Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Bài tập nhóm khái quát đường lối xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong cả nước giai đoạn 1975 1986 và quá trình tìm tòi đường lối đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.19 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ

--- ---

BÀI TẬP NHĨM
MƠN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Số thứ tự nhóm: 10
Mã lớp học phần: HIS1001-11
Giảng viên: T.S Phạm Thị Lương Diệu

Hà Nội, 2023

1


BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
STT

Họ tên

MSSV

Điểm đánh giá

1

Nguyễn Hoài Nam

20041812



3/3

2

Đỗ Quỳnh Chi

20040228

3/3

3

Khổng Phương Thảo

20041119

3/3

4

Lại Trịnh Thu Trà

20041234

3/3

5

Nguyễn Phương Nhung


19041775

3/3

6

Nguyễn Thị Tâm Anh

20041125

3/3

7

Nguyễn Thị Phương Linh

20041657

3/3

8

Nguyễn Thị Hà Phương

20041211

3/3

9


Hà Thị Thu Nguyệt

20041662

3/3

10

Lê Khánh Huyền

20041652

3/3

2


Đề tài 1: Khái quát đường lối xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong cả nước giai đoạn 1975-1986 và q trình tìm tịi đường lối đổi mới, đổi
mới từng bước của Đảng?
Trả lời:
* Bối cảnh lịch sử:
Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta đã hịa bình, độc lập, thống
nhất, cả nước q độ lên chủ nghĩa xã hội. Về mặt nhà nước, ta đã hồn thành
thống nhất hai chính quyền khác nhau ở hai miền Nam Bắc, trong đó nổi bật là
việc tổ chức thành công Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam và
sau đó là kỳ họp thứ nhất Quốc hội nước Việt Nam thống nhất. Điều này có ý
nghĩa to lớn trong việc tạo ra sức mạnh toàn diện, là điều kiện tiên quyết để đưa cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trước hoàn cảnh lịch sử trong nước và thế giới có nhiều thuận lợi song cũng có
nhiều khó khăn thách thức, đồng thời đáp ứng yêu cầu phải kiểm điểm lại đường
lối, chủ trương, chính sách, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, định ra
mục tiêu, nhiệm vụ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành tổ chức Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) và lần thứ V(1982) cùng các Hội nghị Trung
ương 6 (8/1979), 8 (6/1985), Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986), qua đó đề ra
đường lối xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn 1975-1986
cũng như tìm tịi, tiến hành những đổi mới, các bước đột phá trên nhiều lĩnh vực.
1. Đường lối xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong cả nước
giai đoạn 1975-1986
Đường lối xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam giai
đoạn 1975-1986 được Đảng đưa ra chủ yếu tại Nghị quyết của hai kỳ Đại hội: Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (tương ứng với giai đoạn 1975-1981) và Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ V (tương ứng với giai đoạn 1982-1986). Trong đó, cụ
thể:
* Giai đoạn 1975-1982:
Diễn ra từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ
IV của Đảng không những nêu rõ, báo cáo chi tiết về phương hướng nhiệm vụ chủ
3


yếu của Kế hoạch 5 năm, tổng kết xây dựng Đảng, mà hơn hết đã xác định đường
lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là: “Nắm
vững chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hố, trong đó cách mạng
khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây
dụng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ

người bóc lột người, xố bỏ nghèo nàn và lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác,
thường xuyên củng cố quốc phịng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây
dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hịa bình, độc lập thống nhất và xã hội chủ
nghĩa”. Qua đó thấy được, trong đường lối chung của Đảng về xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội
chủ nghĩa, nền sản xuất lớn, nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; coi
chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là
công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời đại hội cũng đặt ra đường lối, phương hướng cho từng lĩnh vực cụ
thể. Về phát triển kinh tế, Đảng ta chú trọng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương,
kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất. Đồng thời trong điều kiện kết hợp phát triển kinh tế với văn hóa,
yêu cầu đặt ra là phải bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân. tích lũy để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng
và văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước xã hội
4


chủ nghĩa, phát huy vai trị của các đồn thể, làm tốt công tác quần chúng; coi
trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng.
* Giai đoạn 1982-1986:
Với sự thành cơng của Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ V (3/1982), Đảng đã
đề ra Nghị quyết Đại hội V, trong đó khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối
chung và đường lối kinh tế do Đại hội lần thứ IV đề ra, đồng thời bổ sung đường
lối chung trên trong điều kiện tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng
cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, cụ thể:

Trong hoàn cảnh nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội do
đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đường lối
chung là giữ ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu; đáp ứng nhu cầu của quốc
phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
Bên cạnh đó về cơng cuộc cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên là tập trung phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng (công nghiệp nhẹ);
việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức
độ, vừa sức nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nơng nghiệp và cơng nghiệp
nhẹ.
2. Q trình tìm tịi đường lối đổi mới, đổi mới từng bước của Đảng
* Giai đoạn 1975-1981:
Sau Đại hội Đảng lần thứ V (12/1976), Trung ương Đảng có nhiều hội nghị cụ
thể hóa, thực hiện Nghị quyết Đại hội với các đường lối, chính sách mới được đặt
ra. Trong đó, nổi bật là ba bước đột phá về đổi mới kinh tế được đặt ra tại Hội nghị
Trung ương 6 (8/1979), 8 (6/1985) và sau đó là Hội nghị Bộ Chính trị khóa V
(8/1986).
Diễn ra vào tháng 8/1979, Hội nghị Trung ương 6 Khóa IV được cho là bước
đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng
đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ những quan
5


điểm, chủ trương cơ bản này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều
chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thơng hàng
hố như Chỉ thị 357 của Chính phủ cho phép nơng dân được ni và mua bán trâu
bị; Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư về “cải tiến cơng tác khoán, mở rộng khoán sản
phẩm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp’’ hay các Quyết

định số 25, 26 về quyền chủ động sản xuất kinh doanh, quyền tự chủ về tài chính
của các xí nghiệp quốc doanh cũng như mở rộng hình thức trả lương khốn, tiền
thưởng, qua đó khơng chỉ nâng cao sản lượng lương thực, giảm đáng kể việc lãng
phí mà cịn góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, tạo động lực
phát triển mới.
*Giai đoạn 1982-1986:
Diễn ra vào tháng 3/1982, Đại hội V của Đảng đã có những bước phát triển
nhận thức mới, tìm tịi đổi mới trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là
về mặt kinh tế: chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần,
chưa xác định những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về cơng tác quản
lý lưu thơng, phân phối; khơng dứt khốt trong đầu tư vốn cho công nghiệp và
hàng tiêu dùng...Từ đây, Đại hội đề ra Nghị quyết V nhằm khắc phục những thiếu
sót cịn tồn đọng đồng thời mở ra con đường phát triển mới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội V, tại Hội nghị Trung ương 6 (7/1984) và Hội
nghị Trung ương 7 khóa V (12/1984), Ban Chấp hành Trung ương đã nhận định
nền kinh tế nước ta hiện nay địi hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động, có khả
năng bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện
đúng đắn tập trung dân chủ đồng thời khẳng định, điều quan trọng nhất hiện nay là
phải kiên quyết nhanh chóng bãi bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển
tồn bộ nền kinh tế sang hạch tốn kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Tiếp nối tinh thần của các hội nghị trước, Hội nghị Trung ương 8 khóa V
(6/1985) - bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm tịi, đổi mới kinh tế của Đảng
tiếp tục tập trung bàn và quyết định việc cải cách một bước giá cả, tiền lương, tài
chính và tiền tệ để bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thực chất, các chủ trương của Hội nghị
6


Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật sản xuất hàng hoá
trong nền kinh tế quốc dân. Song, trong quá trình tổ chức thực hiện lại mắc tình

hình chưa chuẩn bị đủ mọi mặt làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm
trọng sâu sắc hơn.
Nhận thức đầy đủ về những thiếu hụt trong cách thực hiện đường lối, chính
sách kinh tế, tháng 8/1986, Hội Nghị Bộ Chính trị đã được tổ chức, qua đó đưa ra
kết luận đối với một số vấn để thuộc về quan điểm kinh tế. Đây là bước đột phá
thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của
đường lối đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới được đề ra trong Hội nghị xoay
quanh các vấn đề lớn như cơ cấu sản xuất; cải tạo xã hội chủ nghĩa; cơ chế quản lý
xã hội. Kết luận của Hội nghị là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tơi, thử
nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh
tế. Những quan điểm mới được trình bày tro đã định hưởng cho việc soạn thảo Báo
cáo chính trị để trình ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, thay cho
bản Dự thảo Báo cáo chính trị được chuẩn bị trước đó vẫn cịn giữ lại nhiều quan
điểm cũ không phù hợp với yêu cầu trước mất là khắc phục cho được khủng hoảng
kinh tế - xã hội.
* Kết luận: Giai đoạn 1975-1986 được coi là bước khởi đầu cho sự nghiệp xây
dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với cả những thuận lợi và hạn chế về
bối cảnh lịch sử, tình hình kinh tế, chính trị và các lĩnh vực khác trong đời sống.
Trong vòng 10 năm này, Đảng đã tổ chức thành công hai Đại hội Đảng lần thứ IV,
V cũng như Hội nghị Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, qua đó đề ra những đường
lối đúng đắn phù hợp, tiến hành những đổi mới những đột phá góp phần đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phát triển xã hội về mọi mặt.
Đề tài 2: Bước đầu tìm hiểu và trình bày khái quát về hai cuộc chiến tranh
bảo vệ biên giới: phía Tây Nam; phía Bắc.
Trả lời:
1. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam
a. Bối cảnh lịch sử:
7



Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt
Nam và nhân dân Campuchia có chung khát vọng được sống trong hịa bình, độc
lập, tự do để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước phồn
vinh, thịnh vượng. Nhưng ngay sau khi lên cầm quyền ở Campuchia vào tháng 41975, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary đã phản bội lại nhân dân Campuchia, phản bội
lợi ích dân tộc, thâu tóm quyền lực, tước đoạt mọi thành quả cách mạng, thi hành
hàng loạt chính sách đối nội, đối ngoại cực kỳ phản động, hiếu chiến và tàn bạo. Ở
trong nước, chúng tước đoạt quyền tự do, dân chủ của nhân dân, biến họ thành
những người nơ lệ, thi hành chính sách diệt chủng đối với trí thức, tơn giáo, người
dân tộc thiểu số, Việt kiều và đảng viên, công chức, binh lính khơng đi theo đường
lối phản động của chúng... Trong thời gian Pol Pot cầm quyền, chúng đã giết hại
hàng triệu người vô tội, đặt dân tộc Campuchia bên bờ diệt vong và đe dọa nghiêm
trọng an ninh của các nước trên bán đảo Đông Dương. Đất nước Campuchia xinh
đẹp trở thành đống đổ nát, hoang tàn, biệt lập, chết chóc và đau thương.
Khơng chỉ thi hành chính sách diệt chủng dã man, tàn bạo đối với đồng bào
mình, được các thế lực phản động quốc tế giật dây, giúp sức, tập đoàn Pol Pot-Ieng
Sary đã thay đổi thái độ với Việt Nam, ra sức xun tạc, bơi nhọ hình ảnh Việt
Nam, kích động hằn thù dân tộc, địi hoạch định lại biên giới, coi Việt Nam là “kẻ
thù số một”, “kẻ thù truyền kiếp”. Từ năm 1975 đến 1978, chúng trắng trợn mở
nhiều cuộc tiến công xâm lấn, đánh chiếm các đảo, biên giới nước ta với quy mô,
tần suất ngày một gia tăng, gây nên hàng loạt cuộc thảm sát đẫm máu đối với nhân
dân ta dọc biên giới Việt Nam - Campuchia. Hành động của tập đoàn Pol Pot đã
xâm phạm thô bạo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm
nghiêm trọng luật pháp quốc tế, gây tổn hại cho mối quan hệ giữa hai nước.
Để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng, tài sản của
nhân dân, Đảng, Nhà nước ta một mặt chỉ đạo các quân khu, địa phương, đơn vị
tăng cường chuẩn bị lực lượng và thế trận, kiên quyết đập tan các cuộc tiến cơng
xâm lược của địch; mặt khác, kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hịa
bình, hữu nghị, tìm cách cứu vãn hịa bình, nhiều lần đề nghị đàm phán với Chính
phủ Campuchia Dân chủ nhằm giải quyết những bất đồng. Song, tập đoàn Pol Pot8



Ieng Sary không những cự tuyệt, khước từ mọi thiện chí của ta mà cịn đẩy mạnh
hoạt động chống phá, xâm lược Việt Nam. Được nước ngoài hỗ trợ về vũ khí,
trang bị và cố vấn qn sự, tập đồn Pol Pot-Ieng Sary ráo riết chuẩn bị chiến
tranh. Cuối năm 1978, chúng huy động 10 sư đồn cùng vũ khí, trang bị, kỹ thuật
về biên giới Tây Nam Việt Nam, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công xâm lược nước
ta.
b. Diễn biến:
Trước tình hình đó, đầu tháng 12/1978, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương
thông qua quyết tâm mở cuộc tổng phản công - tiến công chiến lược trên tuyến
biên giới Tây Nam; đồng thời sẵn sàng phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang
yêu nước Campuchia đánh đổ tập đồn Pol Pot-Ieng Sary, giành chính quyền về
tay nhân dân.
Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, từ ngày 23/12/1978, bằng các địn phản
cơng, tiến cơng quyết liệt, qn và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh
đuổi quân Pol Pot ra khỏi lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp đó, đáp lại đề nghị của Mặt
trận Đồn kết dân tộc cứu nước Campuchia và trên tinh thần quốc tế trong sáng,
“giúp bạn là mình tự giúp mình”, Quân tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi hy
sinh, gian khổ, phối hợp với LLVT Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia mở cuộc tổng tiến cơng giải phóng thủ đơ Phnơm Pênh (7/1/1979) và
tồn bộ đất nước Campuchia (17/1/1979).
c. Kết quả:
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã đập
tan âm mưu, thủ đoạn thâm độc của tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary và các thế lực phản
động quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
xóa bỏ chính quyền phản động Pol Pot-Ieng Sary, cứu nhân dân Campuchia thoát
khỏi bờ vực của thảm họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người
và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự, chặn đứng mưu đồ chia rẽ truyền
thống đoàn kết lâu đời của ba nước Đông Dương.
Chiến thắng ngày 7/1/1979 là thắng lợi chung của nhân dân hai nước Việt Nam

và Campuchia; thắng lợi của tinh thần quốc tế cao cả, sự giúp đỡ vơ tư, chí nghĩa,
9


chí tình của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Qn đội nhân dân Việt Nam đối với
nhân dân Campuchia. Quan hệ Việt Nam-Campuchia chuyển sang thời kỳ mới,
thời kỳ phát triển hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên ngun tắc
hịa bình, tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, vì sự phát
triển và phồn vinh của mỗi nước. Đồng thời góp phần giữ vững hịa bình, ổn định ở
khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; vạch trần bản chất phản động của tập đoàn
Pol Pot-Ieng Sary, cảnh báo cho nhân loại nguy cơ xuất hiện chủ nghĩa diệt chủng,
chủ nghĩa phát xít mới.
Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã để lại nhiều
bài học kinh nghiêm quý trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN hiện nay.
2. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc
a. Bối cảnh lịch sử:
Đầu năm 1979, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng trở lên căng
thẳng, từ bình thường, thậm chí tốt đẹp, sang đối đầu. Trái ngược với tình trạng rạn
nứt nghiêm trọng trong mối quan hệ Trung - Xô, mối quan hệ Việt – Xô lại ngày
càng gắn bó và phát triển mạnh mẽ. Điều này đã tác động đến toan tính chiến lược
của Trung Quốc. Thêm vào đó, sau khi qn tình nguyện Việt Nam giúp Nhân dân
Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot vào ngày 7/1/1979 càng khiến
mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bất đồng đỉnh điểm, liên tiếp xảy ra tranh
chấp, xâm lấn biên giới.
Thực tế, Trung Quốc đã chuẩn bị trước cho cuộc chiến xâm chiếm Việt Nam,
dùng nhiều thủ đoạn khác nhau leo thang từng bước, từ gây áp lực trong vấn đề
Campuchia, dựng lên “sự cố Hoa kiều” và chuẩn bị về binh lực đi đôi với việc
tuyên truyền.
b. Diễn biến:

Sau khi đã chuẩn bị kỹ càng, rạng sáng ngày 17/2/1979 Trung Quốc đã huy
động 60 vạn qn đồng loạt tấn cơng tồn tuyến biên giới nước ta từ Lai Châu đến
Quảng Ninh, gây ra những thiệt hại rất nặng nề. Không quân và hải quân không
10


được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến. Tất cả các hướng tấn cơng đều có xe tăng,
pháo binh hỗ trợ. Chỉ trong vòng 1 tháng, hàng vạn chiến sĩ Việt Nam đã đổ máu
trên chiến trường dọc biên giới của các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Thái Nguyên,
hàng ngàn người dân vô tội bị giết hại, hàng trăm cây cầu, cơng trình bị phá hủy.
Qn Trung Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến
cơng, lại cịn có “lực lượng thứ năm” gồm những người Việt gốc Hoa trên đất Việt
Nam.
Với nước ta, những năm 78 - 79, quân và dân cả nước đang căng mình chống
lại quân Polpot xâm lược ở biên giới Tây Nam, song trước tình hình biên giới phía
Bắc lâm nguy cũng như đoán được mưu đồ của đối phương, tháng 7/1978, Đảng
đã đưa ra chỉ thị tập trung lực lượng để giải quyết nhanh nhiệm vụ bảo vệ biên giới
Tây Nam; đồng thời động viên, tăng cường lực lượng và cơng tác phịng thủ đất
nước ở phía Bắc. Theo đó, các Quân khu 1, Quân khu 2 và Nhân dân các tỉnh biên
giới phía Bắc gấp rút củng cố thế trận phòng, thủ, chấn chỉnh các tổ chức biên chế,
bổ sung quân số, trang bị khí tài… sẵn sàng chiến đấu bảo vệ toàn vẹn chủ quyền
đất nước.
Đối mặt với đội quân xâm lăng từ bên kia biên giới phía Bắc đơng tới 60 vạn
người cùng hàng nghìn xe tăng và pháo hạng nặng, Việt Nam vào ngày 17/2/1979
chỉ có lực lượng cơng an vũ trang, dân qn địa phương và 7 sư đoàn với tổng số
quân khoảng 7 vạn người. Sự chênh lệch về lực lượng, về vũ khí trang bị là rất lớn.
Thế nhưng, tinh thần chiến đấu của quân và dân ta là anh dũng vô song, cùng với
sự lãnh đạo của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham
mưu, quân và dân ta đã kiên cường, sáng tạo, bẻ gãy và giáng từng đòn đau xuống
đầu kẻ thù xâm lược.

c. Kết quả:
Sự đánh trả dũng mãnh bảo vệ biên giới của quân và dân ta đã gây thiệt hại
nặng nề cho quân Trung Quốc. Khoảng 6 vạn quân Trung Quốc đã bị thương vong
cùng hàng trăm tù binh bị bắt sống. Thiệt hại nặng nề trên chiến trường, bị dư luận
thế giới lên án, Trung Quốc buộc phải rút quân vào ngày 6/3/1979. Cuộc chiến
11


ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới
quá trình cải tổ kinh tế.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc đã chiến thắng, non sơng được vẹn
tồn. Tuy nhiên, cuộc chiến cũng để lại nhiều tổn thất cho Việt Nam, đặc biệt là
nền kinh tế. Ngoài các thương vong về con người, tổn thất về cơ sở vật chất hạ
tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến, Việt Nam cịn phải gánh chịu
nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà Trung
Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế,
ngoại giao,...
d. Hậu chiến:
Tuy Trung Quốc đã rút quân, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của dân
tộc ta vẫn diễn ra trong nhiều năm sau đó, tình hình luôn căng thẳng kéo dài đến
tận năm 1989 (đặc biệt là trên mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang ngày 12/7/1984). Việt
Nam và Trung Quốc đã tổ chức nhiều cuộc đàm phán, từng bước giải quyết những
tranh chấp về biên giới lãnh thổ và các vấn đề khác, khơi phục hồ bình, hệ hữu
nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước.
Cuộc chiến đấu trên tồn tuyến biên giới phía Bắc đã khẳng định sự thật lịch sử
và tính chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện đường lối đúng đắn
về mặt quân sự của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương.
Nhiều bài học, nhiều kinh nghiệm quý báu cũng đã được đúc kết để phát triển và
vận dụng sáng tạo, phù hợp với quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa và phát triển quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc trong thời kỳ

mới.
Đến nay, với những sáng tỏ của lịch sử, chúng ta một lần nữa tự hào khẳng
định rằng: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc biên cương ở Tây Nam là cuộc chiến bắt
buộc, cuộc chiến vì sự nghiệp chính nghĩa, là biểu tượng cao đẹp của tinh thần láng
giềng thủy chung, chí tình, chí nghĩa giữa nhân dân hai nước Việt Nam –
Campuchia; Chiến tranh biên giới phía Bắc của quân và dân ta là cuộc chiến bảo
vệ độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Chỉ có con đường hợp tác hịa
bình, vì lợi ích chính đáng của các bên, tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh
12


thổ của nhau mới là con đường bền vững, lâu dài, phù hợp với mong muốn của
nhân loại tiến bộ.
Đề tài 3: Chứng minh: Quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (12-1986) là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam? Lập
bảng so sánh giữa 2 thời kỳ: trước đổi mới và Đổi mới trên các nội dung cơ
bản sau: về cơ chế quản lý kinh tế; về cải tạo XHCN; về giá cả; về sản xuất
hàng hoá; quan niệm về nền kinh tế thị trường; về cơng nghiệp hố (sau này
là cơng nghiệp hố - hiện đại hố, hội nhập quốc tế…)
Trả lời:
1. Chứng minh: Quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI(12-1986) là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam
a. Bối cảnh lịch sử:
Sau một thời gian xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ năm 1976 đến 1985) bên cạnh
những thành tựu, nước ta cịn gặp khơng ít những khó khăn, khủng hoảng về kinh
tế xã hội. Nguyên nhân cơ bản là do ta mắc sai lầm, khuyết điểm. Việt Nam đang
bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận ở tình trạng khủng hoảng kinh
tế xã hội. Lương thực, thực phẩm , hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng
từ 300% năm 1985 lên hơn 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm
pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. Những thay đổi của tình hình

thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách mạng khoa học – kỹ thuật,
trở thành xu thế thế giới. Cuộc khủng hoảng tồn diện, trầm trọng ở Liên Xơ và
các nước XHCN khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được diễn ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà
Nội với 1129 đại biểu thay mặt cho gần 2 triệu đảng viên cả nước và có 32 đồn
đại biểu quốc tế đến dự.
b. Quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(121986) là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam:
Đại hội VI đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
đánh giá những thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết
13


điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 - 1986. Đại hội rút ra bốn bài học quý báu: Một
là, trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải qn triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”, xây dựng và phát triển quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng
phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khẳng định đổi mới là yêu cầu bức thiết,
có ý nghĩa sống còn đối với nước ta. Tại Đại hội khẳng định: Đổi mới không phải
là thay đổi mục tiêu của CNXH, mà làm cho những mục tiêu ấy được thực hiện có
hiệu quả bằng những quan điểm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và
biện pháp thích hợp. Đổi mới toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ
chức, tư tưởng, văn hóa. Đổi mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị, nhưng
trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đại hội quyết định đổi mới những mặt sau:
* Về kinh tế: Xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, hình thành
kinh tế thị trường; xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành, nghề,
quy mơ, trình độ cơng nghệ; phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo

định hướng XHCN, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
* Về chính trị: Xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước của dân, do dân và vì dân;
Xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân; Thực hiên
chính sách đại đồn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hịa bình, hữu nghị, hợp tác.
* Về chính sách đối ngoại, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Nhận
thức rõ nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu. Đại hội VI
nhấn mạnh sự cần thiết phải “Cơng bố chính sách khuyến khích nước ngồi đầu tư
vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở địì hỏi kỹ
thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc cơng bố luật đầu tư, cần có các
chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều
vào nước ta để hợp tác kinh doanh”.
14


=> Kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới: Về lương thực, thực phẩm, từ chỗ
thiếu ăn hàng năm (năm 1988, ta phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990,
Việt Nam đã đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan
trọng ổn định đời sống nhân dân. Hàng hóa trên thị trường dồi dào, nhất là hàng
tiêu dùng, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tăng. Các cơ sở sản xuất đã
gắn chặt với nhu cầu thị trường. Kinh tế đối ngoại: phát triển nhanh và mở rộng về
quy mô, hình thức. Hàng xuất khẩu tăng ba lần.
c. Kết luận: Đại hội VI của Đảng là Đại hội đổi mới toàn diện, đánh dấu bước
phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các văn kiện của Đại hội
mang tính chất khoa học và cách mạng, lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiếp tục
phát triển. Vì vậy quyết định đổi mới đất nước của Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI(12-1986) là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam.
2. Bảng so sánh giữa hai thời kỳ: Trước Đổi mới và Đổi mới
STT

Nội dung


Trước thời kỳ Đổi mới

Thời kỳ Đổi mới

- Cơ chế kế hoạch trường định - Cơ chế thị trường định hướng
hoá tập trung quan liêu bao cấp.

xã hội chủ nghĩa.

- Kinh tế thị trường là của riêng - Kinh tế thị trường là kết quả
chủ nghĩa tư bản.

của toàn nhân loại.

- Đặc trưng quan trọng nhất - Dùng cơ chế thị trường làm
1

Cơ chế

trong nền kinh tế là kế hoạch, phân bổ các nguồn lực kinh tế,

quản lý

phân bổ mọi nguồn lực của nền điều tiết chủng loại và số lượng

kinh tế

kinh tế theo kế hoạch.


hàng hố, điều hồ quan hệ

- Thị trường chỉ được coi là cạnh tranh cung cầu điều tiết tỷ
công cụ thứ yếu để bổ sung cho lệ sản xuất thông qua cơ chế
kế hoạch, nên không cần sử cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ,
dụng kinh tế thị trường để xây đào thải cái lạc hậu.
dựng chủ nghĩa xã hội yếu kém.
2

Cải tạo

- Chưa nhận thức đầy đủ về thời - Xác định đổi mới không phải
15


kỳ quá độ lên CNXH.

là thay đổi mục tiêu XHCN mà

- Cách mạng Tháng Tám đã xóa làm cho mục tiêu ấy được thực
bỏ chế độ thuộc địa, mở ra thời hiện có hiệu quả.
đại dân tộc độc lập.

-“Cương lĩnh xây dựng đất

- Khi thực dân Pháp trở lại xâm nước trong thời kỳ quá độ lên
lược mục tiêu tiến lên CNXH chủ nghĩa xã hội” xác định rõ
chưa thể đặt ra trực tiếp, mà mơ hình CNXH và con đường
XHCN


phải vừa kháng chiến vừa kiến đi lên CNXH ở Việt Nam.
quốc.

- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư

- Những điều kiện cần thiết duy, vận dụng sáng tạo, phát
chưa có đủ, Đảng và chính triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
quyền cách mạng phải cùng với tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
toàn dân chủ động tạo dựng mục tiêu độc lập dân tộc và
những điều kiện cần thiết.

3

Giá cả

CNXH.

- Thời kỳ 1945-1954 xây dựng - Cơ cấu thành phần kinh tế đã
chế độ kinh tế mới, GDP bình có sự chuyển dịch khá rõ.
quân đầu người năm 1945 chỉ - Sự chuyển dịch cơ cấu thành
đạt 60 đồng, tương đương 35 phần kinh tế đã đưa đất nước
USD.

thoát ra cuộc khủng hoảng kinh

- Thời kỳ 1955-1975 khôi phục tế - xã hội; tăng trưởng kinh tế
và phát triển kinh tế sau chiến từ

năm


1991-2013

đạt

tranh, thực hiện Kế hoạch 5 năm 6,06%/năm, trong đó thời kỳ
lần thứ nhất. (Năm 1975, GDP 1991- 2005 đạt 7,17%/năm.
bình quân đầu người đạt 232 - Khu vực kinh tế Nhà nước
đồng, tương đương 80 USD; cịn chiếm tỷ trọng lớn, hiệu
nơng nghiệp và cơng nghiệp quả đầu tư thấp.
tăng; thương nghiệp mỗi năm - Khu vực FDI đã chiếm tỷ
tăng 4,3%, thấp hơn nhiều so trọng lớn trong ngành công
16


với mức tăng 66% của thời kỳ nghiệp (trên dưới 45% giá trị
1945-1954)

sản xuất); chiếm trên dưới 2/3

- Thời kỳ 1976-1985 thực hiện kim ngạch xuất khẩu.
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai
(1976-1980) và lần thứ ba
(1981-1985), thu nhập bình
quân đầu người tăng nhưng do
lạm phát cao nên vẫn còn khó
khăn, thiếu thốn.
- Chỉ mang tính hình thức

- Nhiều ngành nghề mới xuất


- Chưa thừa nhận sản xuất hàng hiện tạo điều kiện cho hàng hóa
hóa và cơ chế thị trường; coi thị phát triển.
trường chỉ là một công cụ thứ - Thừa nhận sự xuất hiện của tư
yếu bổ sung cho kế hoạch.

hữu và kinh tế nhiều thành

- Không thừa nhận sự tồn tại phần.
4

Sản xuất

của nền kinh tế nhiều thành - Chế độ xã hội hoá sản xuất

hàng hố

phần.

giữa các ngành, các xí nghiệp

- Các cơ chế chính sách trong trong cùng một hình thức sở
thời bao cấp của Việt Nam hữu vẫn chưa đều nhau.
không phù hợp với quy luật của - Tồn tại quan hệ sở hữu đa
sản xuất hàng hóa, thậm chí đi dạng về tư liệu sản xuất và ứng
ngược lại với quy luật của sản với nền kinh tế nhiều thành
xuất hàng hóa.
5

phần.


Quan niệm - Nền kinh tế chịu sự thống trị - Nền kinh tế thị trường hiện
về nền kinh tuyệt đối của chế độ sở hữu đại và hội nhập quốc tế
tế thị

cơng cộng.

- Nền kinh tế hàng hóa nhiều

trường

- Trong thời kỳ cuối thập niên thành phần vận động theo cơ
1970, đầu thập niên 1980, nền chế thị trường, có sự quản lý
17


kinh tế diễn ra những cải cách của Nhà nước theo định hướng
cục bộ.

xã hội chủ nghĩa.

- Trong nhận thức lý luận, vẫn - Có nhiều hình thức sở hữu,
chưa thừa nhận những thay đổi nhiều thành phần kinh tế.
mang tính cấu trúc của nền kinh - Thực hiện phân phối chủ yếu
tế.

theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và
các nguồn lực khác vào sản
xuất, kinh doanh và thông qua

phúc lợi xã hội.

6

Công

- Hiểu CNH một cách chưa đầy - Xác định q trình CNH phải

nghiệp hố đủ

được tiến hành từng bước phù

- CNH tiến hành theo mơ hình hợp với trình độ lực lượng sản
nền kinh tế khép kín, hướng nội

xuất.

- CNH ở nước ta đã đặt vấn đề - CNH, HĐH trở thành sự
theo hướng hiện đại hoá

nghiệp của toàn dân, của mọi

- CNH, HĐH trước đổi mới thành phần kinh tế mà trong đó
được thực hiện theo cơ chế tập kinh tế nhà nước là chủ đạo.
trung, quan liêu, bao cấp

- Xác định CNH, HĐH là quá

- Ưu tiên phát triển cơng nghiệp trình chuyển đổi căn bản, toàn
nặng một cách hợp lý


diện các hoạt động sử dụng sức

- Đảng đã chủ trương đẩy mạnh lao động thủ công sang sử dụng
CNH, xây dựng một cơ cấu kinh sức lao động với công nghệ,
tế công – nông nghiệp hiện đại, phương tiện và phương pháp
trù liệu thời gian cơng nghiệp tiên tiến, hiện đại.
hóa xã hội chủ nghĩa mất - CNH gắn với HĐH và CNH,
khoảng 20 năm (đại hội IV)

HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi

18


trường
- CNH, HĐH phải hội nhập và
mở rộng quan hệ kinh tế quốc
tế.
Kết luận: Trước thời kỳ đổi mới xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ổn định
nhưng kém năng động, chậm phát triển về nhiều mặt. Sau đổi mới xã hội phát
triển, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt nhiều thành tựu to lớn và đời sống nhân dân
được cải thiện. Việc thực hiện Đổi mới là một bước tiến lớn cho Việt Nam.
Đề tài 4: Tìm hiểu nội dung cơ bản của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (qua 2 bản: Cương lĩnh năm 1991 và
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011): đặc trưng cơ bản của CNXH;
phương hướng xây dựng; những định hướng lớn…
Trả lời:
1. Cương lĩnh năm 1991

a. Đặc trưng cơ bản của CNXH:
Đảng xác định mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 6 đặc trưng
cơ bản nhất: (1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) Có một nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu; (3) Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc; (4) Con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân; (5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ; (6) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
thế giới.
b. Phương hướng xây dựng của CNXH:
Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; phát triển LLSX,
19


cơng nghiệp hóa (CNH) đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một
nền nơng nghiệp tồn diện; phù hợp với sự phát triển của LLSX, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất (QHSX) XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình
thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước; tiến hành
cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho thế giới quan MácLênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội; thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh; xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN là 2 nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đàng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
c. Về mục tiêu xã hội:

Trong cương lĩnh năm 1991 Đại hội VII, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội do nhân
dân ta xây dựng là "dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa". Để đạt
được mục tiêu trên điều quan trọng nhất cương lĩnh nêu ra là: Phải cải biến căn bản
tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển; Phải chiến thắng được các lực lượng cản
trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống lại độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, đường lối lãnh
đạo đúng đắn, sáng tạo là nhân tố quyết định hàng đầu sự nghiệp cách mạng Việt
Nam.
2. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011
Từ thực tiễn có nhiều thay đổi về bối cảnh thế giới và trình độ phát triển kinh tế
– xã hội của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tháng 01/2011 của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Sau đây gọi tắt là
Cương lĩnh năm 2011.
a. Đặc trưng cơ bản của CNXH:
20



×