Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.7 MB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ
---

--BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Dương Kiều Linh
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Yến Nhi
MSSV: 2157060078
Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh – CQB – Khoa Quan hệ Quốc tế

- Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2022 -


1

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, cho phép em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Dương
Kiều Linh. Trong suốt quá trình giảng dạy, nhờ sự nhiệt thành và sự tận tâm trong
việc truyền thụ kiến thức của cô, em đã có cơ hội được hiểu rõ hơn những kiến thức
cơ bản về một số vấn đề chung của mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó giúp
bản thân thấy rõ hơn vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự phát triển của dân
tộc Việt Nam, thấm nhuần những tư tưởng sâu sắc của Người.



Em thật sự trân trọng và cảm ơn cô về công lao ấy, nhờ có cơ mà em có thể
hồn thành bài tiểu luận này. Với những cố gắng cá nhân trong việc trình bày vấn
đề, em chắc chắn khơng thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em hy vọng sẽ
được cô theo dõi bài tiểu luận này và nhận được những lời nhận xét, góp ý nhằm
hồn thiện cũng như có thể khắc phục được những sai sót của bản thân.

Cuối lời, xin được chúc cô nhiều sức khỏe và thành công trong cuộc sống!
Em xin chân thành cảm ơn!
Trân trọng!

Lê Thị Yến Nhi.


2

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.
_________________________________
MỤC LỤC
I.

DẪN LUẬN..........................................................................................................................3
1.

Lý do chọn đề tài...............................................................................................................3

2.


Mục đích............................................................................................................................4

3.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.........................................................................................5

4.

Ý nghĩa..............................................................................................................................5

II.

PHÂN TÍCH......................................................................................................................6
1. Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản: Con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ
Chí Minh...................................................................................................................................6
2. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội – sợi chỉ đỏ xuyên suốt, nhất quán
trong hành trình đi tới mục tiêu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh........................................................................................................................11
2.1.
Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội................................12
2.2.
Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc.............14
3. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.15
3.1.
Những thành tựu nổi bật trong vận dụng và hiện thực hóa tư tưởng về con đường
cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh..............................................................15
3.2.
Phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta....................................................22
4. Ý nghĩa của việc học tập và tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách
mạng Việt Nam đối với sinh viên ngày nay............................................................................24


III.

KẾT LUẬN.....................................................................................................................25

IV.

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................26

I. DẪN LUẬN


3

1. Lý do chọn đề tài
Trước năm 1930, cách mạng Việt Nam đứng trước sự khủng hoảng về đường lối
khi những phong trào yêu nước của các nhà cách mạng như Phan Bội châu, Phan Châu
Trinh cùng với các khuynh hướng cứu nước dù theo phong kiến hay dân chủ tư sản đều
có một kết quả chung là thất bại. Với một lòng vĩ đại yêu nước, thương dân, chứng kiến
bao cảnh bất công và lầm than của dân tộc dưới ách đô hộ và thống trị của bọn thực dân
tàn bạo, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã gác lại việc nhà, hy sinh hạnh phúc cá
nhân để ra đi tìm đường cứu nước. Với tư duy sắc sảo và tầm nhìn xa trơng rộng, Hồ
Chí Minh sau khi đã đi khắp các châu lục, qua nhiều nước khác nhau đã thấu hiểu tâm
địa và bản chất của kẻ thù, đồng thời cũng biết được chỗ mạnh, chỗ yếu của chúng, biết
được chí khí và sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Người nói "...chúng ta phải làm cho
dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập".1
Từ một người thanh niên yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một chiến sỹ
cộng sản quả cảm, kiên trung. Chính Người đã tìm ra cho dân tộc Việt Nam một con
đường cứu nước mới, phù hợp với chân lý của thời đại, được hình thành trên nền tảng

của chủ nghĩa Mác - Lênin: muốn giải phóng dân tộc Việt Nam khơng có con đường
nào khác đó là con đường cách mạng vơ sản. Chính tư tưởng này đã chỉ đạo Hồ Chí
Minh và Đảng ta trong việc đề ra chiến lược và sách lược cách mạng trong việc tổ chức
và lãnh đạo nhân dân ta vùng lên đấu tranh phá xích xiềng nơ lệ của bọn thực dân,
phong kiến, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong những di sản mà Hồ Chi Minh để lại cho Đảng ta, cho cách mạng Việt
Nam có rất nhiều tư tưởng và quan điểm mà Đảng ta đã và đang vận dụng trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay. Suốt tiến trình lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 7/


4

luôn là ngọn đuốc soi đường, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và cách mạng Việt Nam. Theo con đường cách mạng vô sản và giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc ta đi từ hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác, tiến lên giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiến tạo đất
nước ngày một phát triển như ngày hơm nay. Để góp phần nhìn nhận lại một lần nữa tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ
sản, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội và cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam
chung tay vận dụng những tư tưởng của Người trong việc đổi mới, em xin thực hiện đề
tài : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và sự vận dụng
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay” làm bài tiểu
luận kết thúc học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Mục đích
Từ sự khủng hoảng của đường lối cứu nước, ta thấy được tầm quan trọng của tư
tưởng Hồ Chi Minh khi con đường cách mạng của Người xác định cho dân tộc Việt
Nam đã như ngọn đuốc dẫn đường đưa sự nghiệp cách mạng đất nước đến với vinh

quang. Vạch ra con đường cứu nước đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ khai
thơng bế tắc đường lối giải phóng dân tộc, mà cịn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh
đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu nhất của cách mạng nước ta. Nghiên cứu
đường lối ấy giúp mỗi cá nhân trong thời đại ngày nay hiểu được tính quy luật của sự
phát triển lịch sử xã hội Việt Nam - cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hồn tồn. Đồng thời thấy
được sự sáng tạo và khác biệt trong tư duy của Hồ Chủ tịch, thể hiện nét đặc sắc và sự
khác biệt căn bản về con đường cứu nước so với các con đường của Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học ở Việt Nam; khác biệt với con đường cứu nước của
M.Ganđi, G.Nêru ở Ấn Độ, A.Xucacnô ở Inđônêxia và nhiều nhân vật khác trên thế


5

giới. Qua đó, mỗi cá nhân, mỗi tổ chức phải tự ý thức tiếp tục giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng để kết hợp nhuần nhuyễn, khơn khéo và thơng
minh tính kiên định về nguyên tắc với đầu óc uyển chuyển, phát huy tinh thần và khả
năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp ứng tình hình quốc tế và đất nước
giai đoạn đầy biến động nhanh và khôn lường hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Bài luận sẽ tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng
Việt Nam thông qua những biểu hiện từ lúc mới hình thành đến khi vận dụng vào thực
tiễn cách mạng để giành độc lập. Thông qua những đánh giá về sự sáng suốt và đúng
đắn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn để thấy được tính khả thi thực tiễn và khả
năng vận dụng lâu dài, từ trong kháng chiến đến xây dựng đất nước và kể cả kiến tạo
phát triển xã hội trong công cuộc đổi mới ngày hôm nay.

4. Ý nghĩa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “ Đi lên chủ

nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.” 2 Xác
định con đường cách mạng vô sản, việc giương cao ngọn cờ lập dân tộc gắn liền chủ
nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1930, là đường lối nhất quán của Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhân dân ta đồng tình ủng hộ, dứt khốt khơng thay
đổi và khơng ai có thể thay đổi. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm
qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự
do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, Nxb. CTQG, H. 2011, tr. 39.


6

thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển. Mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại – đó chính là con đường phát triển, là mục
tiêu, là bước đi của cách mạng nước ta, là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và
cũng là triết lý phát triển Việt Nam trong thời đại mới.

II.

PHÂN TÍCH
1. Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản: Con đường cứu nước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đất nước ta bị đọa đày dưới ách

thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Dân
tộc Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, “tình hình đen tối
tưởng chừng như khơng có đường ra” 3. Sứ mệnh lịch sử đặt lên vai mỗi người dân Việt

Nam yêu nước đương thời là phải tìm ra con đường cứu nước đáp ứng đòi hỏi của lịch
sử dân tộc và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Trước đòi hỏi bức thiết của lịch sử dân tộc, nhiều phong trào yêu nước và cách
mạng mang màu sắc, khuynh hướng tư sản và phong kiến do các sĩ phu yêu nước tiến
hành, nhưng đều đi đến bế tắc, thất bại, do thiếu một cương lĩnh rõ ràng và nhất quán;
thiếu nguyên tắc tổ chức chặt chẽ, khoa học của một chính đảng cách mạng; khơng huy
động được lực lượng hùng hậu của nhân dân, khơng có cơ sở xã hội vững chắc. Vì thế,
dù rất khâm phục họ, nhưng Nguyễn Tất Thành khơng hồn tồn tán thành cách làm của
một ai, không đi theo bất kỳ con đường nào trong số đó.
Với nhận thức sâu sắc về thực tại xã hội và rất đau xót trước nỗi thống khổ của
đồng bào, mang trong mình tinh thần yêu nước nồng nàn, Nguyễn Tất Thành có sự đột
phá táo bạo và đúng đắn khi xuất dương tìm đường cứu nước. Về sau, Người cho biết:
3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 401.


7

“Nhân dân Việt Nam trong đó có ơng cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai
là người sẽ giúp mình thốt khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có
người lại cho là Mỹ. Tơi thấy phải đi ra nước ngồi xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm
ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.4
Sau nhiều năm bôn ba ở khắp các châu lục Á, Phi, Âu, Mỹ làm đủ mọi nghề để
kiếm sống, hịa mình trong quần chúng cần lao, trong giới thợ thuyền, trực tiếp chứng
kiến cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: “ Ở đâu
chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng bị áp bức,
bóc lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là bọn đế quốc thực
dân. Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột
và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ
sản”.5 Người vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, thực dân và
nêu lên tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là phải phối hợp chặt chẽ

với cách mạng vô sản ở chính quốc. Người phân tích: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa,
có một vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một vịi khác bám vào giai cấp vô
sản ở các nước thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai cái vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi thì cái vịi kia vẫn tiếp tục hút máu
của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.6
Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và khát vọng giành
độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy vấn đề giải
phóng dân tộc và giải phóng con ngưịi là nhu cầu cấp thiết khơng chỉ với Việt Nam mà
với tất cả các dân tộc thuộc địa và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới. Từ tình u
thương con ngưịi đã trở thành khát vọng giải phóng con người, Nguyễn Ái Quốc ln
nung nấu ý chí tìm đường giải phóng khơng chỉ với dân tộc mình mà cịn với mọi tầng
4 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG,
Hà Nội, 2006, t.1, tr. 41.
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG ,Hà Nội 2000, t.1, tr. 266.
6 Hồ Chí Minh: Tồn tập , t.2, tr.130.


8

lớp cùng khổ trên khắp các châu lục. Khi nhận ra các cuộc cách mạng tư sản Pháp, cách
mạng tư sản Mỹ chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế chế độ bóc lột khác tinh vi
hơn chứ khơng xóa bỏ được áp bức bóc lột, Người cho rằng đó là những cuộc cách
mạng khơng đến nơi, khơng triệt để. “Tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. 7
Giữa lúc còn băn khoăn về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc đã bắt gặp được những tư tưởng của V. I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa
(7-1920). Từ bản Luận cương của Lênin, Người đã tìm thấy phương hướng và đường lối
cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam.
Tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của lồi người và
tính chất của thời đại mới mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã đi tới khẳng

định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.8 Sau này Người nhớ lại: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính
trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần
chính. Luận cương của Lênin làm cho tơi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng
biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên
như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!". Từ đó tơi hoàn toàn tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.9
Với 12 luận điểm quan trọng, bản Luận cương của V.I.Lênin đã tác động mạnh
mẽ đến Nguyễn Ái Quốc và Người đã hình thành nên quan điểm về giải phóng dân tộc:
Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam muốn thắng lợi phải theo con đường cách
mạng vô sản. Trên bình diện tổng thể, sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của
7 Nguyễn Ái Quốc: Đường Cách mệnh, các tổ chức tiền thân của Đảng, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương,
1977, tr. 32-33.
8 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, t. 9, tr.314.
9 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 562


9

Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam, là làm thế nào
để giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập, tự do
cho nhân dân; và lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới. Nói cách khác, với việc lựa
chọn con đường cứu nước đúng đắn, chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết
được cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc kéo dài hai phần ba
thế kỷ.
Tiếp thu và quán triệt tư tưởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sớm xác định
hướng đi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Tuy đi theo con

đường cách mạng vơ sản, Người vẫn có những sáng tạo riêng để phù hợp với tình trong
nước lúc bấy giờ mà điển hình chính là điều kiện thành cơng của cách mạng. Trước đây,
Mác cho rằng một trong những điều kiện để cách mạng vô sản thắng lợi là cuộc cách
mạng đó phải nổ ra cùng một lúc ở nhiều nước. Lênin trong hoàn cảnh và điều kiện lịch
sử mới, đã phân tích sự phát triển khơng đều của chủ nghĩa đế quốc và khẳng định rằng
cách mạng vô sản có thể bùng nổ và thành cơng trong một nước, nước đó là khâu yếu
nhất của chủ nghĩa đế quốc. Thấm nhuần quan điểm của Lênin về mối quan hệ gắn bó
giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc, nhưng phải
chăng đó là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, chính quốc thắng thì thuộc địa mới thắng.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng giải phóng thuộc địa có thể thành cơng trước
cách mạng vơ sản ở chính quốc. Người đã nêu rõ: Những người cách mạng ở thuộc địa
cần chủ động tạo ra thời cơ: “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó
mau đến!”.10 Luận điểm đó của Người xác định rõ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam khơng thể ngồi chờ, không ỷ lại vào cách mạng ở “chính
quốc”.
10 Hồ Chí Minh: Tồn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.40.


10

Luận điểm này đến năm 1924 được nâng lên một tầm mới: đó là cách mạng ở
thuộc địa cần phải tiến hành trước cách mạng giải phóng giai cấp ở chính quốc. Luận
điểm đó được Người phát biểu tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản: “Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới phụ thuộc phần lớn vào các thuộc địa, nơi cung cấp lương thực
và binh lính cho các nước lớn đế quốc chủ nghĩa. Nếu chúng ta muốn đánh bại các nước
này thì trước hết phải tước hết thuộc địa của chúng đi”.11
Một điểm sáng tạo khác trong việc tiếp thu và vận dụng tư tưởng vơ sản của Hồ
Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam chính là vấn đề động lực cách mạng, nghĩa
là dựa vào lực lượng nào để tiến hành cách mạng. Trong khi Lênin nhấn mạnh về sự ủng
hộ của tất cả các đảng cộng sản cho vấn đề này trong Luận cương về vấn đề dân tộc và

thuộc địa, Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh động lực cách mạng chính là phải dựa vào sức
mình để giải phóng mình. Luận điểm này thể hiện rõ qua thực tiễn khi Cách mạng
Tháng Mười Nga đã giúp đỡ các dân tộc khác thốt khỏi ách thống trị của Nga hồng là
chứng minh cho những điều Lênin đã nói về sự giúp đỡ của giai cấp vơ sản “chính
quốc” có vai trị quan trọng đối với nhân dân thuộc địa; nó càng được chứng minh sự
sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là đúng đắn khi Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam năm
1945 diễn ra khi Việt Nam làm cách mạng trước nước Pháp “chính quốc”, hồn tồn
dựa vào sức mình và đã thành công vang dội. Tuy nhiên ở điểm này cũng phải nói thêm
rằng, tuy Nguyễn Ái Quốc nhìn rõ tiềm năng cách mạng to lớn của nhân dân các nước
thuộc địa, cụ thể là Đông Dương, nhưng Người không đánh giá quá cao và chủ quan
một chiều về năng lực ấy. Cần hiểu rõ cách mạng giải phóng thuộc địa phải dựa vào sức
mình là chính nhưng đương nhiên phải có những điều kiện khác nữa như tổ chức hạt
nhân lãnh đạo cách mạng, quân đội cách mạng, các tổ chức quần chúng, thời cơ thuận
lợi và chắc thắng cho cách mạng, vấn đề đoàn kết quốc tế…

11 Tạp chí La Correspondance internationnale, số 41, 1924.


11

Tóm lại, có thể thấy rõ Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V. I.
Lênin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin sau
những nỗ lực và công sức bền bỉ trong việc tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Tác
phẩm đã giúp Người tìm thấy lời giải cho những câu hỏi lớn về vận mệnh đất nước, soi
sáng con đường giải phóng dân tộc. Từ những nền tảng đó kết hợp cùng những sáng tạo
từ nhận thức và kinh nghiệm cá nhân, Người đã xúc tiến và chuẩn bị những điều kiện
cần thiết, hướng phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam vào con đường cách mạng
vô sản, tạo điều kiện đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mn vàn sóng gió
thác ghềnh mà đi đến những bến bờ thắng lợi. Những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc
trên đây rõ ràng có vai trò rất to lớn trong tổ chức và chỉ đạo phong trào giải phóng dân

tộc Việt Nam và đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

2. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội – sợi chỉ đỏ xuyên
suốt, nhất quán trong hành trình đi tới mục tiêu vì một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Nhận thức rõ bộ mặt của chủ nghĩa thực dân, Người sớm đi đến kết luận quan
trọng sau khi đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa: trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc phải đồng thời gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp
cơng nhân và giải phóng xã hội. Cả hai cuộc giải phóng đó đều là sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, là sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Giải
phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân, trên nền tảng của ý thức hệ của
giai cấp công nhân nên cách mạng giải phóng dân tộc với mục tiêu giành độc lập dân
tộc phải do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới, việc đấu tranh lật đổ ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành
độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt của mọi quốc gia, dân tộc bị áp bức, của các dân


12

tộc thuộc địa. Song, việc xác định mục tiêu lâu dài, con đường phát triển tiếp theo của
mỗi nước, mỗi dân tộc lại tùy thuộc vào quan điểm, lập trường của giai cấp cầm quyền.
Một số nước sau khi kiên trì đấu tranh giành được độc lập dân tộc quyết định đưa đất
nước tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trong
đó có Việt Nam. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa xã hội là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự
do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”12. Chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giải
phóng triệt để giai cấp vơ sản và nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột, bất công, mới
đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở

thành người làm chủ xã hội; “độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.13
2.1.

Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội

Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nói về giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.14
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí
Minh xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản
(tức cách mạng xã hội chủ nghĩa). Như vậy, giải phóng dân tộc giành độc lập dân tộc sẽ
là mục tiêu đầu tiên của cách mạng, là cơ sở, tiền đề cho mục tiêu tiếp theo - chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Kết luận này được Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra từ sự

12 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, tr.64.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 65.
14 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, tr.4, 480.


13

phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam
thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính
phổ biến. Với dân tộc Việt Nam, đó cịn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ
gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.
Với Người, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó

là nền độc lập thật sự, độc lập hồn tồn, chứ khơng phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập
nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền
với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ
cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng bao giờ
coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là
mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng
thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển
sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân
chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ.
Tư tưởng trên của Hồ Chí Minh là đúng đắn và sáng tạo vì khơng chỉ đáp ứng
u cầu khách quan, cụ thể của cách mạng Việt Nam mà còn phù hợp với quy luật phát
triển của thời đại.

II.2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc
Giành được độc lập dân tộc mà không gắn với chủ nghĩa xã hội thì chẳng những
khơng giữ được độc lập dân tộc mà cịn khơng thể mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại và phù hợp lợi ích của nhân dân Việt


14

Nam. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải mang tính định hướng xã
hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hồn tồn và triệt để. Năm 1960, Người
khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ.” Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước hết là một chế độ dân chủ, do dân làm
chủ, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam. Chế độ dân chủ thể hiện trong tất

cả cái mặt của đời sống xã hội và được thể chế hóa bằng pháp luật. Đây là điều kiện
quan trọng nhất để đảm bảo nền độc lập dân tộc, tạo ra nền tảng ý thức xã hội bảo vệ
chủ quyền dân tộc, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu thơn tính, đe dọa nền
độc lập, tự do của dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền dân tộc tự quyết, quyền lựa chọn con đường và
mơ hình phát triển đất nước; bảo đảm quyền và phát huy năng lực làm chủ của nhân
dân, xóa bỏ triệt để tình trạng áp bức, bóc lột. Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp
tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền,
bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới khơng có chiến tranh, khơng có sự hồnh hành
của tội ác, của tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người phát triển tồn diện, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “u Tổ quốc, yêu nhân
dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân
mới ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mới ngày một giàu mạnh thêm”.15
Như vậy, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ
sở cho phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Chủ nghĩa xã hội có khả năng
làm cho đất nước phát triển mạnh mẽ, sẽ tạo nên tảng vững chắc để bảo vệ độc lập dân
tộc và hơn thế nữa, sẽ là một tấm gương cho tất cả các quốc gia trên thế giới nhất là các
quốc gia mới giành được độc lập đang định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội

15 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb CTQG- Sự thật, Hà Nội, tập 11, tr.401.


15

hiện thực cũng sẽ góp phần hạn chế những cuộc chiến tranh phi nghĩa bảo vệ nền hịa
bình thế giới.
Từ đó có thể thấy rõ, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.


3. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay
3.1.

Những thành tựu nổi bật trong vận dụng và hiện thực hóa tư tưởng về
con đường cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng và con đường cách
mạng Việt Nam, ngay sau khi ra đời, Đảng ta vận dụng sáng tạo trong đề ra đường lối
lãnh đạo cách mạng và đã có những thành tựu nổi bật, độc đáo.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội – dựa trên nội hàm “cách mạng vô sản” được Chủ tịch Hồ
đề cập, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đã và đang giành được những thắng lợi to
lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945
thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời là một trong những thắng lợi nổi
bật, vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, đã làm cho chế độ thuộc địa
nửa phong kiến ở nước ta bị xóa bỏ, một kỷ nguyên mới mở ra, kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đồng thời, góp phần quan trọng vào tiến trình cách
mạng thế giới, phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực hiện vai trị tiên
phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội.
Cách mạng Tháng Tám kết hợp với sức mạnh của chế độ mới - chế độ dân chủ
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam tạo
nên hợp lực to lớn, giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử (năm 1954). Miền Bắc hoàn


16

tồn giải phóng, từng bước q độ lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững

chắc cho cách mạng cả nước. Hai mươi mốt năm kiên cường kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng mà Đảng đã vạch ra, với cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, nhân dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt, kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối.
Thứ hai, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn các đặc điểm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định:
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ chủ nghĩa xã hội; Từ một xã
hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất rất
thấp; Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều chục năm, hậu quả xã hội do
chiến tranh để lại rất nặng nề; Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế
độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta; Đó là những khó khăn
khách quan trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cho thấy thời kỳ quá
độ ở Việt Nam là một thời kỳ lịch sử lâu dài, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ mới
mẻ, phức tạp chưa có tiền lệ.
Bên cạnh đó, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa cũng có nhiều thuận lợi:
Đất nước hịa bình và thống nhất; Dân tộc Việt Nam có truyền thống anh hùng,
bất khuất, nhân dân ta có lịng u nước và cần cù lao động; Chúng ta có một số cơ sở
vật chất ban đầu; Thời cơ phát triển do cách mạng khoa học và cơng nghệ và xu thế
quốc tế hố đời sống kinh tế thế giới tạo ra.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định:
Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một quá trình cách mạng sâu sắc,
triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên


17


tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Chỉ rõ những thuận lợi cơ bản đó là: Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị
vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý
chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn, có truyền thống đồn
kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng; Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất
quan trọng; Cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, sự hình thành và phát
triển kinh tế tri thức cùng với quá trình tồn cầu hố và hội nhập quốc tế là một thời cơ
để phát triển.
Thứ ba, Về mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
Trong q trình tiến hành cơng cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhận thức này càng rõ
hơn những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Bắt đầu từ Đại hội VII (tháng
6/1991), Đảng ta đã khái quát các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X và
XI của Đảng đã bổ sung, phát triển các đặc trưng trên.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991 đã khái quát 6 đặc trưng của xã hội chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn
diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.



18

Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới, trên nền Cương
lĩnh năm 1991, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã có sự bổ sung, phát triển, nêu lên 8
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Một là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. (Đây là đặc trưng mới mà Cương lĩnh năm
1991 chưa đề cập. Sự bổ sung phản ánh yêu cầu diễn đạt chủ nghĩa xã hội một cách khái
quát, ngắn gọn, dễ hiểu nhất).
Hai là, do nhân dân làm chủ. (So với Cương lĩnh năm 1991 đã bỏ cụm từ “lao
động” cho đúng với thực tế khi đã xây dựng về cơ bản chủ nghĩa xã hội).
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. (So với Cương lĩnh
năm 1991 đã bỏ cụm từ: “dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” và
thay bằng cụm từ mới “quan hệ sản uất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất” nhằm tránh sự hiểu lầm, xuyên tạc về đường lối kinh tế của Đảng ta. Cách
diễn đạt này không trái với Cương lĩnh năm 1991 vì quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ lực lượng sản xuất hiện đại trong điều kiện nền kinh tế phát triển cao chính là quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa).
Bốn là, có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. (So với Cương lĩnh năm 1991 đã bỏ cụm từ “bóc
lột” xuất phát từ thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ và do khái niệm “bóc lột” cịn có ý
kiến khác nhau).
Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. (So với Cương lĩnh năm 1991 đã bổ sung cụm từ tương trợ).
Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. (Đặc trưng này chưa được đề cập trong
Cương lĩnh năm 1991. Sự bổ sung thể hiện nhận thức rất mới của Đảng về Nhà nước xã
hội chủ nghĩa).

Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.


19

Như vậy, so với Cương lĩnh năm 1991, về số lượng, Đại hội X đã bổ sung hai đặc
trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa và sửa đổi một số ý trong sáu đặc trưng nêu trong
Cương lĩnh năm 1991. Đó là bước phát triển mới của Đảng trong nhận thức lý luận và
tổng kết thực tiễn về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) tiếp tục hồn thiện mơ hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XI tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thêm nội dung các đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, gồm:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. (So với Đại hội X, đưa
cụm từ “dân chủ” lên trước “công bằng” cho phù hợp về lý luận và thực tiễn mối quan
hệ dân chủ và cơng bằng).
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp. (Thay đổi so với Đại hội X trong cách diễn đạt về quan hệ sản
xuất nhằm khẳng định quả quyết hơn về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa khi kết thúc
thời kỳ quá độ và để khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội muốn nhanh chóng có quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa khi chưa có đủ điều kiện...).
- Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện. (So với Đại hội X, bỏ cụm từ “con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng”
cho phù hợp với thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ);
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp
nhau cùng phát triển. (So với Đại hội X, bổ sung các cụm từ “tơn trọng” và “phát triển”
vì đây là những vấn đề rất quan trọng trong quan hệ dân tộc hiện nay);

- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;


20

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. (So với
Đại hội X có thay đổi cho phù hợp với xu thế trong thực tiễn quan hệ đối ngoại của
nước ta với các nước trên thế giới).
Đại hội XI cũng khẳng định: để xây dựng được xã hội với các đặc trưng trên phải
tiến hành một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và
cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất
thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau.
Thực tiễn sau 30 năm kháng chiến thành công, đất nước bước vào một kỷ ngun
mới: kỷ ngun hịa bình, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những
năm đầu, đất nước ta phải đương đầu với những thách thức, khó khăn chồng chất: hậu
quả nặng nề của chiến tranh chưa được khắc phục, thì lại vừa phải tiến hành cuộc chiến
đấu mới để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế,
vừa phải chống lại sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, vừa phải tiếp tục tìm
tịi, khảo nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm Việt Nam trong
điều kiện mới. Cùng với những khó khăn khách quan, cịn có những khuyết điểm chủ
quan trong lãnh đạo, quản lý và cơ chế, chính sách, khiến cho kinh tế - xã hội nước ta
lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Đứng trước yêu cầu của lịch sử, nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, khi đổi mới đã trở thành vấn đề có tầm quan trọng sống cịn đối với dân tộc,
bằng bản lĩnh chính trị đã được tơi luyện trong quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, tự
phê bình và phê bình sâu sắc, nhận thức lại con đường, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã
hội, lắng nghe, tập hợp ý kiến, nguyện vọng và trí tuệ của nhân dân để hoạch định

đường lối đổi mới đất nước tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986).
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đáp ứng đòi hỏi cấp bách
của đất nước, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và cục diện thế giới mới.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã không
ngừng nỗ lực, tích cực, chủ động tìm tịi, khám phá và sáng tạo. Con đường đi lên chủ


21

nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn cả về lý luận và thực tiễn. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội
VII của Đảng (năm 1991) và 20 năm sau, từ thực tiễn của đất nước, Đảng đã hoạch
định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) - là bước phát triển nhận thức, lý luận quan trọng trong tiến trình
đổi mới đất nước.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là sau 35 năm đổi mới, dù
trong hồn cảnh khó khăn, thử thách thế nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ðó là con đường hợp quy luật phát triển của
lịch sử Việt Nam, của cách mạng Việt Nam để có một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con đường hiện thực hóa khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Qua 35 năm đổi mới, nhờ vận dụng sáng tạo, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của
Ðảng, sự nỗ lực phấn đấu, chung sức đồng lịng của tồn Ðảng, tồn dân, tồn qn và
sự giúp đỡ, hợp tác của cộng đồng quốc tế, nhân dân ta đã đạt được “những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi
mới”16, tạo ra thế và lực mới để đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những
thành tựu về đổi mới cho chúng ta niềm tin về sự lựa chọn đúng đắn của mơ hình chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Quy mô GDP không
ngừng được mở rộng, năm 2020, đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn
thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512

USD. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020, đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch
xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm
2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm
16 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập I, tr. 25.


22

202017… Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng nhận định: “lý luận về đường lối đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hóa […] Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay". 18 Tất nhiên trong suốt hành trình cách
mạng sáng tạo nhưng cũng gặp phải rất nhiều trở ngại, gian nan, khơng phải chúng ta
khơng có một số hạn chế, yếu kém khi thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể của việc xây
dựng nền độc lập dân tộc và hướng tới chủ nghĩa xã hội; song chúng ta đã sớm nhận ra
để điều chỉnh và khắc phục, từ đó tự hồn thiện để vững vàng đi tiếp trên con đường
cách mạng.
Phát biểu khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây
dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính ngun tắc, có ý
nghĩa sống cịn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai
được ngả nghiêng, dao động”.
3.2.


Phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Từ nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta
xác định phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là khơng qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của quá trình xây dựng chủ
17 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. (2021,
September 30). Báo Nhân Dân Điện Tử. />18 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập I, tr.103-104.


23

nghĩa xã hội ở nước ta. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập địa
vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Nhận
thức của Đảng về các q trình này ngày càng hồn chỉnh hơn.
Trong Văn kiện Đại hội VII, Đảng ta xác định phương hướng đi lên chủ nghĩa
xã hội ở các nội dung sau đây:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hố đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm
nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,

vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện
nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hoá làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn
hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư
tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.


24

Năm là, thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các
nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, đồn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
4. Ý nghĩa của việc học tập và tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về con

đường của cách mạng Việt Nam đối với sinh viên ngày nay.
Việc học tập và tìm hiểu tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường
cách mạng Việt Nam đối với sinh viên là vơ cùng quan trọng và có ý nghĩa to lớn.
Ngoài việc giúp nhận thức được bản chất khoa học, cách mạng và những sáng tạo trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối và con đường cho độc lập dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc, những kiến thức được trang bị còn giúp thế hệ sinh viên nắm bắt
được tính quy luật của cách mạng Việt Nam: Con đường cách mạng vô sản là con
đường đúng đắn duy nhất, luôn giương cao và phát huy ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền
chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp thế hệ những người trẻ như sinh viên có
khả năng nhận thức và phản bác những luận điểm xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh,
cảnh giác trước những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch, chống diễn biến
hồ bình trong bối cảnh kinh tế và chính trị tương đối phức tạp như trong giai đoạn hiện
nay.


×