưới đất. Những hiện vật ấy là di tích của một
thời kỳ lòch sử được gọi là văn hóa Haráppa hoặc nền văn minh lưu vực
sông n.
1. Các hiện vật đã tìm thấy.
Haráppa và Môhengiô là hai thành phố rất lớn xây bằng gạch. Xung
quanh thành phố có thành và hào bao bọc. Trong thành phố có các đường
phố ngang dọc thẳng tắp. Mỗi thành phố có hàng trăm nhà và cửa hiệu lớn
nhỏ, trong đó phần nhiều là nhà hai tầng. Trong nhà thường có đầy đủ tiện
nghi như bếp, phòng tắm, ống dẫn nước…
Ở các di chỉ này, còn tìm thấy nhiều công cụ sản xuất, vũ khí, đồ
dùng trong đời sống hàng ngày, đồ trang sức, đồ tế lễ và hơn 3000 con dấu
có khắc chữ đồ họa. Các dụng cụ đó, có thứ bằng đồng hoặc đồng thau, có
thứ bằng đá.
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Lòch sử thế giới Cổ Đại - 24 -
2. Tình hình xã hội.
Những hiện vật phát hiện được cho biết rằng trong xã hội thời kỳ đó
đã có sự phân hóa giàu nghèo rất rõ rệt. Việc phát hiện ra chữ viết, hơn nữa
trên một số con dấu có ghi những chữ như “người cầm quyền
” (Sasa),
“người cai trò
” (Pata), “vua của những ông vua” (Reja – reja) v.v… đã nói
lên rằng xã hội thời văn hóa Haráppa là xã hội có nhà nước.
Nền văn minh lưu vực sông n tồn tại từ khoảng đầu thiên kỷ III đến
nửa đầu thiên kỷ II TCN thì bò hủy diệt. Nguyên nhân của sự hủy diệt đó là
nạn lụt do nước sông n dâng lên. Cư dân ở đây phải di cư sang phía đông
bỏ lại các thành phố của họ bò vùi dần xuống lòng đất.

III.
THỜI KỲ VÊ ĐA.
Từ giữa thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN, Lòch sử n Độ được
phản ánh trong các tác phẩm văn học gọi là Vêđa, vì vậy thời kỳ này được
gọi là thời Vê đa.
Vêđa vốn nghóa là “hiểu biết”. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama
Vêđa, Atácva Vêđa và Yagiua Vêđa, trong đó Rích Vêđa là xưa nhất và
quan trọng nhất. Rích Vêđa gồm 1028 bài ca được sáng tác vào khoảng giữa
thiên kỷ II đến cuối thiên kỷ II TCN, còn ba tập Vêđa khác thì được sáng
tác vào khoảng đầu thiên kỷ I đến giữa thiên kỷ I TCN, vì vậy thời kỳ Vêđa
có thể chia làm hai thời kỳ nhỏ là:
- Thời kỳ Rích Vêđa (khoảng năm 1500 – 1000 TCN).
- Thời kỳ Hậu Vêđa (khoảng năm 1000 – 600 TCN).
Chủ nhân của thời kỳ Vêđa là người Arya (nghóa là “người cao qúy” )
mới từ trung Á di cư vào n Độ. Đòa bàn sinh sống của họ trong thời kỳ này
chủ yếu là vùng lưu vự sông Hằng.
1. Tình hình kinh tế.
Trong thời Rích Vêđa, người Arya đang sống trong giai đoạn cuối của
xã hội nguyên thủy. Ngành kinh tế quan trọnh nhất là chăn nuôi. Gia súc rất
được coi trọng nhất là bò. Bởi vậy, trong ngôn ngữ lúc bấy giờ “tù trưởng bộ
lạc” có nghóa là kẻ chiếm hữu bò cái”, “chiến só” có nghóa là “người chiến
đấu vì bò cái”.
Dần dần, do học tập được những kinh nghiệm sản xuất của dân bản
đòa, người Arya đã chuyển sang đời sống đònh cư lấy nông nghiệp làm nghề
chính.
2. Sự ra đời của nhà nước.
Do kinh tế phát triển, sự phân hóa giai cấp cũng diễn ra rõ rệt, đến
khoảng cuối thiên kỷ II TCN, thủ lónh quân sự dần dần biến thành người có
Nguyễn Gia Phu Khoa Lòch Sử

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×