Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Lịch sử đảng cộng sản việt nam tình hình lịch sử việt nam sau cách mạng tháng tám (81945 → 121946)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.39 KB, 14 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
__________________________

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
--TÌNH HÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (8/1945 → 12/1946)

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Cô Nguyễn Lệ Thủy
1. Nguyễn Diệu Ly
2. Nguyễn Thị Quế Trân
3. Nguyễn Ngọc Trân
4. Nguyễn Ngọc Phương Huyền
5. Nguyễn Ngô Thục Uyên
6. Dương Phương Thảo
7. Nguyễn Tấn Đạt
8. Võ Thị Thanh Thúy
9. Nguyễn Thị Ngọc Phương

1956190114
1956190158
1956190160
1956190105
1956190165
1956080123
1956190095
1956190151
1956070065


MỤC LỤC



I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA SAU CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM.........................................................................................3
1. Thuận lợi.......................................................................................3

a. Trong nước.................................................................................3
b. Thế giới.......................................................................................3

2. Khó khăn....................................................................................... 4
a. Giặc Ngoại Xâm...........................................................................4

b. Thù trong.....................................................................................4
c. Tài chính kinh tế kiệt quệ..............................................................4
II.
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG,
THỰC HIỆN “KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC”.............................................6
1. Nội dung và ý nghĩa của chỉ thị.........................................................6
a. Nội dung.....................................................................................6
b. Ý nghĩa.......................................................................................7

2. Thực hiện chỉ thị, kết quả, ý nghĩa.....................................................7
a. Về chính trị:.................................................................................7
b. Về kinh tế:...................................................................................8
c. Về văn hóa xã hội:....................................................................... 9
d.

Về kháng chiến chống Pháp xâm lược, bảo vệ
chính quyền cách mạng...................................................................10
e. Ý nghĩa:.................................................................................... 13


2


I.HOÀN CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
1.

Thuận lợi.

a.

Trong nước

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và sự ra đời của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, “là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước
ta”, đã đập tan xiềng xích đơ hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, đánh đuổi bọn
quân phiệt Nhật Bản ra khỏi đất nước.




Lật đổ chế độ phong kiến mấy mươi thế kỷ, đưa đất nước ta bước vào một kỷ

nguyên mới- kỷ nguyên độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám cũng chính là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc
dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam.


Nhân dân có truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất trong chống

giặc ngoại xâm và cần cù sáng tạo trong lao động.


Giành được chính quyền. Ta sử dụng chính quyền ấy làm cơng cụ bạo
lực để trấn áp bọn phản cách mạng , đấu tranh chống thù trong giặc ngồi và
tổ chức xây dựng chính quyền mới: DCND


b.

Thế giới

Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào
cách mạng dâng cao ở nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc và tư bản.


Các cuộc đấu tranh đòi quyền sống và quyền tự do dân chủ của công
dân các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra mạnh mẽ.


Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc với phần thắng thuộc về Liên Xô và
các lực lượng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành của các nước dân
chủ nhân dân và XHCN oét cả Châu Âu lẫn Châu Á, cùng với Liên Xô trở
thành hệ thống trên thế giới.


→ Tất cả đã tạo thành 3 mũi nhọn tấn công vào hệ thống TBCN,tạo điều kiện
cho cách mạng Việt Nam phát triển
3



2.
Khó khăn: nước ta vừa ra đời đã phải đối mặt với mn vàn khó khăn,
thử thách.
a.

Giặc Ngoại Xâm

Mặt trận dân tộc thống nhất tuy phát triển rộng rãi nhưng chưa được củng cố vững
chắc, kẻ thù lại ra sức chia rẽ, lơi kéo,…Do đó vấn đề đồn kết dân tộc, đồn kết tơn
giáo là những vấn đề lớn được đặt ra rất bức thiết lúc đó. Nguy cơ lớn nhất đối với Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc mới thành lập là nạn ngoại xâm.
Quân đội các nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật đã lũ lượt kéo vào
nước ta. Quân Tưởng nuôi dã tâm tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt
Minh, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và dựng lên chính quyền tay sai.
Chủ nghĩa đế quốc âm mưu “ chia lại hệ thống thuộc địa thế giới " , bắt tay , dàn xếp với
nhau phục hồi chủ nghĩa thực dân , ra sức tấn công , đàn áp phong trào cách mạng thế
giới , trong đó có cách mạng Việt Nam. Một số nước đồng minh chống phát xít , nhất là
Mỹ khơng ủng hộ lập trường độc lập của Việt Nam , khơng có nước nào công nhận địa
vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.

b. Thù trong
Ngồi ra, trên cả nước ta, còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp. Một bộ phận quân
Nhật theo lệnh quân Anh đánh lại lực lượng vũ trang của ta, tạo điều kiện cho quân

Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập còn non trẻ phải giải
quyết hậu quả của chế độ thù trong bao gồm các thế lực Việt Quốc, Việt
Cách và Đại Việt, bên cạnh giặc ngồi lăm le chính quyền cách mạng và vấn
đề thiết lập lại ách cai trị thực dân.

c.

Tài chính kinh tế kiệt quệ



Nạn đói

Nền kinh tế nơng nghiệp nước ta vốn đã lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề,
thiên tai thường xuyên xảy ra; hậu quả của nạn đói cuối năm 1944-đầu năm 1945 chưa
khắc phục được. Hơn 2 triệu đồng bào chết đói năm 1945 vì thiếu gạo, thiếu

4


lương thực. Nạn đói năm 1945 diễn ra từ cuối năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 với “địa
bàn” chính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình.
Từ tháng 1/1945 đến tháng 5/1945, xác người chết nằm ngổn ngang từ Quảng Trị đến
khắp các tỉnh miền Bắc. Ở đâu người ta cũng nhìn thấy xác người chết đói.

Cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” viết,
“Nạn đói đã chơn vùi nhân phẩm con người. Nạn đói diễn ra vơ cùng thảm
khốc. Hàng nghìn hộ chết cả nhà, nhiều dịng họ chết cả họ, hàng chục xóm
làng chết cả xóm, cả làng”.


Vỡ đê

Tiếp đó là nạn lụt lớn, làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ khiến 1/3 diện tích canh tác bị hư
hại khiến cho nửa tổng số ruộng đất không canh tác được. 3 tỉnh vùng Bắc Trung

Bộ là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh cũng bị mất mùa khoảng nửa diện tích.


Hạn hán

Sau lụt là hạn hán kéo dài làm cho nửa diện tích ruộng đất ở Bắc Bộ không cày
cấy được. Các ngành kinh tế bị đình đốn nghiêm trọng, nhiều cơ sở cơng nghiệp
chưa đi vào hoạt động, hàng vạn công nhân thất nghiệp. Riêng ngành khai mỏ
than năm 1940 có 39.500 cơng nhân, khai thác được 2.500.000 tấn, tuy nhiên đến
năm 1945 chỉ cịn lại 4.000 cơng nhân với sản lượng khai thác là 230.000 tấn.


Giặc Dốt

Thực dân Pháp chăm lo xây dựng nhà tù hơn là trường học, vì thế hơn 90%
dân số nước ta mù chữ. Năm 1945 cả nước chỉ có 737 trường tiểu học với
khoảng 623.000 học sinh, 65 trường cao đẳng tiểu học với 16.700 học sinh
và chỉ có 3 trường phổ thơng trung học với 652 học sinh.


Về văn hố, xã hội

Các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút,…tồn tại rất phổ biến. Bệnh dịch hồnh hành
ở nhiều nơi. Lúc đó chính quyền cách mạng mới ra đời, chưa có kinh nghiệm quản lí, ở
một số nơi chính quyền chưa nắm trong tay những người cách mạng, quân đội thường
trực chưa được huấn luyện bao nhiêu, phần lớn cán bộ chỉ huy
5


chưa có hiểu biết về quân sự và kinh nghiệm chiến đấu. Trang bị vũ khi thô sơ và thiếu

thốn, chủ yếu là giáo mác, dao găm, mã tấu và một ít súng trường, súng máy.


Tình hình tài chính gặp nhiều khó khăn
Nền tài chính của Nhà nước cách mạng trong buổi đấu hết sức kiệt quệ, các
khoản thu thuế giảm sút, thuế quan là nguồn thu chính chiếm ¾ ngân sách Đông
Dương giờ đây sụt hẳn xuống. Một số chính sách thuế mới do chính phủ ban
hành nhằm giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân (bãi bỏ thuế thân, thuế xe tay, xe
đạp, miễn thuế điền thổ cho những vùng bị ngập lụt và giảm 20% trong toàn quốc,
…) cũng làm cho ngân sách giảm xuống rất nhiều. Trong khi nguồn thu q ít ỏi
khơng thể đáp ứng nhu cầu chi lớn thì Nhà nước lại chưa nắm được Ngân hàng
Đơng Dương. Trong lúc đó, qn Trung Hoa Dân quốc lại tung ra thị trường các
loại tiền Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.

Tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng
nề, nền độc lập , tự do của Tổ quốc bị đe dọa nghiêm trọng , vận mệnh chính
quyền cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc ”.
II.
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, THỰC HIỆN
“KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC”
1.

Nội dung và ý nghĩa của chỉ thị
a. Nội dung
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc, nhận định tình hình và định hướng con đường đi lên của
cách mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền. Chỉ thị phân tích sâu
sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Nam
Bộ và xác định rõ: “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”, nêu rõ mục tiêu của cuộc cách

mạng Đông Dương lúc này vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu
“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”; mọi hành động phải tập trung vào nhiệm
vụ chủ yếu, trước mắt “là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm
lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân

6

Recommandé pour toi

Suite du document ci-dessous


9

Very Easy Toeic 1 3rd Edition Answer Key
khoa học xã hội

2

100% (7)

Homework 15 - 15 - Chúc các bạn thi tốt
khoa học xã hội

100% (1)


Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể giải quyết những khó khăn, phức
tạp hiện thời của cách mạng Việt Nam, trong đó nêu rõ cần nhanh chóng xúc
tiến bầu cử Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ chính thức, lập ra Hiến

pháp, động viên lực lượng tồn dân, kiên trì kháng chiến và chuẩn bị kháng
chiến lâu dài; kiên định nguyên tắc độc lập về chính trị; về ngoại giao phải đặc
biệt chú ý “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết”; đối
với Tàu Tưởng nêu chủ trương “Hoa-Việt thân thiện”, đối với Pháp “độc lập
về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Về tuyên truyền, hết sức kêu gọi đoàn
kết chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược; “đặc biệt chống mọi mưu mô
phá hoại chia rẽ của bọn Trốtxkit, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng ”.
b.

Ý nghĩa

Những quan điểm và chủ trương, biện pháp lớn được Đảng nêu ra trong bản
Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc đã giải đáp trúng, đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách
của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ; có tác dụng định hướng tư tưởng, trực tiếp
chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng trong giai đoạn đầy khó khăn, phức tạp này.

I.Thực hiện chỉ thị, kết quả, ý nghĩa
a.

Về chính trị:

Bầu Quốc hội: Ngày 6-1-1946, tồn dân Việt Nam, trong tư thế người làm chủ, nô
nức tham gia cuộc Tổng tuyển cử. Trong điều kiện thù trong, giặc ngoài ra sức
chống phá, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thực sự là một cuộc đấu tranh gay
go, quyết liệt để xác lập quyền làm chủ của nhân dân. Tính chung trong cả nước,
89% cử tri đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân
khắp ba miền Bắc - Trung - Nam tham gia vào cơ quan quyền lực cao nhất của
Nhà nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội là một đòn giáng mạnh
vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của bọn đế quốc, tay sai, góp phần nâng

cao uy tín và địa vị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế,
khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ trong mỗi người dân đối
với Nhà nước cách mạng, tạo ra cơ sở pháp lí vững chắc cho Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà.

7


Bầu Chính phủ: Quốc hội quyết định thành lập Chính phủ liên hiệp kháng
chiến gồm 10 Bộ, do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Nguyễn Hải Thần
làm Phó Chủ tịch. Kì họp thứ nhất Quốc hội khố I đã bầu Ban Thường trực
Quốc hội (gồm 15 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết), do Nguyễn Văn
Tố làm Trưởng ban, Phạm Văn Đồng và Cung Đình Quỳ (Việt Quốc) làm Phó
ban; Cố vấn đồn do cố vấn tối cao Nguyễn Vĩnh Thụy đứng đầu; Kháng
chiến uỷ viên Hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Phó
Chủ tịch. Quốc hội cũng bầu ra Ban dự thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm Trưởng ban. Bộ máy Nhà nước ở Trung ương được hồn thiện và
củng cố một bước, có đầy đủ uy tín hiệu lực để lãnh đạo nhân dân tham gia
kháng chiến, kiến quốc, thực hiện mọi chức năng đối nội và đối ngoại.
Ban hành Hiến pháp: Ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là bản Hiến pháp dân chủ, phản ánh rõ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, khẳng định quyền dân tộc độc lập, thống nhất lãnh thổ và quyết tâm bảo
vệ đất nước của toàn dân, xây dựng một thể chế dân chủ cộng hoà, một chế độ
bảo đảm quyền dân chủ tự do của mọi công dân không phân biệt nam, nữ, đặc
biệt ưu đãi đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Công dân Việt Nam được
quyền trực tiếp bầu ra Nghị viện-cơ quan có quyền lực cao nhất của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, đại diện cho quyền làm chủ đất nước của toàn dân và
chịu trách nhiệm trước quốc dân với vận mệnh lịch sử của dân tộc, của mọi
người dân trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc.

Đánh giá về bản Hiến pháp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đó là bản Hiến pháp
đầu tiên trong lịch sử nước nhà”. “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt
Nam đã độc lập..., dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do..., phụ nữ Việt Nam
được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của
một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đồn kết chặt chẽ giữa các dân
tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, cơng bình của các giai cấp”

b.

Về kinh tế:

Sau một thời gian dài nước ta bị thực dân Pháp vơ vét và bóc lột rất dã man, tiếp đến bị
quân đội phát xít Nhật cướp phá, sức của nhân dân ta đến lúc cạn kiệt. Nạn đói năm
1945 đã giết chết hơn 2 triệu đồng bào ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Cách mạng
8


tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa được thành lập
vào thời điểm đó. Đảng và Nhà nước phát động chiến dịch tăng gia sản xuất
và cứu đói, kêu gọi nhân dân thực hiện “nhường cơm sẻ áo” bằng cách “cứ
10 ngày nhịn ăn một bữa”, đem gạo đó để cứu dân nghèo. Nhà nước tổ
chức các đội lạc quyên cứu đói và quy định tiết kiệm lương thực, cấm nấu
rượu lậu bằng gạo, ngô, đẩy mạnh trồng hoa màu ngắn ngày, v.v... Kết quả
là nạn đói được đẩy lùi. Nhà nước còn tiến hành tịch thu ruộng đất của đế
quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công một cách
công bằng, hợp lý và ra Thông tư giảm tô 25% cho nông dân; mở lại các nhà
máy do Nhật bỏ lại, tiến hành khai thác mỏ, khuyến khích kinh doanh…
Sau ngày cách mạng thành cơng, chính sách tài chính được Chính phủ ban
hành đầu tiên là xóa bỏ thuế thân. Để động viên nhân dân đóng góp vào cơng
quỹ của Nhà nước, Chính phủ đã quyết định tổ chức Tuần lễ Vàng, Quỹ Độc lập

và đã được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng: nhiều người đã không tiếc những đôi
hoa tai vàng, những chiếc nhẫn cưới, những đơi vịng, đơi xuyến vốn là những
kỷ niệm quý giá và thiêng liêng của gia đình, những bộ tam sự, ngũ sự đã bao
đời dùng để thờ cúng tổ tiên góp vào cơng quỹ của Nhà nước. Kết quả là đồng
bào cả nước đã góp được 370kg vàng và 60 triệu đồng.
Đầu năm 1946, Chính phủ quyết định cho phát hành tín phiếu ở Khu 5 và sau khi
Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập, lại cho phát hành giấy bạc Việt
Nam, tờ giấy bạc Cụ Hồ, liền theo đó tổ chức thu hồi tờ giấy bạc Đông Dương.

Các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn đã hăng hái đếm số tiền
Đơng Dương sẵn có trong nhà đổi lấy đồng tiền Việt Nam, một đồng bạc
Đông Dương đổi lấy một đồng bạc Cụ Hồ hoặc một đồng tín phiếu.
c.

Về văn hóa xã hội:

Trong phiên họp đầu tiên ngày 3-9-1945, ngồi việc bàn biện pháp chống "giặc
đói", Chính phủ lâm thời còn bàn biện pháp chống “giặc dốt”. Chống "giặc dốt", xoá
nạn mù chữ là nhiệm vụ văn hoá - giáo dục, nhưng có ý nghĩa chính trị sâu sắc,
bảo đảm cho người lao động có điều kiện phát huy được vai trị làm chủ, tham gia
quản lí đất nước có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Muốn giữ vững nền độc
lập, làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền

9


lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng
cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc biết viết chữ quốc ngữ..."
Chỉ một tuần lễ sau khi tuyên bố nền độc lập của nước nhà, ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ chuyên lo việc chống "giặc dốt" và

Người đứng ra phát động phong trào xoá nạn mù chữ trong toàn quốc.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, các lớp bình dân học vụ được tổ
chức ở khắp nơi, lôi cuốn từ em nhỏ đến các cụ già 70, 80 tuổi Truyền thống
hiếu học của dân tộc được phát huy.
Kết quả: Trong vòng một năm, từ ngày 8-9-1945 đến ngày 8-9-1946, trên toàn
quốc đã tổ chức được hơn 75k lớp học với hơn 90k giáo viên và đã xoá mù chữ
cho 2.5 triệu người. Các trường phổ thông và đại học cũng được khai giảng nhằm
đào tạo những cơng dân và cán bộ trung thành, có năng lực phụng sự Tổ quốc,
phục vụ kháng chiến - kiến quốc. Trong năm học 1945 - 1946, riêng Bắc Bộ và
Trung Bộ đã mở được hơn 5k trường tiểu học. Ở bậc đại học và cao đẳng, cùng
với các trường Đại học Y khoa, Dược khoa, Cao đẳng Kĩ thuật, Cao đẳng Cơng
chính, Cao đẳng Canh nơng - Thú y, Bộ Giáo dục cho mở thêm Trường Đại học
Văn khoa và Lớp Chính trị xã hội thay cho Trường Luật của chế độ cũ Nội đung và
phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo tinh thần dân tộc và dân chủ.

d.

Về kháng chiến chống Pháp xâm lược, bảo vệ chính quyền cách mạng

Ngày 23-9-1945, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ tại Sài Gịn và sau đó
mở rộng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên
kháng chiến chống Pháp và phát động phong trào Nam tiến chi viện cho Nam bộ.

Bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, Đảng và Chính
phủ đã thực hiện sách lược ngoại giao mềm dẻo: “triệt để lợi dụng mâu
thuẫn kẻ thù, hịa hỗn, nhân nhượng có ngun tắc”
Nhân nhượng với qn Tưởng và tay sai để giữ vững chính quyền và chống Pháp ở
miền Nam: Trong hồn cảnh phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp ở miền Nam, sự uy hiếp lật đổ chính quyền của quân Tưởng và tay sai ở miền

Bắc và trên cơ sở khẳng định thực dân Pháp là kẻ thù chính, Đảng, Chính phủ và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: "Phải tránh các trường hợp một
10


mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh tràn vào nước ta". Mũi nhọn của
cách mạng lúc này là tập trung đối phó với thực dân Pháp ở miền Nam, do đó
chúng ta phải tạm thời hồ hỗn, tránh xung đột với quân Tưởng. Nhằm hạn chế
sự phá hoại của quân Tưởng và tay sai, tại phiên họp đầu tiên (2-3-1946), Quốc
hội khoá I đồng ý cho bọn tay sai của Tưởng 70 ghế trong Quốc hội, cho Nguyễn
Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước cùng 4 ghế Bộ trưởng
trong Chính phủ liên hiệp chính thức (phụ trách các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế,
canh nông, xã hội). Đồng thời nhân nhượng cho Tưởng một số quyền lợi kinh tế,
như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải,
nhận tiêu tiền Quan Kạn, Quốc tệ ở Việt Nam.

Sự nhân nhượng về chính trị trên đây thể hiện một yêu cầu cơ bản là giữ
vững sự tồn tại của một chính quyền của dân, do dân và vì dân, một chính
quyền của sự hồ giải, đồn kết thống nhất quốc gia dân tộc. Chính phủ cịn
ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng: Sắc lệnh ngày
5-9-1945 giải tán Đại Việt quốc gia xã hội đảng và Đại Việt quốc dân đảng (là
những đảng phản động, tay sai của phát xít Nhật); Sắc lệnh ngày 12-9-1945
cho an trí những người nguy hiểm đối với nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam;
Sắc lệnh lập toà án quân sự trừng trị bọn phản cách mạng.
Thỏa hiệp với Pháp đuổi Tưởng về nước, ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, Chỉ
thị Hòa để tiến 9-3-1946, Hội nghị trù bị ở Đà Lạt, Hội nghị Phôngtenơblô,
Tạm ước 14-9-1946 để tạo điều kiện cho quân ta có thêm thời gian chuẩn bị
cho cuộc chiến đấu mới:
Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ kí với G. Xanhtơni (J.sainteny) - đại diện Chính phủ Cộng hoà

Pháp bản Hiệp định Sơ bộ, đặt cơ sở cho cuộc đàm phán giữa hai bên để đi
đến một hiệp định chính thức.
Theo Hiệp định Sơ bộ: Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ là một quốc gia tự do trong khối Liên hiệp Pháp; có chính phủ,
nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Sự thống nhất đất nước sẽ do trưng
cầu dân ý quyết định.


11




Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào thay

thế Tưởng. Số quân này phải đóng ở những nơi do hai bên thống nhất quy định và sẽ
rút khỏi Việt Nam trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 số quân.


Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Các cuộc đàm phán tiếp

theo sẽ được tiến hành tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gịn hoặc Pari.

Kí Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, tạm thời hồ hỗn với Pháp, ta đã tránh được
một cuộc chiến đấu bất lợi phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc; tạo thêm
một cơ sở pháp lí buộc qn Tưởng phải nhanh chóng rút khỏi miền Bắc
nước ta; bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách vì mất chỗ dựa nên phần lớn bị tan
rã hoặc chạy theo qn Tưởng; chúng ta có thêm thời gian hồ bình cần
thiết để củng cố chính quyền cách mạng, mở rộng mặt trận dân tộc thống
nhất, phát triển lực lượng vũ trang nhằm chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho

cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp về sau.
Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Hồ để
tiến, vạch rõ lí do vì sao ta kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ và đề ra những việc
cần làm sau khi Hiệp định được kí kết:
Giải thích ý nghĩa Hiệp định, chống mọi nhận thức và tư tưởng sai lệch
đối với việc kí kết.

Chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đề phịng Pháp bội ước.

Đấu tranh với Tưởng, đề phịng chúng cố tình kéo dài thời hạn đóng
qn trên miền Bắc.

Đề phịng các đảng phái phản động xuyên tạc và phá hoại.

Chỉ đạo miền Nam gây dựng lại cơ sở đã mất và cổ động phong trào
đòi thống nhất Bắc - Trung - Nam.


Một trong những nội dung quan trọng đấu tranh buộc Pháp phải tôn trọng Hiệp định Sơ
bộ là đòi họ mở cuộc đàm phán chính thức tại Pari. Ngược lại, thực dân Pháp tìm mọi
cách trì hỗn. Ta càng thấy rõ lập trường thực dân xâm lược của giới phản động Pháp,
nhưng vẫn kiên trì đấu tranh tiến tới cuộc đàm phán chính thức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với đại diện Chính phủ Pháp là Mutê (Moutet) Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại, bản Tạm ước ngày 14-9-1946.
Nội dung bản Tạm ước gồm những điểm chủ yếu như sau:
12


Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp cam kết tiếp tục chính sách
hợp tác như Hiệp định Sơ bộ đã nêu, tiếp tục cuộc đàm phán sẽ được triển

khai chậm nhất vào tháng Giêng 1947.

Chính phủ Việt Nam bảo đảm các quyền tự do dân chủ, quyền lợi kinh
tế - văn hố của người Pháp ở Việt Nam.

Chính phủ Pháp sẽ đình chỉ xung đột ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, bảo
đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.


Việt Nam và Pháp thả hết tù chính trị, chấm dứt tuyên phản đối việc Pháp tổ
chức trái phép Hội nghị Liên bang Đông Dương (ngày l/8/1946) tại Đà Lạt, gồm
bọn bù nhìn Nam Kì, Nam Trung Kì, Ai Lao và Cao Miên.

Việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ do hai bên quy định thời gian và cách thức.


Tạm ước 14-9-1946 là sự nhân nhượng cuối cùng của ta nhằm cứu vãn tình thế
hết sức khó khăn của đất nước lúc bấy giờ. Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh về đến Tổ quốc trong sự chờ đón đầy tin tưởng của tồn dân ta. Cuộc hành
trình ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đồn Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà trên đất Pháp tuy chưa giải quyết được mục tiêu cơ bản của cuộc
đàm phán, nhưng đã làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới hiểu rõ hơn
vấn đề Việt Nam, biểu thị sự đồng tình ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.

e.

Ý nghĩa:

Khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù trong giặc ngồi, bảo vệ chính
quyền cách mạng.

Kịp thời chỉ ra những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng
trong tình thế vơ cùng phức tạp và khó khăn của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa vừa mới được khai sinh.
Xác định đúng được kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược.

Đảng nêu cao ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ nền tự do, độc lập của
dân tộc, ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược, bảo vệ thành quả của
cuộc Cách mạng tháng Tám; tạo thêm thời gian hịa bình, hịa hỗn, tranh thủ
xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài.

--- HẾT--13



×