Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Luận văn tốt nghiệp nghiên cứu về các loại hình kiểm toán phân loại theo đối tượng – kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.35 KB, 31 trang )

Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

LỜI MỞ ĐẦU
Trong 10 năm trở lại đây, Kiểm tốn có thể được xem là một trong
những ngành nghề “nóng” tại Việt Nam do đòi hỏi của sự phát triển nền kinh
tế. Kiểm tốn bảng khai tài chính của các doanh nghiệp là một hoạt động cực
kỳ sôi nổi. Đồng thời, tại các cơng ty nhà nước, các tổ chức tín dụng đặc biệt
là ngân hàng và một số công ty lớn của Việt Nam cũng xuất hiện Kiểm toán
nội bộ thực hiện Kiểm toán hoạt động trong cơ cấu tổ chức của mình. Tuy
nhiên, nhiều người vẫn nhầm lẫn hai loại hình Kiểm tốn tài chính và Kiểm
tốn hoạt động, họ cho rằng hai loại hình này thực chất là một, đều là kiểm tra
và sốt xét, như vậy có cần thiết phải chia thành hai loại hình riêng biệt hay
khơng? Để có thể trả lời được câu hỏi đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Nghiên cứu về các loại hình kiểm tốn phân loại theo đối tượng –
Kiểm tốn tài chính và Kiểm tốn hoạt động”
Trong bài sẽ nêu lên những đặc điểm giống nhau và khác nhau cơ bản
nhất giữa hai loại hình Kiểm tốn tài chính và Kiểm tốn hoạt động. Từ đó có
thể thấy rằng, không thể đồng nhất hai khái niệm này làm một bởi đối tượng,
bởi mục tiêu, bởi vai trò… của mỗi loại hình trong nền kinh tế và qủn lí là
khác nhau. Bài đề án này của em đượ chi làm ba phần:
Phần I: Khái quát về Kiểm toán và các loại hình kiểm tốn phân theo đối tượng
Phần II: So sánh sự giống nhau, khác nhau giữa Kiểm toán tài chính và
Kiểm tốn hoạt động
Phần III: Thực tế hoạt động của Kiểm tốn tài chính và Kiểm tốn hoạt
động. Những địng góp của hai loại hình này và sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Vì thời gian và kiến thực có hạn nên đề án sẽ có nhiều sai sót. Em mong
nhận được sự chỉ bảo thêm của thầy giáo để bản đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện


Lê Thị Việt Chi

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TOÁN VÀ CÁC LOẠI KIỂM TOÁN
PHÂN LOẠI THEO ĐỐI TƯỢNG
1.1.

Khái niệm và các cách phân loại Kiểm toán.

1.1.1. Khái niệm Kiểm toán.
“Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần
được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm tốn chứng từ
và kiểm tốn ngồi chứng từ do các Kiểm tốn viên có trình độ nghiệp vụ
tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.”
(Giáo trình Lý thuyết Kiểm tốn – Trang 37).
Thuật ngữ Kiểm toán (Audit) chỉ mới được xuất hiện cách đây khơng
lâu và việc định nghĩa thật chính xác Kiểm tốn là gì là cả một q trình phát
triển lâu dài, ngày càng hoàn thiện. Từ việc người ta xem Kiểm toán như là
kiểm tra kế toán khi nền kinh tế chưa phát triển, các nghiệp vụ đơn giản, đền
việc người ta cho rằng Kiểm toán chỉ giới hạn trong kiểm tra Bảng khai tài
chính, và hiện nay chúng ta được biết rằng Kiểm tốn khơng chỉ giới hạn

trong khn khổ nhỏ bé đó mà nó hoạt động trên nhiều lĩnh vực mà ta có thể
gọi chung là “thực trạng hoạt động”. Với thuật ngữ này, dường như lĩnh vực
hoạt động của kiểm toán rất phong phú và đa dạng đến mức khó có thể liệt kê
hết được. Nhưng người ta vẫn có thể chia phạm vi kiểm tốn thành: Kiểm
tốn thơng tin, Kiểm tốn tính quy tắc, Kiểm toán hiệu quả, Kiểm toán hiệu
năng. Đương nhiên, việc phân chia này chỉ mang tính chất tương đối mà thơi.
Vậy thì với khái niệm Kiểm tốn như đã nêu ở trên chúng ta cần phải lưu
ý những gì?
Thứ nhất, Kiểm toán là hoạt động “xác minh và bày tỏ ý kiến”. Đây là
hai chức năng cơ bản của kiểm toán và nó quyết định sự tồn tại của hoạt động
kiểm tốn. Nói như thế có nghĩa là, nếu một hoạt động thiếu đi một trong hai

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

chức năng này thì hoạt động đó khơng cịn được gọi dưới cái tên “hoạt động
Kiểm toán” nữa.
Thứ hai, “thực trạng hoạt động” là tất cả các hoạt động phát sinh liên
quan đến Doanh nghiệp.
Thứ ba, “hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm tốn chứng từ và kiểm
tốn ngồi chứng từ”. Để thực hiện được chức năng của mình, Kiểm toán cần
một hệ thống phương pháp đặc thù, đặc trưng như cân đối, đối chiếu trực tiếp,
đối chiếu logic (kiểm toán chứng từ), hay kiểm kê, quan sát, thực nghiệm
(kiểm tốn ngồi chứng từ).

Thứ tư, Kiểm tốn viên thực hiện các cuộc kiểm tốn là những người có
“trình độ nghiệp vụ tương xứng” đã được quy định trong các văn bản pháp lý
về Kiểm tốn và Kiểm tốn viên. Ví dụ như: Kiểm tốn viên độc lập cần có
chứng chỉ hành nghề, Kiểm tốn viên nội bộ cần có trình độ chun mơn cao,
am hiểu về lĩnh vực mình kiểm toán…
Cũng cần phải lưu ý rằng, tất cả nhận thức của con người về thế giới đều
lươn biến động và phát triển. Và hiểu biết về kiểm toán, định nghĩa về kiểm
tốn như thế nào cho đúng đắn cũng khơng phải là ngoại lệ. Nó sẽ thay đổi
khi điều kiện, yêu cầu của nền kinh tế về kiểm toán thay đổi.
1.1.2. Các cách phân loại Kiểm toán.
Ở phần trên đã nêu ra một cách phân loại Kiểm toán: theo lĩnh vực cụ thể
của Kiểm toán. Nhưng với sự phong phú và đa dạng của nó, với các cách thức
tiếp cận khác nhau chúng ta lại có một cách nhìn mợi về các loại hình Kiểm
tốn. Sau đây, em xin phép được nêu khái quát các cách phận loại đó:
- Theo lĩnh vực cụ thể: Kiểm tốn thơng tin, Kiểm tốn tính quy tắc,
Kiểm tốn hiệu quả, Kiểm tốn hiệu năng.
- Theo phương pháp áp dụng trong Kiểm toán: Kiểm toán chứng từ và
Kiểm tốn ngồi chứng từ.

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

- Theo quan hệ giữa chủ thể và khách thể Kiểm toán: Nội kiểm, Ngoại
kiểm.

- Theo phạm vi tiến hành: Kiểm tốn tồn diện, Kiểm tốn chọn điểm.
- Theo tính chu kỳ của Kiểm toán: Kiểm toán thường kỳ, Kiểm toán định
kỳ, Kiểm toán bất thường.
- Theo tổ chức bộ máy kiểm toán: Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán độc
lập, Kiểm toán nội bộ.
- Theo quan hệ pháp lý của Kiểm toán: Kiểm toán bắt buộc, Kiểm toán
tự nguyện.
- Theo đối tượng cụ thể: Kiểm tốn tài chính, Kiểm tốn hoạt động,
Kiểm toán liên kết.
- …
Trong bài nghiên cứu này, em xin đi sâu vào phân tích về cách phân loại
kiểm tốn theo đối tượng cụ thể, và hai loại hình Kiểm tốn là Kiểm tốn tài
chính và Kiểm tốn hoạt động. Sở dĩ, Kiểm tốn liên kết khơng được đề cập
nhiều ở đây vì thực chất của loại hình này chính là sự kết hợp giữa Kiểm tốn
tài chính và Kiểm toán hoạt động trong những trường hợp cụ thể.
1.2. Lịch sử phát triển của Kiểm tốn và loại hình kiểm tốn phân theo
đối tượng Kiểm tốn.
“Kiểm tốn khơng phải là hoạt động “tự thân” và “vị thân”. Kiểm toán
sinh ra từ yêu cấu quản lí và phục vụ cho u cầu quản lí.”
(Giáo trình Lý thuyết kiểm tốn – Trang 41).
Khi hoạt động kinh tế xã hội còn đơn giản, kế tốn chỉ là sự ghi chép nhỏ
nhặt thì việc kiểm tra, kiểm sốt cũng khơng u cầu q cao. Do đó, kế tốn
và sự tự kiểm tra của kế tốn đã đáp ứng được u cầu quản lí của cải khi đó.
Nhưng, khi sản xuất phát triển dần dần có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và
quyền quản lí, sử dụng tài sản; khi mà khoảng cách giữa sự phong phú đa
dạng của hoạt động tài chính và thông tin được phản ánh trên chứng từ, sổ kế

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C



Đề án mơn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

tốn càng xa; khi mức độ tin cậy của thông tin do kế toán cung cấp chỉ nằm
trong giới hạn của các nhà quản trị nội bộ thì xã hội lại cần một sự kiểm tra
bên ngồi kế tốn.
Thời kỳ những năm 30 của thế kỷ XX, kiểm toán là một yêu cầu bức
thiết đặt ra. Bởi khủng hoảng kinh tế, suy thối và sự phá sản của nhiều tập
đồn cho thấy một điều rằng, kế tốn với trình độ như hiện nay khơng thể đáp
ứng u cầu quản lí mới. Kiểm toán viên độc lấp và các kiểm soát viên nội bộ
(hay như ta vẫn thường gọi là kiểm toán nội bộ) cũng được chính thức cơng
nhận và đưa vào điều lệ, điều luật của quốc gia. Từ những năm 50 của thế kỷ
XX, dịch vụ ngoại kiểm đã được bổ sung liên tục về cấu trúc, phương pháp và
kỹ thuật. Đồng thời, nội kiểm cũng khơng cịn nằm trong giới hạn của kế
tốn-tài chính mà bao gồm cả đánh giá hệ thống quản lí doanh nghiệp. Ngồi
ra, trong lĩnh vực công cộng, lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước cũng xuất
hiện kiểm tốn viên của chính phủ nhằm kiểm tra tính hình sử dụng ngân sách
nhà nước.
Và để có sự phát triển như hiện nay là cả một q trình, các nước tư bản
phát triển đã khơng ngừng đổi mới về nội dung, tính chất của kiểm tốn phù
hợp vời sự phát triển chòng mặt của nền kinh tế. như đã nói, một khi u cầu
của quản lí cịn đặt ra nhiều vấn đề cho kiểm tốn giải quyết thì khi đó kiểm
tốn cịn tồn tại và đáp ứng đấy đủ nó.

Lê Thị Việt Chi

Kiểm tốn 48C



Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

PHẦN II
SO SÁNH SỰ GIỐNG NHAU, KHÁC NHAU GIỮA KIẾM
TOÁN TÀI CHÍNH VÀ KIỂM TỐN HOẠT ĐỘNG
2.1.

Sự giống nhau.
Cùng được tách ra từ hoạt động kiểm tốn nói chung, tất nhiên hai loại

hình Kiểm tốn tài chính và Kiểm tốn hoạt động sẽ có rất nhiều điểm chung
mang đặc trưng của hoạt động Kiểm toán. Sau đây là một vài điểm giống mà
em rút ra được sau khi được học tập và nghiên cứu về hai loại hình này.
“Bằng chứng kiểm tốn: là tất cả các tài liệu, thơng tin do kiểm toán viên
thu thập được liên quan đến cuộc kiểm tốn và dựa trên các thơng tin này
kiểm tốn viên hình thành nên ý kiến của mình. Bằng chứng kiểm toán bao
gồm các tài liệu, chứng từ, sổ kế toán, báo cáo tài chính và các tài liệu, thơng
tin từ những nguồn khác.”
(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500 – “Bằng chứng kiểm tốn”)
Bằng chứng kiểm tốn khơng chỉ là cơ sở pháp lý cho kết luận kiểm toán
mà còn là cơ sở tạo niềm tin cho những người quan tâm. Chuẩn mực kiểm
toán cũng chỉ rõ rằng: “Kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ các Bằng chứng
kiểm tốn thích hợp cho mỗi loại ý kiến của mình. Sự “đầy đủ” và tính “thích
hợp” ln đi liền với nhau và được áp dụng cho các Bằng chứng kiểm toán
thu thập được từ các thủ tục thử nghiệm kiểm sốt và thử nghiệm cơ bản.” Cả
Kiểm tốn tài chính và Kiểm tốn hoạt động đều quan niệm rằng tính đầy đủ

của Bằng chứng kiểm toán thể hiện ở việc số lượng bằng chứng phải đủ để
kiểm tốn viên có thể đưa ra kết luận của mình. Tính đầy đủ này phụ thuộc
vào các yếu tố như: tính trọng yếu của đối tượng kiểm toán cụ thể, mức độ rủi
ro của đối tượng kiểm tốn, tính thuyết phục của bằng chứng kiểm tốn, và cả
tính kinh tế của việc thu thập nhiều hay ít bằng chứng kiểm tốn nữa.Cịn tính
thích hợp là chỉ chất lượng hay độ tin cậy của bằng chứng đó (các Kiểm tốn

Lê Thị Việt Chi

Kiểm tốn 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

viên thường dùng cụm từ “tính hiệu lực” để chỉ chất lượng của bằng chứng
kiểm tốn). Tính thích hợp được thể hiện ở hai mặt là tính liên đới có nghĩa là
Bằng chứng kiểm toán phải liên quan tới mục tiêu kiểm tốn, hai là tính đáng
tin cậy có nghĩa là bằng chứng phải có tính thuyết phục cao.
Cũng như các mơn khoa học khác Kiểm tốn cũng có một hệ thống
phương pháp kiểm toán riêng, đặc trưng cho nghề nghiệp của mình. Hệ thống
phương pháp này là chung nhất cho tất cả các loại hình kiểm tốn, để rồi từ
đó các loại hình khác nhau lại có những cách thức kết hợp những phương
pháp cơ bản này một cách khác nhau. Hệ thống phương pháp kiểm toán bao
gồm hai phân hệ: phân hệ phương pháp kiểm toán chứng từ và phân hệ
phương pháp kiểm tốn ngồi chứng từ.
Trong phân hệ phương pháp kiểm toán chứng từ người ta chia thành:
- Kiểm toán các cân đối kế toán (gọi tắt là kiểm toán cân đối)
- Đối chiếu trực tiếp

- Đối chiếu logic
Trong phân hệ phương pháp kiểm tốn ngồi chứng từ bao gồm:
- Kiểm kê
- Điều tra
- Thực nghiệm
Từ hệ thống phương pháp chung này, kiểm toán đưa ra những phương
pháp kỹ thuật để thực hiện thu thập Bằng chứng kiểm tốn. Có 7 kỹ thuật
chung là:
- Kiểm tra vật chất: quá trình kiểm kê tại chỗ hay tham gia kiểm kê các
loại tài sản của doanh nghiệp.
- Quan sát: sử dụng để đánh gia một thực trạng hay hoạt động của đơn vị
được kiểm toán.

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

- Phỏng vấn: q trình Kiểm tốn viên thu thập thơng tin bằng văn bản
hay bằng lời nói qua việc phỏng vấn những người hiểu biết về vấn đề
mà Kiểm toán viên quan tâm.
- Lấy xác nhận: quá trình thu thập thông tin do bên thứ ba cung cấp để
xác minh tính chính của thơng tin mà Kiểm tốn viên nghi vấn.
- Xác minh tài liệu: quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu các chứng từ,
sổ có liên quan sẵn có trong đơn vị được kiểm tốn.
- Tính tốn: q trình Kiểm tốn viên kiểm tra chính xác về mặt số học

trong việc tính tốn và ghi sổ.
- Phân tích: quá trình so sánh, đối chiếu, đánh giá các mối quan hệ để xác
định tính pháp lý của các số dư trên tài khoản.
Vì Kiểm tốn là một hoạt động phức tạp và khá mới mẻ mà các phương
pháp kiểm toán lại được xây dựng trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của các
Kiểm tốn viên, do đó hệ thống này cần được bổ sung hoàn thiện hơn nữa.
Vấn đề đặt ra cho Kiểm tốn viên trong q trình thực hiện kiểm tốn là
phải cân đối giữa chi phí kiểm tốn và lợi ích đạt được từ việc thu thập Bằng
chứng kiểm tốn nhiều hay ít. Hoạt động của đơn vị nói chung và hoạt động
tài chính nói riêng rất phong phú, đa dạng và ngay cả các tài liệu kế tốn phản
ánh hoạt động đó (tuy khơng đầy đủ) cũng có một số lượng khổng lồ các tư
liệu. Kiểm tốn viên khơng thể trong một thời gian ngắn mà có thể kiểm tra
hết tính đúng đắn của tồn bộ thơng tin đó, mà nếu làm như vậy thì kiểm tốn
khơng cịn là kiểm tốn theo đúng nghĩa mà đã trở thành kiểm tra kế tốn. Do
đó, trong kiểm tốn mới xuất hiện khái niệm về trọng yếu và rủi ro, và cách
thức kiểm tra tài liệu hợp lí có thể chấp nhận được: Chọn mẫu kiểm toán.
“Chọn mẫu kiểm tốn là q trình chọn một nhóm các phần tử hoặc đơn
vị (gọi là mẫu) từ một tập hợp lớn các phần tử hoặc đơn vị (gọi là tổng thể) và
sử dụng các đặc trưng của mẫu để suy rộng cho đặc trưng của toán bộ tổng
thể.”

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân


(Giáo trình Lý thuyết kiểm tốn – Trang 150)
Quan điểm về Mẫu kiểm toán và phương pháp chọn mẫu kiểm toán của
Kiểm tốn hoạt động và Kiểm tốn tài chính cũng giống nhau và giống với
Kiểm tốn nói chung. Trong việc chọn mẫu này Kiểm tốn viên ln ln
phải quan tâm đến một vấn đề là về “rủi ro chọn mẫu”: khả năng mà kết luận
của Kiểm toán viên dựa trên mẫu sai lệch so với kết luận mà Kiểm toán viên
có được khi dùng thử nghiệm tương tự đối với tồn bộ tổng thể. Rủi ro chọn
mẫu ln tồn tại, trừ khi quy mô mẫu đúng bằng quy mô tổng thể, theo đó rủi
ro giảm khi quy mơ mẫu tăng. Yếu tố cơ bản trong việc chọn mẫu kiểm toán
một cách hiệu quả là cần phải cân đối giữa rủi ro chọn mẫu với chi phí do
chọn mẫu có kích cỡ lớn.
Một điểm giống nhau nữa của Kiểm toán tài chính và Kiểm tốn hoạt
động là trong việc tổ chức cơng tác kiểm tốn. Mục tiêu của tổ chức cơng tác
kiểm toán hướng tới việc tạo ra mối liên hệ khoa học và nghệ thuật các
phương pháp kỹ thuật kiểm toán dùng để xác minh và bày tỏ ý kiến về đối
tượng kiểm tốn. Dù trình tự của bản thân mỗi hoạt động kiểm toán riêng biệt
khác nhau nhưng tổ chức kiểm tốn vẫn theo một quy trình chung với ba bước
cơ bản là:
- Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán bao gồm tất cả các công việc khác nhau
nhằm tạo được cơ sở pháp lý, kế hoạch kiểm toán cụ thể và các điều
kiện vật chất cho công tác kiểm toán.
- Bước 2: Thực hành kiểm toán bao gồm tất cả các công việc thực hiện
chức năng xác minh của kiểm toán để khẳng định được thực chất của
đối tượng và khách thể kiểm toán cụ thể.
- Bước 3: Kết thúc kiểm tốn bao gồm các cơng việc đưa ra kết luận
kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và giải quyết các công việc phát sinh
sau khi lập báo cáo kiểm toán.

Lê Thị Việt Chi


Kiểm toán 48C


Đề án môn học

2.2.

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

Sự khác nhau.

2.2.1. Về đối tượng kiểm toán.
Sự khác biệt đầu tiên được xét đến ở đây là về đối tượng kiểm tốn. Vì
đây cũng là cách thức phân loại kiểm tốn thành Kiểm tốn tài chính và Kiểm
tốn hoạt động. Sự khác biệt này sẽ dẫn đến những điểm khác nhau sau nữa
của cả hai loại hình này trên nhiều mặt, nhiều phương diện.
Kiểm tốn tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về tình hình
tài chính của đơn vị được kiểm tốn mà trực tiếp là các bảng khai tài chính do
Kiểm tốn viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện.
“Kiểm tốn hoạt động là q trình đánh giá có hệ thống về sự hữu hiệu ,
tính hiệu quả và tính kinh tế của các hoạt động dưới sự kiểm soát của nhà
quản lí và báo cáo cho những cá nhân thích hợp về kết quả của việc đánh giá
đồng thời đưa ra kiến nghị để cải tiến.”
(Viện Kiểm toán viên nộ bộ - IIA)
Có thể thấy ngay đối tượng trực tiếp của Kiểm tốn tài chính là bảng
khai tài chính trong đó có một bộ phận rất quan trọng là các báo cáo tài chính.
“Báo cáo tài chính là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế tài chính
chủ yếu của đơn vị” (Chuẩn mực 200-điểm 04). Một thơng tin trong bảng
khai tài chính trên một khoản mục cụ thể đều mang trong mính nó nhiều mối

quan hệ theo những hướng khác nhau. Kiểm tốn tài chính cũng quan tâm đến
hệ thống tổ chức tác nghiệp trong đơn vị nhưng nhằm mục đích xác minh độ
tin cậy của thông tin thể hiện trong các bảng khai tài chính. Điều này đã làm
nên sự khác biệt cho Kiểm tốn hoạt động vì Kiểm tốn hoạt động lại quan
tâm đến nguồn lực đã có và cần có để đảm bảo hiệu quả của hoạt động của
thơng tin và của quản lí. Có nghĩa là, đối với kiểm tốn hoạt động thì việc
thẩm tra cơ cấu tổ chức, phương pháp tác nghiệp trong đơn vị ở các bộ phận
được kiểm toán khác nhau là rất quan trọng nhằm mục đích cuối cùng là cải

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

thiện bộ máy quản lí của đơn vị giúp đơn vị hoạt động hiệu quả hơn. Cụ thể
về đối tượng của kiểm toán hoạt động như sau: Nhận định doanh nghiệp về
hiệu quả và thành tích của các hệ thống thơng tin, về tổ chức thiết lập cho
hoạt động của doanh nghiệp và về các phương pháp điều hành. Nhận định về
những điều kiện kinh doanh và những quyết định quản lí, hay hiệu quả quản
lí. Nhận định ở bên trong doanh nghiệp, nếu dự án kinh tế lập ra ban đầu luôn
được chủ động, đặc biệt nếu ở cấp những người điều hành các lựa chọn phát
triển đều tương xứng và các quyết định đều hợp thời.
(Theo Giáo trình Kiểm tốn hoạt động – Trang 11)
Khi đó sẽ có người thắc mắc rằng, như vậy thì Kiểm tốn hoạt động có
quan tâm đến thơng tin được trình bày trong các bảng khai tài chính hay
khơng? Tất nhiên có, nhưng Kiểm tốn hoạt động lại quan tâm ở mặt trình tự

ghi chép, cách thức bố trí nhân lực để tạo ra kết quả đó có hợp lí, hiệu quả.
Cịn Kiểm tốn tài chính khơng quan tâm đến điều đó,hoặc chỉ quan tâm ở
mức độ thấp, điều quan trọng đối với Kiểm tốn tài chính là độ tin cậy của
thơng tin có được đảm bảo hay khơng mà thơi.
Nói như vậy nhưng chúng ta cúng khơng được nhầm lẫn rằng Kiểm tốn
hoạt động bao hàm cả Kiểm tốn tài chính hay ngược lại. Vì, mặc dù mỗi loại
hình đều quan tâm đền nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp nhưng hướng
trọng tâm của chúng lại khác nhau. Nó liên quan đến mục tiêu của kiểm toán
sẽ được xem xét ngay sau đây.
2.2.2. Về mục tiêu kiểm tốn.
Trong Kiểm tốn tài chính việc thu thập Bằng chứng kiểm toán nhằm
xác minh độ tin cậy của thông tin là mục tiêu chung, mục tiêu tổng quát nhất.
Cụm từ “độ tin cậy” của thông tin được thể hiện trên ba mặt: Trung thực, Hợp
lý, Hợp pháp. Trong đó, “trung thực” là việc thơng tin tài chính và tài liệu kế
tốn phản ánh đúng sự thật nội dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế
phát sinh. “Hợp lý” là việc thông tin tài chính và tài liệu kế tốn phản ánh

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

trung thực, cần thiết và phù hợp về không gian, thời gian và sự kiện được
nhiều người thừa nhận. “Hợp pháp” là việc thơng tin tài chính và tài liệu kế
tốn phản ánh đúng pháp luật, đúng chuẩn mực và chế độ kế tốn hiện hành
(hoặc được chấp nhận).

Các thơng tin tài chính được thể hiện qua cơng nghệ xử lý thơng tin của
kế tốn và kiểm sốt nội bộ. Trong cơng nghệ xử lý thơng tin kế tốn, các
phương pháp kỹ thuật của kế tốn tạo thành một quy trình có tính liên hồn để
tạo ra sản phẩm cuối cùng là báo cáo tài chính và các bảng khai tài chính
khác. Như vậy muốn xem xét tính trung thực, hợp lý, hợp pháp của thơng tin
được trình bày trong các bảng khai tài chính cần phải cụ thể hóa theo các yếu
tố của hệ thống kế toán trong quan hệ trực tiếp tới việc hình thành các bảng
này. Từ đó, các mục tiêu cụ thể của Kiểm tốn tài chính là:
- Mục tiêu về tính hợp lý chung: Bảng khai tài chính được lập một cách
trung thực và hợp lý.
- Mục tiêu về tính hiệu lực: thơng tin phản ánh tài sản của đơn vị phải
được đảm bảo bằng sự tồn tại trong thực tế, các nghiệp vụ được ghi sổ
thực tế đã xảy ra. Nói như vậy có nghĩa là, nếu một nghiệp vụ khơng có
đủ chứng cớ chứng minh rằng nó tồn tại trong thực tế thì thơng tin kế
toán đã vi phạm mục tiêu hiệu lực (phát sinh).
- Mục tiêu về tính trin vẹn (đầy đủ): thơng tin phản ánh trên Bảng khai
tài chính khơng bị bỏ sót trong q trình xử lý. Một nghiệp vụ đã xảy ra
trong thực tế thì phải được ghi chép đầy đủ, đúng bản chất, ngược lại là
đã vi phạm mục tiêu về tính đầy đủ của thơng tin kế tốn.
- Mục tiêu về quyền và nghĩa vụ: được hiểu là tất cả các tài sản được ghi
sổ đều thuộc quyền cảu đơn vị; tất cả các công nợ thuộc nghĩa vụ của
đơn vị. Nếu một TSCĐ nhận giữ hộ nhưng vẫn được ghi vào khoản
mục TSCĐ trên phần tài sản của đơn vị thì có nghĩa là đã vi phạm mục
tiêu quyền và nghĩa vụ.

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C



Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

- Mục tiêu về định giá: các tài sản phải được đánh giá đúng giá trị thực
tế, đúng theo nguyên tắc kế toán hiện hành.
- Mục tiêu phân loại: các bộ phận, nghiệp vụ đã được đưa vào tài khoản,
công việc sắp xếp các tài khoản trong bảng khai tài chính theo bản chất
kinh tế của chúng được thể chế hóa bằng các văn bản pháp lý đã có
hiệu lực. Ví dụ: một khoản nợ phải trả người bán phải được đưa vào
TK331, hay một khoản nợ phải thu khách hàng phải được hạch tốn
vào TK131.
- Mục tiêu về trình bày thơng tin trên bảng khai tài chính: đây là mục tiêu
bổ sung cho mục tiêu phân loại ở trên. Kiểm tốn viên cần khẳng định
rằng tất cả các thơng tin đã được trình bày đúng và thuyết mính rõ ràng
trong các bảng và các giải trình kèm theo.
- Mục tiêu về tính chính xác cơ học: đơn giản là việc cộng dồn, chuyển
sổ sang trang của kế toán đã được thực hiện đúng đắn, chính sác một
cách máy móc. Số dư cuối kỳ này nếu chuyển sổ sang số dư đầu kỳ kế
tiếp bị ghi sai là đã vi phạm mục tiêu chính xác cơ học.
Như vậy, dường như Kiểm tốn tài chính quan tâm rất nhiều đến các
thơng tin tài chính với đặc điểm là có thể lượng hóa được, và được ghi nhận
trên các chứng từ và sổ kế tốn. Cịn Kiểm tốn hoạt động khơng dừng lại ở
đó mà lại đi sang một mảng khác cũng rất quan trọng của hoạt động doanh
nghiệp.
Kiểm tốn hoạt động có 3 mục tiêu lớn cần giải quyết đó là: Sốt xét và
nhận định về hiệu lực của quản trị nội bộ, xem xét và đánh giá hiệu quả hoạt
động, nghiên cứu và nhận định hiệu năng quản lí. Cụ thể các mục tiêu như
sau:
Kiểm toán hoạt động quan tâm đến hệ thống kiểm soát nội bộ trên cả hai

phương diện “tác động” – sức mạnh gây nên kết quả, và “hiệu lực” – có giá trị
điều tiết, chi phối. Nếu như việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

kiểm tốn tài chính chỉ là cơng cụ, phương tiện để đạt được mục tiêu cuối
cùng là xác minh độ tin cậy của thơng tin thì Kiểm tốn hoạt động với tư cách
là hoạt động thẩm tra, đánh giá lại đi sâu vào tính chất thường xuyên của
nghiệp vụ tạo nên các quy trình cùng cách thức mà doanh nghiệp áp dụng quy
trình đó trong thực tế như thế nào nhằm đưa ra điểm mạnh cần phát huy và
điểm yếu cần khắc phục cho các nhà quản lí. Do đó, đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ trong Kiểm toán hoạt động là một trong những mục tiêu kiểm toán
rất quan trọng mà ta thường hay gọi với cái tên là “hiệu lực quản trị nội bộ”.
Để thấy được rõ hơn điểm khác biệt này, xin nêu ra đây một ví dụ về tổ
chức kế tốn về “Quy trình ln chuyển chứng từ nhập kho NVL”. Dưới đây
là quy trình luân chuyển chứng từ tại một công ty sản xuất kinh doanh xi
măng:
Nhà
cung cấp

Ban
kiểm
ngiệm


Kế tốn
vật tư

Thủ kho

Hóa đơn
vận đơn

Biên bản
kiểm
nghiệm

Phiếu
nhập kho

Thẻ kho
nhập kho

Kế toán
trưởng

Kế toán
vật tư

Ký duyệt

Bảo
quản lưu
trữ


Sơ đồ 2.1: Quy trình ln chuyển chứng từ nhập kho NVL
Dưới góc độ của một Kiểm toán viên thực hiện một cuộc Kiểm tốn tài
chính thì đánh giá kiểm sốt nội bộ đối với quá trình nhập kho NVL đơn giản
chỉ là nghiên cứu sự hiện diện và hoạt động của quy chế kiểm soát để đánh
giá trọng yếu và rủi ro. Nếu hoạt động kiểm sốt khơng hiện hữu Kiểm tốn
viên có thể nhận định rằng Kiểm soát nộ bộ về nhập kho NVL là yếu kém, và
do đó rủi ro kiểm sốt đối với q trình này lớn, cần phải thực hiện nhiều hơn

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

thủ thục kiểm toán cơ bản để xác minh độ tin cậy của thơng tin liên quan đến
nhập NVL.
Dưới cái nhìn của một Kiểm toán viên thực hiện một cuộc Kiểm tốn
hoạt động thì việc đánh giá kiểm sốt nội bộ đối với quá trình nhập kho NVL
hướng tới hai vấn đề: Quy trình nhập kho NVL có được áp dụng trong thực
tế? (tác động) và Kết quả của việc áp dụng quy trình? (hiệu lực). Do đó, nếu
thủ tục nhập kho NVL đưa ra mà không được áp dụng trong thực tế có nghĩa
là, Kiểm tốn hoạt động đối với q trình này cần được xem xét trên góc độ:
hậu quả từ việc không áp dụng đúng thủ tục, nguyên nhân của tình trạng này
là gì, và đề xuất phương hướng giải quyết hợp lý khắc phục tình trạng trên.
Mục tiêu lớn thứ hai của Kiểm toán hoạt động là xem xét và đánh giá
hiệu quả hoạt động. Ở đây, chúng ta cần hiểu hiệu quả là mối tương quan giữa

đầu vào là các yếu tố khan hiếm với đầu ra là hàng hóa, dịch vụ. Hiệu quả có
thể được diễn giải theo hai cách: xem xét phương án kết hợp tối ưu các nguồn
lực đầu vào để tạo ra cùng một đầu ra, hoặc ngược lại, với các nguồn lực hạn
chế doanh nghiệp có thể tạo ra một lượng đầu ra lớn nhất có thể.Mục tiêu hiệu
quả thường đi kèm với mục tiêu về tính kinh tế (hay tính tiết kiệm) là ở chỗ
đó. Mặc dù, hiệu quả là một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hoạt
động của doanh nghiệp, nhưng khi sử dụng nó như là một tiêu chí lớn để đánh
giá hoạt động của doanh nghiệp thì Kiểm tốn viên thực hiện Kiểm tốn hoạt
động cần gắn nó vào trong từng trường hợp cụ thể của các doanh nghiệp khác
nhau.
Ví dụ: xét hai doanh nghiệp, Doanh nghiệp A sản xuất thiết bị dùng
trong nông nghiệp, một tháng sử dụng hết 10,000 Kw điện. Trong khi đó,
Doanh nghiệp B là doanh nghiệp chế biến thực phẩm, một tháng chỉ sử dụng
hết 1,000 Kw điện. Không thể nói rằng, như thế là Doanh nghiệp B sử dụng
nguồn lực hiệu quả hơn Doanh nghiệp A được, sự so sánh kiểu như vậy thực
sự khơng có giá trị trong xem xét mục tiêu hiệu quả.

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

Nhận định của Kiểm toán hoạt động và Kiểm toán tài chính trong vấn đề
phù hợp giữa đầu vào và đầu ra này cũng rất khác nhau.
Ví dụ: Trong quý III, doanh nghiệp X tạo ra được doanh số 120 triệu
đồng, tăng 20% so với quý II trong khi chi phí kinh doanh của quý III chỉ tăng

15% so với chi phí kinh doanh quý II. Nếu chỉ mới biết được một thơng tin
đơn giản này, thì một Kiểm tốn viên thực hiện Kiểm tốn tài chính có thể
đưa ra nhận định ban đầu rằng: có thể xảy ra sai phạm trong việc ghi nhận
doanh thu và chi phí, doanh thu có thể bị ghi tăng so với thực tế, hoặc chi phí
có thể khơng được ghi nhận trong khi nó thực tế phát sinh. Ngược lại, Kiểm
toán viên thực hiện cuộc Kiểm tốn hoạt động có thể lại nhận định rằng: trong
quý III doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn quý II vì tốc độ tăng của
doanh thu cao hơn so với tốc độ tăng của chi phí, doanh nghiệp đã đạt được
hiệu quả một cách tương đối.
Nhưng cũng như hiệu lực quản trị nội bộ, Kiểm toán hoạt động coi hiệu
quả là mục tiêu của kiểm tốn cịn Kiểm tốn tài chính chỉ xem xét mối tương
quan giữa đầu vào và đầu ra như là một công cụ nhận định mức độ hợp lý của
thông tin hay sai phạm có thể có để từ đó có những thủ tục kiểm tốn cần thiết
(thủ tục phận tích trong Kiểm tốn tài chính).
Nghiên cứu và nhận định hiệu năng quản lí là mục tiêu lớn thứ ba của
Kiểm tốn hoạt động. Hiệu năng là khái niệm dùng để chỉ mối tương quan
giữa thực tế đạt được với mục tiêu đặt ra. Giữa ba khái niệm hiệu lực quản trị
nội bộ, hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lí có mối quan hệ chặt chẽ và
trong rất nhiều trường hợp đạt được mục tiêu này cũng đồng thời đạt được cả
mục tiêu khác.
2.2.3. Về chức năng kiểm toán.
Là hai loại hình kiểm tốn phân theo đối tượng kiểm tốn nên Kiểm tốn
tài chính và Kiểm tốn hoạt động đều tồn tại hai chức năng là xác minh và

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

bày tỏ ý kiến. Tuy nhiên, do sự khác nhau về đối tượng đã quy định những thể
hiện khác nhau cơ bản khi đi sâu vào chi tiết chức năng của hai loại hình này.
Kiểm tốn tài chính có đối tượng là các Bảng khai tài chính thì việc thực
hiện chức năng xác minh trước hết được thực hiện ở sự xác nhận của người
kiểm tra độc lập ở bên ngoài, cịn Kiểm tốn hoạt động thì chức năng xác
minh này có thể do Kiểm tốn viên bên ngồi hoặc bên trong doanh nghiệp
thực hiện mà chủ yếu vẫn là nội kiểm. Việc xác minh Bảng khai tài chính cần
đạt được hai mặt: tính trung thực của các con số, và tính hợp thức của các
biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính. Một biểu hiên của chức năng xác minh
là mơ tả, lý giải sự có mặt hay vắng mặt của đặc tính cần đánh giá. Cả Kiểm
tốn tài chính và Kiểm toán hoạt động đều thể hiện chức năng này tuy nhiên
Kiểm tốn tài chính thì chú ý hơn vào độ tin cậy và tính tn thủ, cịn Kiểm
tốn hoạt động lại chú ý hơn vào tần suất của các trình tự tạo ra kết quả.
Đối với chức năng bày tỏ ý kiến, Kiểm tốn tài chính hầu như chỉ hướng
đến bày tỏ về mức độ chấp nhận (đạt được) của Bảng khai tài chính: chấp
nhận tồn phần, chấp nhận từng phần, ý kiến từ chối, hay ý kiến bác bỏ. Kiểm
tốn hoạt động khơng chỉ đưa ra nhận định về mức độ đạt được của đối tượng
mà còn có một phần quan trọng khác đặc trưng của Kiểm toán hoạt động là
kiến nghị của Kiểm toán viên. Bởi Kiểm tốn hoạt động khơng hướng đến
việc xác nhận tính minh bạch của bảng khai tài chính mà việc thực hiện một
cuộc Kiểm tốn hoạt động là nhằm mục đích hồn thiện bộ máy quản lí, phục
vụ u cầu quản trị nội bộ là chủ yếu.
2.2.4. Về tính đầy đủ và tính hiêu lực của Bằng chứng kiểm tốn.
Như đã đề cập ở trên quan điểm về tính đầy đủ của Kiểm tốn tài chính
và Kiểm tốn hoạt động về tính đầy đủ và tính hiệu lực của Bằng chứng kiểm
toán là giống nhau. Nhưng khi đi vào chi tiết vẫn nhận thấy sự khác nhau
trong tính chất, đặc điểm của Bằng chứng kiểm toán phục vụ cho việc bày tỏ

ý kiến của một Kiểm toán viên thực hiện cuộc Kiểm tốn tài chính và của một

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

Kiểm toán viên thực hiện cuộc Kiểm toán hoạt động. Nếu như có thể phân
loại Bằng chứng kiểm tốn thành bằng chứng thu thập từ những tư liệu sẵn có
(Chứng từ kiểm toán) và bằng chứng do Kiểm toán viên thu thập từ những tư
liệu ngồi kế tốn thì dường như trong Kiểm tốn tài chính bằng chứng được
thu thập từ các tài liệu kế tốn là chủ yếu, cịn Kiểm tốn hoạt động thì ngược
lại. Sự khác biệt này là do sự khác nhau về mục tiêu kiểm toán tạo nên.
Chúng ta nên nhớ lại rằng mục tiêu của Kiểm tốn tài chính là xác minh tính
trung thực, hợp lý, hợp pháp của thơng tin tài chính, mục tiêu của Kiểm tốn
hoạt động là đánh giá tính hiệu lực của quản trị nội bộ, hiệu quả hoạt động và
hiệu năng quản lí. Kiểm tốn hoạt động có một mức độ trừu tượng nhất định
trong mục tiêu kiểm toán, nên bằng chứng cần thiết để đưa ra các kết luận
kiểm toán cũng có tính chất tượng tự như vậy.
Ví dụ: Kiểm toán viên nghi ngờ rằng việc Doanh thu tăng 20% trong
Quý III so với Quý II là do doanh thu bị khai khống. Khi đó, Kiểm tốn viên
có thể thu thấp bằng chứng kiểm toán bằng cách:
- Kiểm tra sự hiện hữu của hệ thống Kiểm soát nội bộ trong chu trình
bán hàng-thu tiền.
- Đối chiếu sổ chi tiết bán hàng và hóa đơn bán hàng.
- Đối chiếu sổ chi tiết giá vốn với sổ chi tiết hàng tồn kho.

- Đối chiếu số dư hàng tồn kho cuối kỳ trên sổ kế toán và qua kết quả
kiểm kê hàng tồn kho.
- Gửi thư xác nhận đối với người mua…
Từ đó, giả sử Kiểm tốn viên kết luận rằng: có sự gian lận trong việc ghi
nhận doanh thu bán hàng của đơn vị. Kiểm tốn tài chính sẽ dừng lại ở đây,
và Kiểm tốn viên có thể đề nghị đơn vị điều chỉnh đúng thực tế, nếu đơn vị
không điều chỉnh thì có thể nêu ra ý kiển ngoại trừ (nếu không trọng yếu)
hoặc bác bỏ (nếu trọng yếu). Song Kiểm tốn hoạt động sẽ tiếp tục tìm kiếm

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

Bằng chứng kiểm toán rằng: việc khai khống doanh thu xuất phát từ sự yếu
kém của bộ phận nào
- Bộ phận kế toán: ghi sổ sai nguyên tắc, ghi nhầm hai lần doanh thu của
cùng một hóa đơn bán hàng trong nhiều lần mà không phát hiện ra.
- Hay do bộ phận bán hàng: cố ý khai tăng doanh thu, nhân viên bán
hàng cấu kết với người mua giả mạo để kiểm thêm tiền…
Dựa vào tất cả những bằng chứng thu thập được, Kiểm toán hoạt động
chứng minh nhận định của mình về sự yếu kém trong quản lí của một bộ phận
nào đó là chính xác, và đưa ra giải pháp khắc phục tình trạng trên cho nhà
quản lí. Nên nhớ lại rằng, nhiệm vụ rất quan trọng của Kiểm tốn hoạt động
khơng chỉ là phát hiện sai phạm mà cịn là tư vấn cho nhà quản lí về các giải
pháp hợp lí, hiệu quả nhất.

Kiểm tốn tài chính hầu như chỉ xoay quanh các chỉ tiêu có thể lượng
hóa được (chỉ tiêu tài chính), cịn các chỉ tiêu phí tài chính như hiệu lực của
kiểm sốt nội bộ chỉ là công cụ cơ sở để thực hiện các thủ tục khác. Kiểm
toán hoạt động lại liên quan nhiều hơn đến các nghiệp vụ kinh tế, cách thức
thực hiện của các bên có liên quan, tính trừu tượng, tính khó định lượng cao,
nên việc thu thập Bằng chứng kiểm toán như thế nào được cho là đầy đủ,
thích hợp dường như khơng thể có một tiêu chuẩn chính xác cho việc này như
Kiểm tốn tài chính được.
2.2.5. Về tổ chức cơng tác kiểm tốn.
Dù tổ chức cơng tác kiểm tốn đã có một quy trình chung gồm các bước
cơ bản nhưng khi đi vào cụ thể từng cuộc kiểm toán lại khác nhau. Hơn nữa,
Kiểm toán hoạt động và Kiểm tốn tài chính lại có đối tượng, mục tiêu khác
nhau như vậy thì sự khác biệt này lại càng rõ ràng hơn. Và ngay cả các cuộc
Kiểm tốn tài chính cho những khách thể khác nhau đã khác nhau rồi. Để thấy
rõ hơn sự khác biệt đó, ta sẽ đi vào cụ thể theo từng bước của quy trình tổ
chức cơng tác kiểm tốn.

Lê Thị Việt Chi

Kiểm tốn 48C


Đề án môn học

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

Về tổ chức lập kế hoạch kiểm toán.
Một cuộc Kiểm toán tài chính thường được thực hiện dưới dạng ngoại
kiểm khác với Kiểm toán hoạt động gắn với mọi hoạt động của đơn vị nên sẽ
hiệu quả hơn nếu thực hiện dưới dạng nội kiểm. Do đó, trong q trình lập kế

hoạch kiểm tốn thì Kiểm tốn tài chính thường phải đạt được một hợp đồng
kiểm toán trước khi đi vào cơng việc chi tiết, cịn ở Kiểm tốn hoạt động thì
đó là sự chỉ thị của cấp quản lí về việc sốt xét một hoạt động nào đó trong
đơn vị. Thơng tin trong bước lập kế hoạch mà Kiểm tốn viên thực hiện cuộc
Kiểm tốn tài chính thu thập về đơn vị được kiểm tốn chỉ là những thơng tin
khái quát nhất như: ngành nghề kinh doanh, cơ cấu bộ máy tổ chức, quy định,
chính sách của đơn vị nhất là chính sách kế tốn… Mục đích của việc thu
thập này là để đánh giá ban đầu về trọng yếu và rủi ro của thơng tin tài chính
qua xem xét khái quát về hệ thống Kiểm soát nội bộ. Đối với Kiểm toán hoạt
động mà ở đây ta xem xét đến là một cuộc kiểm tốn hoạt động quy mơ lớn
thì ngay từ bước đầu tiên trong lập kế hoạch kiểm toán Kiểm toán viên đã
phải đi sâu vào nghiên cứu và đánh giá Kiểm soát nộ bộ của doanh nghiệp.
Mục tiêu chính của hoạt động này là giúp Kiểm tốn viên có những hiểu biết
đầy đủ về hoạt động cùng những giao dịch chính và thu thập những tài liệu
cần thiết ban đầu để lựa chọn phương thức tổ chức cùng thủ tục kiểm toán.
Dưới đây là sơ đồ về quy trình tổ chức lập kế hoạch kiểm tốn của cả hai
loại hình Kiểm tốn tài chính và Kiểm toán hoạt động.

Lê Thị Việt Chi

Kiểm toán 48C



×