Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.35 KB, 45 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một xu thế tất yếu, là động lực
thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế
thị trường có sự định hướng của Nhà nước thì sự bao cấp không còn nữa, các
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần tạo cho sản phẩm của mình có chỗ
đứng trên thị trường. Hơn nữa, trong cơ chế mới, Nhà nước vẫn giám sát chặt
chẽ mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vừa để hướng doanh nghiệp
hoạt động trong hành lang pháp lý, vừa hỗ trợ doanh nghiệp khi cần thiết. Vì lẽ
đó, giá thành sản phẩm trở thành mối quan tâm của các cơ quan chức năng của
Nhà nước thực hiện công tác quản lý doanh nghiệp và của chính bản thân doanh
nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, ngoài các kế hoạch quảng cáo, thay đổi mẫu mã,
cho ra sản phẩm mới , doanh nghiệp đặc biệt quan tâm tới việc giảm chi phí,
hạ giá thành sản phẩm, từ đó có kế hoạch tiêu thụ sao cho vừa trang trải được
mọi chi phí bỏ ra, vừa đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đối với Nhà nước,
ngoài những giám sát mang tính bao quát, chi phí sản xuất giá thành sản phẩm
trở thành chỉ tiêu cần có trong việc phân tích so sánh với ngành, trong việc tính
thuế
Chính vì những lý do đó, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trở thành
những chỉ tiêu kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý hiệu quả và chất
lượng sản xuất kinh doanh, luôn được các nhà quản lý quan tâm khi xây dựng kế
hoạch sản xuất cho doanh nghiệp mình. Thông qua số liệu về chi phí và giá
thành sản phẩm do bộ phận kế toán cung cấp, ban quản lý doanh nghiệp biết
được chi phí thực tế bỏ ra là bao nhiêu, giá thành thực tế của sản phẩm có phù
hợp không, kết quả kinh doanh so với kế hoạch ra sao? Từ đó, ban giám đốc
phân tích tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sử dụng lao động, vật
tư , đề ra những biện pháp hữu hiệu nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm trong các niên độ tới, đồng thời đề ra các chiến lược kinh doanh
và kế hoạch quản trị cho phù hợp.
1
Việc phân tích, đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh


của doanh nghiệp chỉ có thể dựa trên việc tính giá thành sản phẩm chính xác. Do
vậy, việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp tính giá nào cho phù hợp (tùy từng
loại hình doanh nghiệp) và tính gía như thế nào cần được quan tâm đúng mức,
đặc biệt trong các doanh nghiệp công nghiệp - loại hình doanh nghiệp khá phức
tạp về đối tượng và qui trình tính giá thành.
Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm - trên cả góc độ lý luận
và thực tiễn luôn là đối tượng nghiên cứu của các nhà quản trị, nhà phân tích,
nhà kinh tế học , của các sinh viên trong và ngoài ngành. Với khuôn khổ và
thời gian hạn hẹp, em xin mạnh dạn trao đổi về vấn đề:"Hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp", rất
mong được sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn và các bạn!
2
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
I. CHI PHÍ SẢN XUẤT
1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản
xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với
sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách
khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của ba yếu tố: Tư liệu lao
động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất hàng
hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như
vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ chi phí sản xuất về
thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình
thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu
khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Cần chú ý phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh

doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về lao
động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải
mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần
các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục
đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá
trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản xuất
kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý…) và chi tiêu
cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo…).
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết
với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có
chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài
3
sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ
này. Chi phí và chi tiêu không chỉ khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời
gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau (khi mua
nguyên, vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào
chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí phải trả). Sở dĩ có sự khác
biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận
động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản
xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng.
2. Phân loại chi phí sản xuất – kinh doanh.
Chi phí sản xuất – kinh doanh có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của công tác quản lý. Tuy nhiên,
về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức sau:
2.1. Phân theo yếu tố chi phí.
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban
đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh,
chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và
phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự
toán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia

thành 7 yếu tố sau:
- Yếu tố nguyên, vật liệu: Bao gồm toàn bộ nguyên, vật liệu chính, vật lệu
phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ…sử dụng vào sản xuất – kinh doanh
(loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên
liệu, động lực).
- Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất – kinh doanh
trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền
lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên chức.
- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền
lương và phụ cấp lương phải trả CNVC.
4
- Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích
trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho SXKD trong kỳ.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua
ngoài dùng vào SXKD.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ành toàn bộ chi phí khác bằng tiền
chưa phản ánh váo các yếu tố trên dùng vào hoạt động SXKD trong kỳ.
2.2. Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện
cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân
loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối
tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành công xưởng sản phẩm ở Việt Nam
bao gồm 3 khoản mục chi phí sau:
- Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí sản xuất chung.
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành sản phẩm toàn bộ thì chỉ tiêu giá
thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán
hàng.

2.3. Phân theo cách thức kết chuyển chi phí
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và
chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm
được sản xuất ra hoặc được mua; còn chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm
lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được
sản xuất ra hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ
lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh.
2.4. Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm
hoàn thành.
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn
cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí SXKD lại được phân theo
5
quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này chi phí được chia
thành biến phí và định phí.
Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng
công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về nguyên liệu, nhân công trực tiếp…
Cần lưu ý rằng, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có
tính cố định. Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng
công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí
thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh, v.v… Các chi phí này nếu tính cho 1
đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
3. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên và
quan trọng của tổ chức hạch toán quá trình sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình
sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau.
Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm,
nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng… và giai đoạn
tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định.
Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý, kiểm tra và phân tích chi phí,
yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ và theo đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc

điểm quy trình công nghệ của từng doanh nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản
phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có thể nói, việc phân chia quá trình
hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản vê giới hạn tập hợp chi
phí trong hạch toán chi phí sản xuất – tức là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
– và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị – tức là đối tượng
tính giá thành.
Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuấtản x chính là việc
xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí
và chịu chi phí. Trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí, kế toán lựa chọn phương
pháp hạch toán (tập hợp) chi phí thích ứng. Phương pháp hạch toán chi phí sản
xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập
hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch
6
toán chi phí. Về cơ bản , phương pháp hạch toán chi phí sản xuất bao gồm các
phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn
công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm v.v… Nội dung chủ yếu của
các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết
hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí
phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tập hợp chi phí theo từng đối
tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chỉ thích ứng với một loại đối tượng hạch
toán chi phí nên tên gọi của các phương pháp này là biểu hiện đối tượng mà nó
cần tập hợp và phân loại chi phí.
II. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1. Bản chất và nội dung của giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản
phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh
lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự
chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm

những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá tình sản xuất, tiêu thụ
phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi
phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá
thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu
dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc bù
đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản
ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các
quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không
thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
2. Phân loại giá thành
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành cũng
như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hóa, giá thành được xem xét dưới một số góc
độ sau:
7
Theo thời điểm tính và nguồn hình thành số liệu để tính giá thành: Giá
thành được chia thành:
2.1.Giá thành kế hoạch:
Giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ
sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, dự toán chi phí kỳ kế hoạch.
Ý nghĩa: Việc xây dựng hệ thống giá thành kế hoạch có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng trong việc phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Giá
thành kế hoạch là để xác định giá cả hàng hóa, là chỉ tiêu tương đối chuẩn để
định hướng giá thành cho các kỳ thực tế, đồng thời giá thành kế hoạch cũng bị
tác động trở lại nếu nó không phù hợp với thực tế. Để phân tích tình hình hoàn
thành kế hoạch hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, thì giá thành kế hoạch
là căn cứ chuẩn nhằm đánh giá giá thành kỳ báo cáo, từ đó tìm ra những nguyên
nhân và hướng giải quyết chúng.
2.2.Giá thành định mức:
Giá thành định mức được xây dựng trước khi sản xuất sản phẩm. Tuy
nhiên khác với giá thành kế hoạch được xây dựng dựa trên các định mức bình

quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt kỳ kế hoạch, giá thành định mức
được xác định dựa trên các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm
nhất định (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù
hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện
kế hoạch giá thành.
Ý nghĩa: Giá thành định mức là thước đo chính xác để xác định kết quả sử
dụng tài sản, vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp trong sản xuất giúp cho đánh giá
đúng đắn các giải pháp kinh tế mà doanh nghiệp áp dụng trong quá trình sản
xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chi phí.
2.3.Giá thành thực tế:
Giá thành thực tế được xác định khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm
dựa trên cơ sở các chi phí phát sinh trong kỳ.
Ý nghĩa: Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả
phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế -
8
tổ chức - kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế là
căn cứ xác định giá trị thực của sản phẩm, lao vụ doanh nghiệp thực hiện trong
kỳ, là căn cứ quan trọng để xác định kết quả kinh doanh thực tế kỳ báo cáo. Hơn
nữa, giá thành thực tế còn là đối tượng phân tích, đánh giá của các nhà quản trị
doanh nghiệp, của khách hàng và những người quan tâm khác.
Theo phạm vi phát sinh chi phí:
Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): Phản ánh tất cả các khoản chi
phí liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm phát sinh trong kỳ trong phạm
vi phân xưởng sản xuất.
Ý nghĩa: Giá thành sản xuất là đối tượng quan tâm của kế toán và ban
quản trị doanh nghiệp .
Đối với kế toán: Đây là căn cứ để xác định giá thành một đơn vị sản
phẩm, lao vụ hoàn thành, từ đó xác định giá vốn hàng tiêu thụ và lãi gộp.
Đối với ban quản trị doanh nghiệp: Giá thành sản xuất thường được phân
tích theo các khoản mục chi phí. Ban quản trị đánh giá sự thay đổi của giá thành

sản xuất thông qua sự tác động, ảnh hưởng của từng khoản mục chi phí.
Giá thành toàn bộ (giá thành tiêu thụ, giá thành đầy đủ): Phản ánh toàn bộ
chi phí liên quan đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm phát sinh trong kỳ.
Giá thành = Giá thành + Chi phí + Chi phí
toàn bộ công xưởng bán hàng quản lý doanh nghiệp
Ý nghĩa: Đối với công tác kế toán, giá thành toàn bộ là căn cứ xác định lãi
trước thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với ban quản trị, nó được so sánh với giá
bán để xác định điểm hoà vốn, đồng thời được sử dụng để phân tích mức lợi
nhuận trong quan hệ với sản lượng, doanh thu.
3. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm
3.1. Đối tượng tính giá thành
Xác định đối tượng tính giá thành chính là xác định sản phẩm, bán thành
phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối
tượng có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây
truyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản
9
phẩm. Đối tượng tính giá thành có sự khác biệt với đối tượng hạch toán chi phí
sản xuất. Do vậy, để xác định chính xác đối tượng tính giá thành cần dựa vào
đặc điểm qui trình công nghệ (giản đơn hay phức tạp), vào loại hình sản xuất
(đơn chiếc hay hàng loạt), vào yêu cầu quản lý,
3.2. Các phương pháp tính giá thành
Do sự đa dạng về loại hình sản xuất cũng như giai đoạn công nghệ sản
xuất sản phẩm mà có thể gồm các phương pháp tính giá thành sau:
Phương pháp trực tiếp (hay phương pháp giản đơn)
Phương pháp tổng cộng chi phí
Phương pháp hệ số
Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp loại trừ
Phương pháp liên hợp
Ngoài ra, tuỳ từng loại hình doanh nghiệp cụ thể mà có các phương pháp

khác nhau (thực chất là sự phối hợp của các phương pháp trên).
10
CHƯƠNG II
HOẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC DOANH NGHIỆ CÔNG NGHIỆP
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất hàng đầu của nền kinh tế. Sản
phẩm do ngành công nghiệp sản xuất ra phục vụ hầu hết trên các mặt sản xuất
và đời sống của xã hội, không những thế còn có một bộ phận quan trọng được
xuất khẩu nhằm phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế, góp phần hội nhập
quốc tế.
Ngành công nghiệp được chia thành hai ngành lớn: Ngành khai thác và
chế biến gia công. Sản phẩm do ngành công nghiệp sản xuất ra rất đa dạng, bao
gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất. Trong một doanh nghiệp công nghiệp
có thể sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau, có thể thực hiện
theo qui trình sản xuất giản đơn hay phức tạp, công việc sản xuất có thể được
thực hiện ở một hoặc nhiều phân xưởng, ngoài sản xuất tập trung thì cũng có
những doanh nghiệp bao gồm nhiều phân xưởng nằm trên những địa bàn khác
mà mỗi phân xưởng có thể thực hiện một hoặc một số chức năng sản xuất độc
lập nào đó.
Tính chất đa dạng về sản xuất, về qui trình sản xuất và loại sản phẩm chi
phối trực tiếp đến việc tổ chức chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
II. NỘI DUNG GIÁ THÀNH SẢN PHẨM, LAO VỤ TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
Theo thông tư số 63/1999/TT-BTC ngày 07/06/1999 về hướng dẫn việc
quản lý doanh thu, chi phí và giá thành sản phẩm, dịch vụ tại các doanh nghiệp
Nhà nước, thì giá thành sản phẩm, dịch vụ gồm giá thành sản xuất sản phẩm, lao
vụ và giá thành toàn bộ sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ. Theo đó, giá thành sản
xuất sản phẩm, lao vụ bao gồm các khoản mục chi phí trực tiếp:
11

Chi phí vật tư trực tiếp (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp): Gồm các chi
phí về nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu và động lực tiêu dùng trực tiếp cho sản
xuất sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm các khoản trả cho người lao động trực
tiếp sản xuất: tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi
ăn ca, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân
trực tiếp.
Chi phí sản xuất chung: Gồm các khoản chi phí chung phát sinh ở các
phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như: tiền lương, phụ cấp, ăn
ca trả cho công nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ xuất
dùng cho phân xưởng, khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài và
các chi phí bằng tiền khác ngoài các chi phí kể trên.
III. KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
1. Các tài khoản sử dụng
Tài khoản 621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”: Tập hợp tất cả các
khoản chi phí về nguyên, nhiên, vật liệu được sử dụng trực tiếp trong quá trình
sản xuất sản phẩm, lao vụ. Tài khoản 621 được mở chi tiết theo từng đối tượng
tập hợp chi phí hoặc đối tượng tính giá thành (nếu được).
Kết cấu:
Bên Nợ: - Tập hợp chi phí thực tế phát sinh
Bên Có: - Trị giá nguyên vật liệu sử dụng không hết trả lại kho
- Kết chuyển nguyên vật liệu trực tiếp vào tài khoản tính giá
thành
TK 621 cuối kỳ không có số dư
Tài khoản 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”: Tập hợp tất cả các khoản
chi phí liên quan đến bộ phận lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm, lao vụ. Tài
khoản này mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán chi phí hoặc đối tượng tính
giá thành (nếu được).
Kết cấu:

12
Bên Nợ: - Chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh
Bên Có: - Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
TK 622 cuối kỳ không có số dư
Tài khoản 627 “Chi phí sản xuất chung”: Tập hợp chi phí quản lý, phục
vụ sản xuất ở phân xưởng, bộ phận sản xuất kinh doanh và phân bổ chi phí này
vào các đối tượng hạch toán chi phí hoặc tính giá thành. Tài khoản này được mở
chi tiết theo phân xưởng hoặc bộ phận sản xuất kinh doanh. Theo qui định, tài
khoản này được mở cho các tài khoản cấp 2:
- TK6271 “Chi phí nhân viên phân xưởng”
- TK6272 “Chi phí vật liệu”
- TK6273 “Chi phí dụng cụ sản xuất”
- TK6274 “ Chi phí khấu hao TSCĐ”
- TK6277 “ Chi phí dịch vụ mua ngoài”
- TK6278 “ Các chi phí bằng tiền khác”
Kết cấu:
Bên Nợ: - Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ
Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
- Kết chuyển (hay phân bổ) chi phí sản xuất chung vào chi phí
sản phẩm hay lao vụ, dịch vụ
TK 627 cuối kỳ không có số dư
Tài khoản 154 và 631:
♣ Nếu doanh nghiệp hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên:
Doanh nghiệp chỉ sử dụng TK154 để tập hợp chi phí và tính giá thành.
Tài khoản 154 “ Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”: Tổng hợp chi phí
và tính giá thành sản phẩm. TK154 mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi
phí và đối tượng tính giá thành (nếu được).
Kết cấu:
Bên Nợ: - Tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh
Bên Có: - Các khoản làm giảm chi phí phát sinh

- Giá thành sản phẩm lao vụ hoàn thành
13
SDCK: (Bên Nợ): Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
♣ Nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ thì các TK sử
dụng gồm: TK621, TK622, TK627 (với nội dung và kết cấu như trên ): TK631
“Giá thành sản xuất”, TK154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”
TK154 chỉ được dùng để phản ánh chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
đầu và cuối kỳ căn cứ vào kiểm kê và đánh giá sản phẩm làm dở, TK631 được
sử dụng để tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, lao vụ hoàn
thành. Kết cấu các TK như sau:
- TK154: “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”
Kết cấu:
Bên Nợ: - Chi phí sản xuất kinh doanh cuối kỳ chuyển sang
Bên Có: - Kết chuyển chi phí sản xuất kinh doanh dở dang đầu kỳ vào TK
tính giá
thành
SDCK: (Bên Nợ): Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
- TK631: “Giá thành sản xuất”
Kết cấu:
Bên Nợ: - Chi phi sản xuất kinh doanh đầu kỳ được kết chuyển từ TK154
sang
- Tổng hợp chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ
Bên Có: - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ chuyển sang
TK154
- Giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành
- Giá trị thu hồi ghi giảm chi phí từ sản xuất
TK631 cuối kỳ không có số dư
2. Phương thức phân bổ chi phí
Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Đối với những nguyên vật liệu trực tiếp sử dụng để sản xuất ra nhiều loại

sản phẩm (chủ yếu là nguyên vật liệu chính) và không thể xác định trực tiếp
mức tiêu hao thực tế cho từng loại sản phẩm (hoặc đối tượng chịu chi phí) thì kế
14
toán phải tiến hành phân bổ theo tiêu thức phù hợp các tiêu thức có thể sử dụng:
định mức tiêu hao cho từng loại sản phẩm, hệ số phân bổ . . .
Công thức phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:

Đối với chi phí nhân công trực tiếp
Nếu tiền lương công nhân trực tiếp xản xuất liên quan đến nhiều đối
tượng chịu chi phí thì cần tiến hành phân bổ theo các tiêu thức như: mức tiền
lương của các đối tượng, hệ số phân bổ, số giờ hoặc ngày công tiêu chuẩn, . . .
Công thức phân bổ:
15
Mức phân bổ chi phí NVL
trực tiếp (NVL chính )
cho từng đối tượng.
Tổng số khối lượng của
các đối tượng được xác
định theo tiêu thức nhất
định
Khối lượng của từng đối
tượng được xác
định
Tổng giá trị NVL thực tế
xuất dùng (NVL chính )
Mức phân bổ chi phí NVL
trực tiếp (NVL chính )
cho từng đối tượng.
Tổng giá trị NVL thực tế
xuất dùng (NVL chính )

Tổng số khối lượng của
các đối tượng được xác
định theo tiêu thức nhất
định
Khối lượng
của từng đối

tượng được
xác định
=
x
x
Mức phân bổ chi phí
tiền lương của công
nhân trực tiếp cho
từng đối tượng.
Tổng số tiền lương công
nhân trực tiếp của các
đối tượng
Tổng khối lượng phân bổ
theo tiêu thức sử dụng
Khối lượng
phân bổ của
từng đối
tượng
= x
x
Đối với chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng phân xưởng hoặc bộ phận
sản xuất kinh doanh. Việc tập hợp diễn ra hàng tháng, đến cuối tháng tiến hành

phân bổ và kết chuyển vào đối tượng hạch toán chi phí.
Nếu phân xưởng (bộ phận) sản xuất ra 2 loại sản phẩm trở lên thì cần
phân bổ theo một trong các tiêu thức như: tỷ lệ tiền lương công nhân sản xuất, tỷ
lệ chi phí NVL trực tiếp, tỷ lệ với số giờ máy chạy…
Công thức phân bổ:
3. Sơ đồ tổng hợp hạch toán chi phí sản xuất
3.1. Theo phương pháp kiểm kê định kỳ
16
Mức chi phí sản
xuất chung phân bổ
cho từng đối tượng.
Tổng tiêu thức phân bổ
của từng đối tượng
Tổng tiêu thức phân bổ
của tất cả các đối tượng
Tổng chi phí
sản xuất
chung cần
phân bổ
= x
x
Tập hợp chi phí
NVL trực tiếp
611(1)
621 611(1) 154 631 154
334,338,
622
627
334,338,214,
.

632
NVL thừa
nhập kho
Tập hợp chi phí
NC trực tiếp
Tập hợp chi phí
sản xuất chung
Chi phí SXKD
dở dang ĐK
Chi phí SXKD
dở dang CK
Giá thành sản
phẩm hoàn
thành trong kỳ
Kết chuyển
Kết chuyển
Kết chuyển
SD:xxx
SD:xxx
3.2. Theo phương pháp kê khai thường xuyên
IV. KẾ TOÁN TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CỦA HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT CHÍNH
1. Đặc điểm hoạt động sản xuất chính.
Sản xuất chính là hoạt động sản xuất cơ bản, chủ yếu của doanh nghiệp
nhằm tạo ra các loại sản phẩm hàng hoá. Kết quả kinh doanh của sản xuất chính
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Tính đa dạng và phức tạp của sản xuất chính về loại sản phẩm, qui trình
công nghệ, tổ chức quá trình sản xuất, về yêu cầu kiểm tra và đánh giá hiệu quả
sản xuất chi phối trực tiếp và thường xuyên đến việc tổ chức kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm.

Chi phí sản xuất cấu tạo nên giá thành sản phẩm của sản xuất chính bao
gồm 3 bộ phận: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
17
152,111,
334,338,
334,338,214,153
621
622
627
152 154
155
157
632
152,111,
Tập hợp chi phí
NVL trực tiếp
Tập hợp chi phí
nhân công trực tiếp
Tập hợp chi phí
sản xuất chung
NVL thừa
nhập kho
Kết chuyển
Kết chuyển
Kết chuyển
Các khoản làm
giảm chi phí

Giá thành sản phẩm
nhập kho hoàn thành

Gửi bán
Bán thẳng
SD: xxx
SD: xxx
chi phí sản xuất chung. Các khoản mục chi phí này được tổ chức theo dõi riêng
và cuối mỗi kỳ mới tiến hành tổng hợp để tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
Công thức tổng quát để tính giá thành:
2. Đánh giá sản phẩm dở dang
Đánh giá sản phẩm dở dang là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc
tính toán giá thành và xác định đúng đắn kết quả kinh doanh trong kỳ. Để đánh
giá, doanh nghiệp sử dụng một trong các phương pháp sau (nếu doanh nghiệp sử
dụng phương pháp nào thì nên áp dụng thống nhất trong nhiều kỳ kinh doanh):
2.1. Đánh giá theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (nguyên vật liệu
chính):
Điều kiện áp dụng: Cách đánh giá này phù hợp với những doanh nghiệp
mà trong cấu thành giá thành sản phẩm, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
(nguyên vật liệu chính) chiếm tỷ trọng lớn, thông thường lớn hơn 70%.
Đặc điểm: Phương pháp này chỉ tính cho sản phẩm làm dở khoản chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp (nguyên vật liệu chính), còn chi phí chế biến (gồm chi
phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung) được tính hết cho sản phẩm
hoàn thành trong kỳ. Đồng thời coi mức NVL trực tiếp (NVL chính) dùng cho
đơn vị sản phẩm dở dang và hoàn thành là như nhau.
Công thức tính:
18
Tổng giá thành
sản phẩm hoàn
thành trong kỳ
CPSX
dở dang
đầu kỳ

CPSX
phát sinh
trong kỳ
CPSX
dở dang
cuối kỳ
Các khoản
làm giảm
chi phí
= + - -
CPSX tính cho
sản phẩm dở
dang cuối kỳ
CPSX dở
dang đầu kỳ
CPNVL trực tiếp
(chính) thực tế sử
dụng trong kỳ
Số lượng sản
phẩm hoàn thành
trong kỳ
Số lượng sản
phẩm dở dang
cuối kỳ
Số lượng sản
phẩm dở dang
cuối kỳ
=
+
+

x
hay:

2.2. Phương pháp đánh giá theo sản lượng ước tính tương đương
Điều kiện áp dụng: Đây là cách đánh giá phù hợp hầu hết các loại hình
doanh nghiệp nhưng phải gắn với điều kiện có phương pháp khoa học trong việc
xác định mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang và mức tiêu hao của từng
khoản mục chi phí trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Có thể thấy rõ nhất cách đánh giá này ở một số công ty may mặc, đóng
giầy. Sản phẩm của loại hình doanh nghiệp này là một chiếc áo (quần, đôi tất,
khăn, ), hay đôi giầy hoàn thành nhập kho hay tiêu thụ thẳng. Đặc điểm của các
loại sản phẩm này là qua nhiều khâu sản xuất, mỗi khâu sản xuất một hoặc một
vài chi tiết, sau mỗi khâu có thể dễ dàng xác định được mức độ hoàn thành của
sản phẩm tuỳ theo phương pháp xác định cụ thể từng doanh nghiệp.
Đặc điểm: Chi phí sản xuất tính cho sản phẩm dở dang cuối kỳ gồm đầy
đủ các khoản mục chi phí trong cấu thành của chi phí sản xuất. Đối với chi phí
NVL chính được xác định nằm trong sản phẩm dở dang theo số lượng sản phẩm
dở dang không qui đổi theo mức độ hoàn thành. Còn các chi phí chế biến trong
sản phẩm dở dang tính theo số lượng sản phẩm dở dang đã qui đổi theo mức độ
hoàn thành.
Công thức tính:
19
=
Số lượng sản
phẩm dở dang
cuối kỳ
Số lượng thành
phẩm
Số lượng sản
phẩm dở dang

+
x
Toàn bộ giá trị
NVL trực tiếp
(chính) xuất
dùng
CPSX tính cho
sản phẩm dở
dang cuối kỳ
Giá trị NVL
chính nằm trong
SP dở dang
Số lượng SP
dở dang cuối kỳ
Số lượng
thành phẩm
Số lượng SP
dở dang cuối kỳ
Toàn bộ giá trị
NVL chính
xuất dùng
=
+
x
2.3. Phương pháp đánh giá theo 50% chi phí chế biến
Điều kiện áp dụng: Cách đánh giá này phù hợp với những sản phẩm mà
chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí. Thực chất đây là một
dạng của phương pháp ước tính sản lượng tương đương trong đó giả định sản
phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm.
Phương pháp này ít được sử dụng vì tính không chính xác của nó (vì phải

giả định mức độ dở dang là 50%, không phản ánh được mức dở dang thực tế của
sản phẩm).
Công thức tính toán tương tự phương pháp đánh giá theo sản lượng ước
tính tương đương song giả định sản phẩm dở dang ở mức độ 50%.
2.4. Phương pháp đánh giá theo chi phí định mức hoặc kế hoạch.
Điều kiện áp dụng: Phù hợp với những doanh nghiệp xây dựng hệ thống
định mức chi phí.
Đặc điểm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sản xuất chung của sản phẩm dở dang được xác định căn cứ vào định
mức tiêu hao của những công đoạn đã thực hiện được. Nếu sản phẩm được chế
tạo không phải qua các công đoạn có định mức tiêu hao được xác lập riêng biệt
thì các khoản mục chi phí của sản phẩm dở dang được xác định căn cứ vào tỷ lệ
20
Chi phí chế
biến nằm trong
SP dở dang
(từng loại)
Số lượng SP dở
dang cuối kỳ qui
đổi ra thành phẩm
Số lượng
thành phẩm
Số lượng SPdở
dang cuối kỳ qui
đổi ra thành phẩm
=
+
x
Tổng chi phí chế
biến

(từng loại)
Giá trị SP dở
dang cuối kỳ
Giá trị NVL
chính nằm trong
SP dở dang
Chi phí chế
biến nằm trong
SP dở dang
(tổng các loại)
= +
hoàn thành và định mức từng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm hoàn
thành.
Nếu doanh nghiệp không sử dụng giá thành (chi phí) định mức thì có thể
dùng giá thành (chi phí) kế hoạch để xác định chi phí sản xuất của sản phẩm dở
dang.
2.5. Phương pháp đánh giá theo chi phí trực tiếp
Theo phương pháp này, trong giá trị sản phẩm dở dang chỉ gồm chi phí
nhân công trực tiếp hoặc hai loại là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí
nhân công trực tiếp mà không tính đến các chi phí khác. Phương pháp này tương
tự phương pháp đánh giá theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (chi phí nguyên
vật liệu chính). Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp sản xuất thường nguyên vật
liệu là đầu vào chủ yếu, do đó trong giá trị sản phẩm dở dang, chủ yếu là chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp (nguyên vật liệu chính). Vì thế, nếu đánh giá theo
phương pháp này - loại bỏ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (chính) ra khỏi
giá trị sản phẩm dở dang - là không hợp lý và thiếu chính xác.
Ngoài ra, trên thực tế, người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác
định giá trị sản phẩm dở dang như: phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương
pháp tính theo chi phí nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ
3. Các phương pháp tính giá thành

3.1. Phương pháp giản đơn (hay phương pháp trực tiếp)
Điều kiện: Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp sản
xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, khối lượng sản xuất lớn, chu kỳ sản xuất
ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể như các doanh
nghiệp sản xuất động lực (điện, nước, hơi nước, khí nén, khí đốt, ); các doanh
nghiệp khai thác (than, quặng, hải sản, ).
Cách xác định: Theo công thức tổng quát :
21
Tổng giá thành
sản phẩm hoàn
thành trong kỳ
CPSX
dở dang
đầu kỳ
CPSX
phát sinh
trong kỳ
CPSX
dở dang
cuối kỳ
Các khoản
làm giảm
chi phí
= + - -
3.2. Phương pháp cộng chi phí
Điều kiện: áp dụng đối với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản
phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn
công nghệ hay bộ phận sản xuất. Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong
các doanh nghiệp khai thác, dệt nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc,

Cách xác định: Giá thành được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất
của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn,
bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm:
Giá thành sản phẩm =Z1 + Z2 + + Zn
Trong đó: n là số giai đoạn hay bộ phận sản xuất tạo nên sản phẩm.
3.3. Phương pháp loại trừ
Điều kiện: Áp dụng trong trường hợp cùng một qui trình sản xuất vừa tạo
ra sản phẩm chính, vừa tạo ra sản phẩm phụ (sản phẩm phụ không phải là đối
tượng tính giá thành mà được định giá theo mục đích tận thu). Do vậy, cần loại
trừ trị giá sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí. Phương pháp này được áp dụng
phổ biến trong các doanh nghiệp chế biến đường, rượu, bia, mỳ ăn liền
Cách xác định:
Trước hết, xác định giá trị sản phẩm phụ theo các phương pháp như: giá
ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu,
Xác định giá thành sản phẩm theo công thức:

3.4. Phương pháp hệ số
Điều kiện: Áp dụng trong trường hợp cùng một quá trình sản xuất, cùng
sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời
nhiều sản phẩm khác nhau, hơn nữa, chi phí không tập hợp riêng cho từng loại
sản phẩm được mà phải tập hợp cho cả quá trình sản xuất. Doanh nghiệp áp
22
Tổng giá
thành sản
phẩm chính
Giá trị sản
phẩm chính
dở dang ĐK
Tổng CPSX
phát sinh

trong kỳ
Giá trị sản
phẩm chính
dở dang CK
Giá trị sản
phẩm phụ thu
hồi ước tính
= + - -
dụng phương pháp nay phải xác định hệ số qui đổi các loại sản phẩm về sản
phẩm gốc (coi hệ số qui đổi của sản phẩm gốc bằng 1).
Cách xác định:
- Qui đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc theo công thức:
-
- Tính giá thành đơn vị sản phẩm gốc:
Trong đó:
- Tính giá thành từng loại sản phẩm :
3.5. Phương pháp tỷ lệ
Điều kiện áp dụng: Tương tự phương pháp hệ số, nhưng doanh nghiệp
không xác lập hệ số qui đổi mà sử dụng tỷ lệ giữa thực tế và định mức (hoặc kế
hoạch).
Cách tính: Đối với những doanh nghiệp sử dụng phương pháp này, người
ta xây dựng tỷ lệ giữa thực tế và định mức (kế hoạch) căn cứ vào nhiều tiêu thức
khác nhau như: giá thành, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp để từ đó xác định
23
Tổng số sản
phẩm gốc
Σ( )
))

Số lượng hoàn

thành của loại
sản phẩm i
Hệ số qui
đổi của loại
sản phẩm i
i=1
n
x=
Giá thành đơn vị
sản phẩm gốc
Tổng giá thành của các loại sản
phẩm hoàn thành trong kỳ
Tổng số sản phẩm gốc
=
Tổng giá thành của
các loại sản phẩm
hoàn thành trong kỳ
Giá trị sản
phẩm dở
dang ĐK
Tổng CPSX
phát sinh
trong kỳ
Giá trị sản
phẩm dở
dang CK
= + -
Giá thành đơn vị của
từng loại sản phẩm
Giá thành đơn vị

sản phẩm gốc
Hệ số qui đổi từng
loại sản phẩm
= x
giá thành thực tế của từng loại sản phẩm. Thông thường người ta sử dụng tiêu
thức giá thành:
3.6. Phương pháp liên hợp
Điều kiện: Áp dụng cho những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất phức
tạp, tính chất qui trình công nghệ và tính chất sản phẩm đòi hỏi việc tính giá
thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Chẳng hạn như trong các
công ty hoá chất: quá trình sản xuất tạo ra các sản phẩm phụ, đồng thời công ty
lại có một hệ thống giá thành định mức cho tất cả các loại sản phẩm, điều đó đòi
hỏi công ty phải sử dụng kết hợp cả phương pháp loại trừ và phương pháp tỷ lệ.
Ngoài ra có nhiều loại hình doanh nghiệp khác sử dụng phương pháp liên
hợp như: dệt kim, may mặc,
Cách xác định: Kết hợp các phương pháp như: tỷ lệ với loại trừ, loại trừ
với tổng cộng chi phí,
4. Phương pháp tính giá thành trong một số loại hình doanh nghiệp
chủ yếu
4.1. Doanh nghiệp sản xuất giản đơn
Doanh nghiệp sản xuất giản đơn thường là những doanh nghiệp chỉ sản
xuất một hoặc một số ít mặt hàng với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản
phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể. Do khối lượng lớn nhưng số
lượng mặt hàng ít nên đối tượng hạch toán chi phí được tiến hành theo sản
phẩm, mỗi mặt hàng sản xuất được mở một hoặc một số sổ (thẻ) hạch toán chi
24
Tỷ lệ
chi phí
Tổng giá thành thực tế
của các loại sản phẩm

Tổng giá thành định mức( hoặc kế
hoạch) của các loại sản phẩm
= 100 x
Tổng giá thành thực tế
của từng loại sản phẩm
=
Tổng giá thành định mức (hoặc kế
hoạch) của từng loại sản phẩm
x
Tỷ lệ
chi phí
phí sản xuất. Công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng
theo phương pháp trực tiếp hoặc liên hợp.
Những doanh nghiệp sản xuất giản đơn phải kể đến là các doanh nghiệp
khai thác than, quặng, Loại doanh nghiệp này chỉ sản xuất một loại sản phẩm
(than) hoặc một số sản phẩm (như quặng pirit) nhưng khối lượng lớn do dặc tính
của sản phẩm, nhu cầu thị trường cao trong khi số doanh nghiệp loại này ít;
lượng dở dang không đáng kể do khai thác từ tự nhiên. Do vậy, tính giá thành
theo phương pháp trực tiếp hoặc liên hợp (kết hợp giữa trực tiếp và loại trừ, ) là
phù hợp.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp sản xuất động lực (điện, nước, hơi
nước, ) thường không có sản phẩm dở dang, chu kỳ sản xuất ngắn (thời gian từ
sản xuất đến hoàn thành tiêu thụ ngắn, không qua nhiều công đoạn) nên tính giá
thành theo phương pháp trực tiếp hay liên hợp.
4.2. Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng
Đặc điểm: Đây là loại hình doanh nghiệp sản xuất đơn chiếc hoặc sản
xuất hàng loạt theo đơn đặt hàng của người mua.
Phương pháp tính:
- Tập hợp chi phí: Chi phí được tập hợp cho từng đơn đặt hàng cụ thể,
không kể số lượng sản phẩm của đơn đặt hàng đó nhiều hay ít, qui trình công

nghệ đơn giản hay phức tạp. Đối với các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân
công trực tiếp phát sinh trong kỳ liên quan trực tiếp đến đơn đặt hàng nào thì
hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó theo các chứng từ gốc. Riêng chi phí sản
xuất chung, do không thể tách riêng cho từng đơn nên tập hợp chung, sau đó
phân bổ cho từng đơn theo tiêu thức phù hợp (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
giờ công sản xuất, ).
- Tính giá thành: Giá thành được tính cho từng sản phẩm của từng đơn đặt
hàng. Giá thành chỉ được tính khi đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành
thường không thống nhất với kỳ báo cáo. Đối với những đơn đến cuối kỳ báo
cáo chưa hoàn thành thì toàn bộ chi phí coi như giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
25

×