Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của ktnn trong nền kinh tế thị trường định hướng xhcn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.51 KB, 36 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Sau năm 1991 cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa(XHCN) ở Đơng Âu, nền kinh tế – chính trị thế giới đã chuyển từ trạng
thái hai cực đối đầu sang nền kinh tế chính trị đa cực, đa phương hóa, đa dạng hóa
theo xu hướng hịa bình, đối thoại, hợp tác phát triển cùng có lợi.
Trong bối cảnh đó, từ việc nhận thức đúng đắn trong thực tiễn và lý luận với
mục tiêu đưa nước ta phát triển hội nhập với khu vực và thế giới. Ngay từ đại hội
Đảng VI, Đảng ta đã xác định “Chuyển đổi mô hình kinh tế chỉ huy mang nặng tính
bảo thủ trì trệ sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ”. Hiện nay nền
kinh tế nước ta bao gồm 6 thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, cùng với các thành phần kinh tế tập thể tạo nên một nền tảng
vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
Sau 17 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nền
kinh tế hàng hóa phát triển rất sơi động mở ra cho nước ta nhiều vận hội mới, đồng
thời cũng phát sinh khơng ít khó khăn và thách thức. Trên cơ sở những thành tựu
đã đạt được và những khó khăn trước mắt. Báo cáo chính trị đại hội Đảng IV một
lần nữa khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà Nước ta “thực hiện nhất quán
chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần” và nói rõ thêm “Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Là những nhà kinh tế, là những cán bộ quản lý kinh tế trong tương lai thì
việc sinh viên kinh tế tìm hiểu về kinh tế Nhà nước (KTNN) và vai trị chủ đạo của
nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là hết sức quan
trọng và cần thiết bởi qua đó sẽ nâng cao được trình độ và nhận thức về KTNN
1


đồng thời tạo hành trang vững chắc cho những tư duy và hoạt động kinh tế của
mình sau này.


Với tư cách là một sinh viên của trường đại học Kinh Tế Quốc Dân tơi xin
đưa ra đề án của mình trong việc nghiên cứu “Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ
đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam”. Tuy
nhiên do lần đầu tiên tiếp xúc với một vấn đề kinh tế có tính chất khá rộng và quy
mô nên trong đề án này khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Tơi rất mong có sự nhận xét, đóng góp ý kiến nhiệt tình của thầy cơ bộ mơn
và các bạn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

2


PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thành phần kinh tế Nhà nước
1. Thành phần kinh tế Nhà nước
Hiện nay có nhiều ý kiến và có nhiều quan điểm khác nhau quan niệm về
kinh tế nhà nước (KTNN), tuy nhiên chúng ta không thể đồng nhất một cách giản
đơn KTNN với doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Bởi lẽ, ta biết rằng khu vực
KTNN bao gồm mọi hoạt động của Nhà nước mà trong đó DNNN là bộ phận
khơng thể tách rời và hoạt động của nó là một trong những hoạt động chủ yếu. Đây
là lực lượng vật chất cơ bản, đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội của Nhà nước.
1.1.1. Khái niệm thành phần kinh tế nhà nước
Do tính chất rộng lớn và đa dạng của thành phần KTNN bao chùm nền kinh
tế nên khái niệm về thành phần KTNN cũng mang tính chất tương đối. Nên xét về
khía cạnh hình thức tổ chức, thì khu vực KTNN bao gồm:
- Các DNNN hoạt động kinh doanh và các DNNN hoạt động cơng ích
- Các doanh nghiệp có cổ phần Nhà nước chi phối hoặc có cổ phần đặc biệt
của Nhà nước (theo quy định của Luật DNNN)
- Các doanh nghiệp có vốn đóng góp của Nhà nước

- Các tổ chức sự nghiệp kinh tế của Nhà nước
Cịn nếu xét về khía cạnh của lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế thì khu
vực KTNN bao gồm các hoạt động của Nhà nước trong việc.
- Quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên
- Đầu tư, quản lý và khai thác các cơng trình hạ tầng kỹ thuật (đường xá , bến
bãi, cảng, các khu công nghiệp tập trung vv…)
- Các tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp,
thương mại, dịch vụ, trong lĩnh vực tài chính, tính dụng, ngân hàng …
1.1.2. Cơ sở hình thành kinh tế nhà nước
3


KTNN mà trước tiên là các DNNN được hình thành trên cơ sở:
- Nhà nước đầu tư xây dựng
- Quốc hữu hố các doanh nghiệp tư bản tư nhân
- Góp cổ phần khống chế với các doanh nghiệp tư nhân
Ngoài ra với bản chất XHCN của mình Nhà nước ta đã xác định: Đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng …Do Nhà nước nắm giữvà quản lý với
mục đích chi phối và điều tiết dịnh hướng sự phát triển kinh tế xã hội
1.1.3. Đặc điểm của TPKTNN
Đặc điểm cơ bản, nổi bật nhất của thành phần KTNN là nó thuộc sở hữu của
Nhà nước. Tuy nhiên ở đây ta phải phân biệt ro ràng giữ phạm trù sở hữu Nhà nước
với phạm trù quyền sử dụng của thành phần KTNN.
Sở hữu Nhà nước là một phạm trù rộng lớn hơn nếu ta đem so sánh với phạm
trù KTNN với lý do: Đã nói đến thành phần KTNN thì trước hết nó phải thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước. Nhưng sở hữu của Nhà nước có thể do các thành phần
kinh tế khác sử dụng, ví dụ như đất đai là tài sản mà Nhà nước đại điện cho tồn
dân về sở hữu, nhưng kinh tế hộ gia đình (cá thể tiểu chủ), các hợp tác xã nông
nghiệp, hay doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác vẫn được Nhà nước giao
quyền sử dụng đất lâu dài, chính việc này đã giải thích được việc mua bán đất đai

trên thị trường hiện nay. Về thực chất thì đây chỉ là việc mua bán quyền sử dụng
đất bởi vì đất đai là sản phẩm của tự nhiên con người không thể tiến hành sản xuất
ra nó được. Và ngược lại những tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước thì
khơng hẳn đã phải là do thành phần KTNN sử dụng, mà các thành phần kinh tế
khác vẫn có thể sử dụng. Ví dụ như việc Nhà nước góp vốn, cổ phần ở các thành
phần kinh tế khác thông qua việc liên doanh, liên kết mà từ đó hình thành nên
thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
Đặc điểm thứ hai của thành phần KTNN là các doanh nghiệp Nhà nước
được tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế,
xoá bỏ dần sự bao cấp của Nhà nước.
4


Đặc điểm thứ ba nữa là trong thành phần KTNN thực hiện phân phối theo
lao động và theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, đây là một đặc điểm rất quan trọng
của các doanh nghiệp thuộc thành phần KTNN, là hình thức phân phối can bản và
là nguyên tắc phân phối chủ yếu, thích hợp với các thành phần dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay.
2. Sự khác nhau giữa KTNN và kinh tế tư bản (KTTB) độc quyền
Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoas phát triển theo cơ chế thị
trường đang có bước tiến mạnh mễ đem lại hiều thành tựu về kinh tế, văn hoá, xã
hội, cải thiện cuộc sống con người. Tuy nhiên song hành với nó là những tiêu cực
hạn chế vốn thuộc về bản chất của cơ chế thị trường. Điều đó địi hỏi cần có một
chủ thể kinh tế đủ vững mạnh để đứng ra điều tiết nền kinh tế phát huy những mặt
tích cực khắc phục những quyết điểm của cơ chế thị trường và Nhà nước chính là
một chủ thể kinh tế quan trọng có khả năng nhận thức và vận dụng những quy luật
kinh tế khách quan vào nền kinh tế, đồng thời Nhà nước đưa ra các chính sách vĩ
mô nhằm khắc phục nhưng hạn chế của cơ chế thị trường tạo ra động lực mới cho
phát triển kinh tế vv…Vì thế mà Samuelson đã nhận định “Thiếu sự can thiệp của
Nhà nước vào nền kinh tế chẳng khác nào vỗ tay bằng một bàn tay”. Dựa trên

những chế độ chính trị xã hội khác nhau mà vai trị của Nhà nước trong nền kinh tế
và những công cụ điều tiết nền kinh tế của Nhà nước cũng khác nhau. Nếu KTNN
ở Việt nam là đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì
KTTB độc quyền Nhà nước lại là đặc trương của nền kinh tế thị trường của các
nước TBCN. Giữa chúng có những điểm khác nhau căn bản sau đây:
Thứ nhất, quan điểm lý luận của các nước XHCN thừa nhận rộng rãi tính
chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế là đặc trưng cơ bản để phân biệt thể chế kinh
tế thị trường XHCN và kinh tế thị trường TBCN. Trên cơ sở đó KTNN hoạt động
trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng, then chốt của xã hội. Không những
thế KTNN còn nắm vai trò chủ đạo trong những ngành hoạt động khác, vì mục tiêu
lợi nhuận mà chủ yếu là phục vụ cho lợi ích tồn xã hội như: quốc phòng, giáo dục,
5


y tế vv…Ở các nước TBCN ở thời kỳ độc quyền Nhà nước thì Nhà nước ln phụ
thuộc vào các tổ chức độc quyền, các hoạt động của Nhà nước tác động vào các
quá trình kinh tế nhằm đêm lại lợi nhuận độc quyền, các tổ chức này luôn hoạt
động trong lĩnh vực độc quyền của mình và thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Thứ hai, nếu xét về bản chất sự ra đời của tư bản độc quyền Nhà nước
không làm thay đổi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà chỉ là sự kết hợp về con
người giữa tổ chức độc quyền và Nhà nước, các tổ chức độc quyền chỉ đem lại lợi
ích chủ yếu cho một số người trong xã hội. Còn KTNN ở nước ta là thành phần
kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trong đó Nhà nước là người
đứng ra đại diện sở hữu cho toàn dân. Do đó các thành phần KTNN được tổ chức
sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kế toán kinh tế, phân phối theo lao
động và theo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời thành phần KTNN cịn có
vai trò hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo ra cơ sở và tiền đề
vững chắc cho sự phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN.
II. Sự hình thành và phát triển KTNN ở Việt Nam
Sau cách mạng tháng tám nước ta quá độ từ chế độ nửa phong kiến thực dân

lên XHCN bỏ qua giai đoan TBCN. Với chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là kim chỉ nam.
Cùng với cơng cuộc xây dựng đất nước. KTNN đã được ra đời với mục đích:
- Quốc hữu hố XHCN. Xố bỏ tồn diện triệt để chế độ tư hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, xố bỏ chế độ người bóc lột người, tịch thu, quốc hữu hoá đất đai
tài sản của địa chủ, tư bản. Thực nguyên tắc tài sản thuộc về giai cấp công dân và
nhân dân lao động.
- Cải tạo XHCN: cải tạo, xoá bỏ tàn dư của chế độ cũ xây dựng một Nhà
nước của dân do dân và vì dân.

6


- Đầu tư xây dựng mới: trong giai đoạn qua độ lên CNXH thì KTNN là lực
lượng lịng cốt chủ lực đi đầu trong công cuộc công nghiệp háo hiện đại hoá đất
nước, xây dưng cơ sở vật chất cho XHCN.
Từ đó đến nay KTNN ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển qua các
giai đoạn:
1. Giai đoạn 1945 - 1960
Sau khi hồ bình lặp lại ở miền Băc, Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn con
đường xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam.
Theo chủ trương đó cơng cuộc cải tạo XHCN bắt đầu được thực hiện ở miền Bắc
với nhiệm vụ thủ tiêu kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể.điều đó đã dẫn đễn việc thu hẹp và xoá bỏ kinh tế tư nhân và chuyển sang hình
thức sở hữu tồn dân, xây dựng các xí nghiệp quốc doanh, tiến hành hợp tác hố
nơng nghiệp và sản xuất nhỏ ở thành thị. Kết quả đến năm 1960 đã có:
- Trong cơng nghiệp:
+ Số xí nghiệp quốc doanh thuộc KTNN: 1012
+ Các xí nghiệp quốc doanh tạo ra 53,3% giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
- Trong nông nghiệp:

+ Số nông trường quốc doanh: 56
+ Sử dụng 74800 ha đất nông nghiệp.
+ Kinh tế quốc doanh tạo ra 2% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp.
- Thương nghiệp quốc doanh chiếm:
+ 93,6% tổng mức bán buôn.
+ 51% tổng mức bán lẻ.
Kinh tế quốc doanh đã thu hút và sử dụng lực lượng lao động gồm 477000
người. Như vậy, kinh tế quốc doanh từ chỗ rất nhỏ bé vươn lên trở thành lực lượng
kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Với chủ trương xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ, đi lên CNXH, vai trò chủ đạo, chủ lực đã được giao cho kinh tế quốc
doanh.
7


2. Giai đoạn từ 1960 - 1975
Với chủ trương công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc “ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý” nhà nước tiếp tục đầu tư xây dựng kinh tế quốc
doanh ngày càng lớn mạnh về số lượng. Bên cạnh các khu công nghiệp cũ đã được
cải tạo ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, 1 loạt các khu công nghiệp mới ra đời
như Thượng Đình, mỏ Minh Khai, Đơng Anh Hà Nội, Việt Trì, Thái Nguyên,
Vinh…Trong giai đoạn này KTQD phát triển mạnh mẽ trong các ngành điện lực,
cơ khí, hố chất khai thác. Đến năm 1975 lĩnh vực sản xuất công nghiệp đã có 1357
xí nghiệp quốc doanh, lĩnh vực sản xuất nơng nghiệp có 72 nơng trường quốc
doanh, tổng số cán bộ công nhân viên là 1753400 người. Lực lượng kinh tế quốc
doanh đã cùng với kinh tế tập thể đã ra 84,4% thu nhập quốc dân.
Xét trên phương diện kinh tế, vai trò của kinh tế quốc doanh trong giai đoạn
này được thể hiện không chỉ như là một công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện
chủ trương công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc theo hướng ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và chiến đấu cho cả hậu phương và
tiền tuyến mà còn như là một tấm gương phản ánh sự thành cơng của q trình xây

dựng CNXH ở nước ta. Cịn xét trên phương diện chính trị, xã hội, kinh tế quốc
doanh luôn được quan niệmk là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên phong
trong việc tăng cường và mở rộng quan hệ sản xuất mới và quan hệ sản xuất
XHCN.
3. Giai đoạn từ 1975 đến đầu những năm 80
Cùng với chủ trương tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất XHCN
và công nghiệp hố XHCN cơng cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam đã làm cho số
lượng xí nghiệp quốc doanh ở tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp đều tăng lên một cách nhanh chóng, đến năm 1980 nước ta
đã có:
+ Cơng nghiệp: 2627 xí nghiệp quốc doanh.
+ Nông nghiệp: 232 nông trường quốc doanh.
8


+ Thương nghiệp: 10915 điểm bán hàng của thương nghiệp quốc doanh.
Trong giai đoạn này kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trị quan trọng trong
cơng cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới
XHCN, cũng như trong công cuộc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, xét trên giác độ
kinh tế, sức đóng góp của kinh tế quốc doanh đã giảm so với trước. Đến năm 1980
công nghiệp quốc doanh chỉ tạo ra được 68,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp,
thương nghiệp quốc doanh chiếm 29,8% tổng mức bán lẻ.
4. Giai đoạn từ 1980 -1985
Trong những năm 1980-1985 mặc dù nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó
khăn so với trước, năng lực sản xuất của kinh tế quốc doanh nói riêng và sức sản
xuất xã hội nói chung không được sử dụng hết do thiếu vật tư một cách nghiêm
trọng song xuất phát từ quan niệm truyền thống về quan hệ sản xuất XHCN nên các
giải pháp tháo gỡ trong giai đoạn này vẫn tập trung chủ yêu vào cải tiến quản lý đối
với xí nghiệp quốc doanh. ở giai đoạn này cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý
đã được cải tiến dần trên nguyên tắc phi tập trung hoá trong quản lý kinh tế, song

kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò tuyệt đối đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, các xí nghiệp quốc doanh nắm tồn bộ các nghành then chốt như : điện,
luyện kim, khai thác, xi măng, gang thép, hố chất cơ bản…Tuy nhiên đóng góp
của các xí nghiệp quốc doanh vào tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đã
giảm, tính đến năm 1985 kinh tế quốc doanh chỉ tạo ra được 37% tổng sản phẩm xã
hội và 28% thu nhập quốc dân.
5. Giai đoạn từ 1985 - 1990
Giai đoạn bắt đầu thực hiện đổi mới kinh tế, tư tưởng xây dựng một nền kinh
tế nhiều thành phần được đưa ra. Trong quá trình hình thành kinh tế nhiều thành
phần cơng tác quản lý kinh tế quốc doanh vẫn tiệp tục được cải tiến theo hướng phi
tập trung hoá, kế hoạch hoá và quản lý đối với kinh tế quốc doanh. Điểm nổi bật
trong cải tiến quản lý ở giai đoạn này là việc tách bạch giữa quyền quản lý nhà
nước về kinh tế và quyền quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh
9


đó, quan điểm mới nổi bật ở giai đoạn này là quan niệm không phải nền kinh tế quá
độ nên CNXH ở nước ta chỉ có kinh tế quốc doanh, chủ trương của đảng và nhà
nước ta khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi cải tiến quản lý đối với kinh tế quốc doanh
mà còn phát huy sức sản xuất của kinh tế tư nhân, cá thể cũng như các thành phần
kinh tế khác. Trong cơ chế kinh tế mới đó kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trị chủ
đạo nhưng không phải độc tôn. Năm 1990, kinh tế quốc doanh tạo ra 66% tổng sản
phẩm xã hội.
6. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Chúng ta khẳng định chủ trương lâu dài là xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chủ trương
này được biến thành thực tế bởi q trình ban hành và hồn thiện hệ thống luật
pháp, đặc biệt là pháp luật về kinh tế, nhằm tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi bình
đẳng cho các doanh nghiệp. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là doanh nghiệp
nhà nước chỉ là một bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất.

Đến năm 1996, Trong cơng nghiệp cịn 6032 DNNN số doanh nghiệp này
tạo ra 41% GDP (doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo ra 59%). Trong cơ chế kinh
tế mới DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo và chủ lực: Trên giác độ kinh tế, DNNN nắm
giữ toàn bộ những ngành trọng yếu như điện, than sạch, thép cán, xi măng, dầu thô,
giấy…
Như vậy, lịch sử phát triển của KTNN từ sau cách mạng tháng tám đến nay
đã hình thành một hệ thống DNNN trên khắp đất nước. Hệ thống các doanh nghiệp
nhà nước này nhiều về số lượng, nắm giữ các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế
quốc dân, sử dụng lực lượng lao động kỹ thuật có trình độ cao, lực lượng DNNN đã
đóng vai trị rất quan trọng, mở đường và hướng dẫn đối với việc phát triển nền
kinh tế nước ta trước đây và ngày nay. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, hệ
thống DNNN vẫn đóng vài trị chủ đạo đối với sự phát triển của tồn bộ nền kinh tế
quốc dân.

10


III. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
1. Tính tất yếu của vai trị chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại đồng thời nhiều thành phần
kinh tế những nền kinh tế nhiều thành phần ở những nước có chế độ chính trị khác
nhau lại mang những đặc điểm khác nhau rất căn bản. Nếu như trong nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa thành phần kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị
thì trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ở nước ta thì thành phần
KTNN giữ vai trị chủ đạo và KTNN cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và
phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho sự đi lên và phát triển của
xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sở dĩ thành phần
KTNN giữ vai trị chủ đạo bởi vì những lý do chính sau:

Thứ nhất, chúng ta đều biết “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế ”.
Nền chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu
dưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn minh”. Thành phần KTNN của nước ta mà trước hết là các doanh nghiệp
Nhà nước cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ này.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta do hạn chế của trình độ lực
lượng sản xuất phát triển còn thấp, các quan hệ sở hữu cịn tồn tại dưới nhiều hình
thức, do đó nền kinh tế nước ta ở giai đoạn này là một nền kinh tế hỗn hợp nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy vây, cơ chế thị trường không phải
là hiện thân của sự hoàn hảo. Bên cạnh những ưu điểm to lớn của nó mà khơng ai
có thể phủ nhận thì nó cũng tồn tại những khuyết tật như: gây ra sự phân hoá giàu
nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, các tệ nạn xã hội vv… điều đó địi hỏi cơ
chế thị trường phải có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nước. Và công cụ hữu hiệu
nhất mà thơng qua nó nhà nước thể hiện vai trị điều tiết của mình đó là thành phân
KTNN. Chỉ có KTNN mới có thể bảo đảm vững chắc định hướng XHCN, đảm bảo
11


cho lợi ích của người lao động, khắc phục những tiêu cực, khuyết tật và hạn chế
của cơ chế thị trường, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng là động
lực thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đời sống nhân
dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trị đó của KTNN đã được chứng minh
qua thưc tiễn phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở nước ta sau đổi mới đến nay:
Đầu những năm 1990 mặc dù gặp phải hồn cảnh hết sức khó khăn, khắc
nghiệt như: thể chế xã hội ở Liên Xô và các nước Đơng Âu sụp đổ. Mĩ thực hiện
chính sách bao vây, cấm vận, khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực 1997 – 1998
tác động mạnh, thiên tai liên tiếp xảy ra việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung
bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi
mới nhưng bao hàm cả những khó khăn thách thức. Song chúng ta vẫn đạt được
những thành tựu to lớn và rất quan trọng GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990,

tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, đời sống của các tầng lớp nhân dân được
cải thiện, quốc phòng an ninh được tăng cường, sức mạnh về mọi mặt của nước ta
đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước. Kết quả trên có được là do sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng, trong đó KTNN góp phần rất to lớn. Năm 2000 DNNN làm ra
39,5% GDP và đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách, chiếm 50% kim ngạch xuất
khẩu DNNN là đối tác chủ yếu trong hợp tác đầu tư nước ngoài, chiếm 98% số dự
án liên doanh với nước ngồi. DNNN có năng lực sản xuất kinh doanh lớn, cơ cấu
ngày càng hoàn thiện và từng bước mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Các
tổng cơng ty có quy mơ lớn tuy chỉ chiếm 24,8% tổng số DNNN nhưng nắm giữ
65% tổng số vốn và 61% số lao động, trình độ cơng nghệ quả lý có nhiều tiến bộ.
Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN được nâng lên, góp phần chủ yếu
để KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo, đảm bảo ổn định chính trị – xã hội. Đây
cũng là lực lượng quan trọng thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả
thiên tai và đảm bảo sản xuất dịch vụ thiết yếu cho an ninh quốc phịng. Có thể
khẳng định KTNN nói chung và các DNNN nói riêng đã góp phần quan trọng vào
thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng
12


kinh tế – xã hội. Đứng vững trước những tác động của khủng hoảng kinh tế quốc
tế, khu vực. Tạo tiền đề cho thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo
định hướng XHCN.
Thứ hai là KTNN ln nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền
kinh tế quốc dân do đó chỉ có KTNN mới có khả năng chi phối, dẫn dắt các thành
phần kinh tế khác, đảm bảo được các mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện CNHHĐH trong điều kiện thị trường vẫn chưa hồn thiện, người dân có thu nhập thấp,
tích luỹ không đủ tạo nguồn đầu tư cơ bản, kinh tế tư nhân cịn nhỏ bé thì DNNN
có vai trị huy động vốn đầu tư xây dựng những cơng trình lớn, hiện đại. Mặt khác
với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế địi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng
tốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhưng thường
thì những ngành này địi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm

hoặc có lãi suất thấp như các ngành: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, năng lượng
vv…Để thực hiện được điều đó địi hỏi Nhà nước phải đầu tư trực tiếp vào các lĩnh
vực này nhằm củng cố thêm nội lực cho thành phần KTNN để đạt được các mục
đích: dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, đảm bảo cho nền kinh
tế phát triển một cách toàn diện, vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế, ngăn ngừa
những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ngoài ra DNNN là lực lượng vật chất chủ lực
để nhà nước can thiệp, bình ổn thị trường, hạn chế ảnh hưởng xấu của ngành nghề
độc quyền tự nhiên có tác hại lớn cho nền kinh tế.
Thứ ba, trong xu thế tồn cầu hố hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ có DNNN là
những đơn vị tổ chức kinh tế lớn của quốc gia là có đủ khả năng hợp tác liên doanh
với các công ty lớn quốc tế đồng thời làm đối trọng với họ trên thị trường trong
nước và vươn ra thị trường quốc tế, góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ của đất nước.
Không chỉ riêng Việt Nam mà Trung Quốc cũng là nước chủ trương xây
dựng CNXH thông qua phát triển nền kinh tế thị trường mà KTNN giữ vai trò chủ
đạo, với tỉ trọng trên70% của chế độ cơng hữu trong tồn bộ nền kinh tế song
13


Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới, đạt khoảng
trên dưới 10% liên tục trong nhiều năm và đang có dự báo cho rằng trong tương lai
không xa Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế số một thế giới, lớn hơn cả Mỹ về
giá trị tuyệt đối. Ngay chính ở các nước tư bản, DNNN cũng cịn có vai trị khơng
nhỏ. Theo đánh giá của UNDP, DNNN trong các nước tư bản phát triển vẫn còn
chiếm khoảng 10%.
Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai trị chủ đạo và sự tồn
tại của KTNN là một tất yếu khách quan và chỉ có phát huy vai trị chủ đạo của
KTNN thì chúng ta mới có một nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì KTNN nắm giữ
phần lớn tài sản của nền kinh tế cho nên tạo ra khối lượng hàng hố dịch vụ cơng
cộng lớn chi phối giá cả thị trường, dẫn đát giá cả thị trường bằng chính chất lượng,

giá cả của sản phẩn dịch vụ do mình cung cấp. Thơng qua đó Nhà nước có thể kiểm
sốt được thị trường, xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành một nền kinh tế vững
mạnh tồn diện ln chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và có sức cạnh
tranh cao trên thị trường quốc tế.
2. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
Như chúng ta đã biết vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN là một tất yếu khách quan và trong thời kỳ quá độ hiên nay vai
trò ấy lại được thể hiên sâu sắc và cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội Đảng VIII đã
khẳng định KTNN có 4 vai trị:
- Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã
hội.
- Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
- Là lực lượng vật chất để thực hiện chức năng quản lý điều tiết vĩ mô.
- Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi rộng khắp ở các lĩnh vực kinh tế
trong nền kinh tế đất nước. Tính chất chủ đạo của KTNN thể hiện qua các nội dung
chính sau đây:
14


Nội dung thứ nhất cũng là nội dung quan trọng nhất của KTNN đó là
KTNN thực hiện chức năng điều tiết hệ thống kinh tế xã hội thông qua các cơng cụ
xã hội khác nhau trong đó DNNN là cơng cụ thiết yếu.
Ở nước ta các DNNN được hình thành ở các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh
được coi là không hấp dẫn bởi khả năng sinh lời thấp. Chẳng hạn là khu vực sản
xuất sản phẩm công cộng. Thực hiện chức năng điều tiết của DNNN theo hướng
này tạo ra tính cân đối giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Với tư cách là
công cụ điều tiết, việc hình thành và tồn tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất
kinh doanh nào đó khơng cố định, luôn được nhà nước thực hiện theo phương
châm: ở đâu, khi nào nền kinh tế kinh quốc dân dang cần mở rộng sản xuất kinh

doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc khơng đủ
sức kinh doanh hoặc chối từ thì ở đó và khi đó cần có sự có mặt của DNNN. Đến
một lúc nào đó khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng nhu cầu thị
trường, DNNN có thể rút khỏi thị trường đó nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân
doanh, q trình đó diễn ra một cách liên tục, lặp đi lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền
kinh tế hình thành vai trị điều tiết của DNNN.
Chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc điều tiết kinh tế trong
phạm vi từng vùng. Ở từng vùng cũng diễn ra hiện tượng các doanh nghiệp dân
doanh chỉ đổ xô vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh lợi nhuận nên dẫn đến những
mất cân đối trong sản xuất kinh doanh của từng vùng. Chính DNNN cũng phải xuất
hiện ở các ngành mà những vùng kinh tế của đất nước đang đòi hỏi nhằm điều tiết
cung cầu ở các vùng đó. Chức năng điều tiết vùng của DNNN đặc biệt quan trọng
đối với các vùng xa, vùng sâu và vùng nông thôn.
Nội dung thứ hai. Do KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế nên
tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối được giá cả thị trường,
dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ
do mình cung cấp đồng thời tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúcđẩy
các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển.
15


Nội dung thứ ba. KTNN kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị
trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các cơng
cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng là các cơng cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý
kinh tế vĩ mô.
Như vậy, thành phần KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở chỗ: chi phối các
thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của
mình (dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN) tạo
cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt và
trọng yếu của xã hội, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn liền với cơng

bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của tồn xã
hội. Do đó xác định nội dung chủ đạo của khu vực KTNN theo các tính chất nêu
trên sẽ giúp chúng ta trong việc định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh
tế hiện có, định hướng cho hoạt động đầu tư của Ngân Hàng Nhà Nước và thiết lập
các định chế yểm trợ phát triển chung
IV. Thực trạng của kinh tế Nhà nước hiện nay
1. Quy mô và tổ chức của các doanh nghiệp Nhà nước
Chỉ tính trong 10 năm từ 1990 – 2000. Chúng ta đã 3 lần thực hiện việc cải
cách đổi mới DNNN. Lần thứ nhất thực hiện vào những năm từ 1990 – 1993 với
mục đích tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. Lần
thứ hai từ năm 1994 – 1997, chúng ta đã thành lập 18 Tổng công ty 91 và 77 Tổng
công ty 90. Lần thứ ba chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN và ngay sau đó
là việc giao bán, khốn và cho thuê các DNNN.
Sau 3 lần cải cách đổi mới DNNN thì năm 2000 so với năm 1990 quy mô
của các doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 12300 doanh nghiệp xuống cịn 5280,
những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới 76,1%.

Tuy có sự

giảm sút về quy mô nhưng các DNNN vẫn đạt được mức tăng trưởng mạnh. Trong
5 năm từ 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bình qn của DNNN đạt 11,7%. tỉ lệ đóng
góp vào tổng sản phẩm quốc dân GDP đạt 40,3%. Đồng thời quá trình tổ chức sắp
16


xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã mở rộng quy mô vốn của các doanh nghiệp, giảm
được sự tài trợ đáng kể của ngân sách nhà nước, một số ngành mới đã và đang áp
dụng công nghệ cao thực sự mang lại hiệu quả đáng kể như: dầu khí, năng lượng,
bưu chính viễn thơng vv… Trong đó quyền chủ động của các sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp được phát huy.

Tuy vậy cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn tồn tại
nhiều bất cập, hạn chế như việc doanh nghiệp hoạt động chông chéo về ngành nghề
kinh doanh, cấp quản lý. Còn các doanh nghiệp cùng thuộc một ngành thì phân bố
rất phân tán, manh mún thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Ví dụ như ở địa
bàn Hà Nội các ngành sản xuất thiết bị có 35 đơn vị, trong đó có 27 doanh nghiệp
do Trung ương quản lý nhưng lại được tập trung vào 7 đầu mối quản lý khác nhau.
Bộ Công nghiệp có 8 doanh nghiệp, Bộ Nơng nghiệp và phát triển nơng thơn có 8
doanh nghiệp và Bộ Xây dựng có 7 doanh nghiệp.
2. Kỹ thuật và cơng nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước
Kể từ khi chúng ta chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp (mơ hình kinh tế chỉ huy hướng nội) sang cơ chế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng
những bài học thành cơng về cơng nghiệp hoá - hiện đại hoá của các nước trên thế
giới để chuyển sang mơ hình kinh tế hướng ngoại. Điều này đã tạo cho KTNN nói
riêng và tổng thể nền kinh tế nước ta có nhiều thuận lợi trong vấn đề chuyển giao
cơng nghệ. Song nhìn chung hiện nay trình độ khoa học cơng nghệ nước ta cịn lạc
hậu, thấp kém. So với các nước láng giềng chúng ta còn kém xa, chúng ta chậm 10
năm so với Trung Quốc, chậm từ 20-30 năm so với Đài Loan ở thời điểm bắt đầu
cơng nghiệp hóa.
Đồng thời với q trình tiếp nhận và chuyển giao cơng nghệ KTNN ở nước
ta cịn đang xây dựng cho mình chiến lược phát triển mang tính tổng thể, lâu dài
bao gồm cả nghiên cứu, ứng dụng và thử nghiệm.v.v. Điều này đã và đang đem lại
những hiệu quả to lớn và thiết thực. Hiện nay đã có nhiều ngành thuộc thành phần
17


KTNN tạo ra những loại sản phẩm khơng chỉ có sức cạnh tranh mạnh ở thị trường
nội địa mà còn có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế như : dệt may, chế
biến thuỷ hải sản…Ngoài ra KTNN cũng đang hướng sự phát triển vào những
nghành, lĩnh vực có trình độ khoa học kỹ thuật cơng nghệ hiện đại như: tin học,

sinh học, vật liệu mới, tự động hố. Điều này địi hỏi nhà nước phải có những sách
lược đúng đắn khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu
và đổi mới công nghệ. Đó là yếu tố vật chất quan trọng tạo đà cho các doanh
nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt đi đầu về ứng dụng khoa học và công
nghệ, nêu gương về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế.
Mặc dù vậy việc phát triển khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay cịn tồn
tại rất nhiều hạn chế, do đó khi thực hiện hợp tác, chuyển giao cơng nghệ với nước
ngồi cần tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ mới nhất, tiên tiến
nhất tránh không để cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghê “ của các nước
phát triển. Để thực hiện được điều đó thì các DNNN phải đầu tư cho việc đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực tránh việc chảy máu chất xám bởi trong thời gian qua,
cùng với sự phát triển mạnh của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi đã xuất hiện xu thế bỏ doanh nghiệp nhà nước để ra làm ngoài
với đồng lương cao hơn trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước rất cần những
người có khả năng trình độ để nghiên cứu, thử nghiêm, ứng dụng…các loại công
nghệ mới.
3. Tổ chức quản lý của các doanh nghiệp nhà nước
Những cải tổ cơ chế quản lý nhà nước từ năm 1981 đến này có thể coi là một
bước cách mạng trong mơ hình tổ chức kinh tế xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã
cơ bản chuyển được các DNNN từ chỗ là một phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế
quốc doanh sang vai trị một phát nhân có quyền tổ chức và kinh doanh hàng hoá
độc lập. Tuy nhiên cơ chế quản lý mới còn vướng ở một số điểm như cơ chế thực
khi sở hữu nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ
chủ quản hành chính trước kia ( như duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ
18


chốt, kiểm tra chức năng của cơ quan chủ quản…) đồng thời lại buộc phải thừa
nhận quyền tự chủ quá rộng rãi của doanh nghiệp, do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa
làm vừa lo, còn cơ quan quản lý nhà nước vẫn thích can thiệp trực tiếp q nhiều

vào cơng việc của doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm
Điển hình cho tình trạng này là vụ việc của cơng ty Dệt Nam Định. Một phần
hoạt động sai nguyên tắc tài chính của Dệt Nam Định là đầu tư vào 26 dự án không
hiệu quả song cả 26 dự án này đều được Bộ Công Nghiệp ký duyệt, các cơ quan
quản lý nhà nước kiểm tra thanh tra vừa phân tán vừa chồng chéo ( do các văn bản
pháp quy cũ mâu thuẫn với nhau song không được sàng lọc ) Nhưng đồng thời lại
khơng có một cơ quan nhà nước nào chịu trách nhiệm cho sự mất mát tài sản của
nhà nước. Cuối cùng phó mặc cho doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn. Song chúng
ta quên rằng trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp, dù là DNNN đi chăng
nữa đều đại diện cho một lợi ích độc lập, đó là lợi ích doanh nghiệp. Nếu nhà nước
khơng quản lý tốt ( mà điều này khó làm được nếu khơng có những tiêu chuẩn tốt
về kế tốn, thống kê, kiểm tốn ) thì doanh nghiệp sẵn sàng biến lợi nhuận thành
chi phí hợp pháp dưới dạng lương thưởng cho cán bộ và cơng nhân. Ngồi ra cịn
có những khó khăn trong việc phân định thua lỗ do rủi ro hay do sự thiếu trách
nhiệm của những người có liên quan chính vì thế có thể thấy tình trạng tài chính
khơng rõ ràng và cực kỳ bê bối của DNNN hiện nay thể hiện qua nợ khó địi trở
thành phổ biến, doanh nghiệp khơng thể phá sản vì chủ nợ khơng đệ đơn… Là hậu
quả của chính tình trạng thể chế hố sở hữu nhà nước chưa tìm được hình thức hợp
lý.
4. Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước
Vấn đề hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt quan trọng vì đã
là doanh nghiệp kinh doanh đương nhiên phải có hiệu quả thì mới tồn tại phát triển.
Thực tế các DNNN của chúng ta bên cạnh những thành tựu to lớn đã và đang bộc
lộ những yếu kém khá nghiêm trọng:

19


Quy mơ các DNNN cịn nhỏ (vốn bình qn chỉ là 12 tỉ đồng) Cơ cấu có
nhiều bất hợp lý, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu

trách nhiệm trong kinh doanh. Kết quả khảo sát 10 ngành cho thấy ngoài một số
doanh nghiệp có trình độ cơng nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu
vực, số cịn lại lạc hậu so với thế giới từ 10 đền 20 năm, thậm chí 30 năm. Đến
tháng 5-2001 mới chỉ có 4,1% tổng số doanh nghiệp nhà nước đạt tiêu chuẩn chất
lượng quốc tế. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước cũng
chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước: trong 4
năm (1997 - 2000) ngân sách nhà nước đã đầu tư thêm cho DNNN gần 8200 tỉ
đồng, giãn nợ 540 tỉ đồng, giảm tính khấu hao 200 tỉ đồng và cho vay ưu đãi đầu tư
9000 tỉ đồng. Đến năm 2000 số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả mới chỉ
là 40% bị lỗ liên tục chiếm tới 29%. Tình hình đúng như vậy nhưng từ đó để đi đến
khẳng định chỉ có các doanh nghiệp tư nhân mới có lãi và DNNN chỉ có thua lỗ,
kém hiệu quả là hồn tồn khơng đúng. Nhận định này thiếu cả cơ sở lý luận và
thực tiễn, coi một số hiện tượng trùng với bản chất, bởi nếu đi sâu nghiên cứu
chúng ta cũng dễ thấy không chỉ DNNN mới thua lỗ mà cũng có nhiều doanh
nghiệp tư nhân cũng thua lỗ. Khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực với những hậu
quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội có thể coi là khủng hoảng của kinh tế tư
nhân.
Thực tế ở thành phố Hải Phòng ( cũng như ở nhiều địa phương khác ) cho
thấy, tỉ lệ nợ quá hạn của các khoản vay tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp tư
nhân vào khoảng 36% tính đến tháng 6-2001 cao gấp đơi so với DNNN trong đó
phần lớn là nợ khó có khả năng thanh tốn. Trong tổng số các DNNN có đến 70%
là hoạt động có lãi và khi lãi khi lỗ. Số DNNN thua lỗ tuy còn nhiều nhưng chỉ là
thiểu số. Ở Trung Quốc có 500 doanh nghiệp hàng đầu là các DNNN lớn sản xuất
kinh doanh có hiệu quả làm đầu tầu thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển. ở nhiều
nước khác cũng đều có DNNN hoạt động có hiệu quả và doanh nghiệp tư nhân bị
thua lỗ phải phá sản.
20


Như vậy thua lỗ, hiệu quả thấp là đồng hành của cả DNNN và doanh nghiệp

tư nhân. Có nhiều nguyên nhân không liên quan đến sở hữu doanh nghiệp trong đó
có nguyên nhân rất cơ bản là điều kiện sản xuất kinh doanh của nước ta cịn gặp
nhiều khó khăn, biến động rủi ro lớn các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế yếu kém,
nhất là trình độ quản lý, kinh nghiệm thương trường.
5. Những cơ hội và thách thức mới đối với doanh nghiệp nhà nước trong
thời gian tới
Trong tương lai không xa DNNN phải đối mặt với hai sức ép cạnh tranh lớn,
sức ép cạnh tranh thứ nhất là cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế khác và chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài, các tập đoàn kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế siêu quốc gia sau khi chúng
ta hồn thành tiến trình ra nhập vào AFTA hay sau khi hiệp định tự do thương mại
Việt-Mỹ có hiệu lực thi hành.
Về các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác: ở nước ta sau khi có
luật doanh nghiệp ra đời chỉ trong một thời gian ngắn, các doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phát triển một cách
rầm rộ người ta ví như hình ảnh “ nấm mọc sau cơn mưa” cả nước có khoảng
23000 doanh nghiệp loại này đầu tư một khoản vốn khoảng 25000 tỉ đồng vào q
trình sản xuất và lưu thơng hàng hố. Ngồi một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh
thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước, còn lại các ngành sản xuất khơng địi hỏi vốn
đầu tư lớn thì tư nhân đang lấn dần thị phần của DNNN. Một khu vực khác cũng là
một đối thủ cạnh tranh đáng kể với DNNN là các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế có vốn đầu tư của nước ngồi, các doanh nghiệp này có ưu thế hơn các
DNNN về vốn, công nghệ hiện đang được nhà nước ta khuyến khích và ưu đãi,
đang len lỏi vào một số các lĩnh vực kinh tế lớn của nước ta như: dầu khí, chế biến
thuỷ hải sản, xây dựng cơng nghiệp, sản xuất hố chất, xi măng…đáng chú ý hơn
cả là năm 2000 tốc độ tăng trưởng của DNNN chỉ có 11% thì doanh nghiệp tư bản
tư nhân tăng 14% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tăng trên 20%, do đó
21



trong thời gian tới nếu nước ta khơng có biện pháp để củng cố sức mạnh của
DNNN thì DNNN sẽ bị lấn át ngay trên thị trường sân nhà.
Khi chúng ta hồn thành tiến trình ra nhập AFTA và thực hiện hiệp định
thương mại Việt-Mỹ thì sức cạnh tranh sẽ cụ thể hoá bằng cạnh tranh hàng hoá, hay
yếu tố quan trọng nhất là chất lượng hàng hoá và giá cả hảng hố. Hiện tại ngồi
một số mặt hàng như hoá mỹ phẩm, đồ nhựa, than, một số hoá chất cơ bản…Giá
của ta rẻ hơn của nước ngồi, cịn lại một số mặt hàng như giấy, phân bón, xi măng,
hàng điện tử, hàng cơ khí…Thì hàng của ta đều cao hơn hàng nước ngoài từ 2040%
Hai cuộc cạnh tranh trên đây chính là vấn đề cấp bách và nghiêm trọng đối
với các DNNN. Trong thời gian tới nước ta cần phải đẩy mạn việc cải tổ, xây dựng,
sắp xếp…để KTNN giữ được vai trò chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
V. Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước Việc cải
cách đổi mới thành phần KTNN nói chung và các DNNN nói riêng trong giai đoạn
hiện nay là cực kỳ cần thiết và cấp bách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
đất nước. Để tổ quốc vững bước trên con đường CNH - HĐH, tại hội nghị lần thứ 3
ban chấp hành Trung ương Đảng khố IX đã thơng qua nghị quyết về việc tiếp tục
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN. Trên cơ sở đó, nhằn
tăng cường vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân, việc định hướng
sắp xếp phát triển DNNN trong thời gian tới bao gồm những giải pháp lớn sau:
1. Về định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động
kinh doanh và hoạt động cơng ích
4.1.1. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phống
xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia, sản xuất thuốc
lá điếu.
22



Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với DNNN hoạt động
kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu,
sản xuất điện, khai thác các khoán sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm cơ
khí, điện tử, cơng nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hoá
chất cơ bản, phân hoá học, thuốc bản vệ thực vật, sản xuất xi măng công nghiệp
xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghệ thực phầm quan trọng, sản
xuất hoá dược thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không, đường sắt, viễn dương, khinh
doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thơng cơ bản; chủ yếu là các
doanh nghiệp có quy mơ lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu trong việc ứng
dụng công nghệ mũi nhọn công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ
mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào nông
thôn, đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết:
Chuyển các doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% sang hình thức cơng ty
TNHH một chủ sở hữu là nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các
DNNN.
Căn cứ trên đây, chính phủ chỉ đạo rà sốt, phê duyệt phân loại cụ thể các
DNNN hiện có để chiển khai thực hiện và từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định
hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng thực hiện sắp xếp như đối với
DNNN. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị xã hội đăng ký hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp.
Việc thành lập mới DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu hoạt động dưới
hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền hoặc các thành
phần kinh tế khác khơng muốn hay khơng có khả năng tham gia.

23



4.1.2. Đối với doanh nghiệp hoạt động cơng ích
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp cơng ích hoạt động trong
các lĩnh vực: in bạc và chứng chỉ có giá, điều hành bay, đảm bảo hàng hải, kiểm
sốt và phân phối tần số vô tuyến điện, sản xuất sửa chữa vũ khí, khí tài, trang thiết
bị chuyên dùng cho quốc phồng, an ninh, doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm
vụ quốc phồng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng
kết hợp kinh tế quốc phồng theo quyết định của chính phủ. Các doanh nghiệp của
quân đội và công an được sắp xếp và phát triển theo định hướng này.
Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp
cơng ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật phương tiện giao
thông cơ giới lớn, xuất bản sách giáo khoa, sách báo cáo chính trị, phim thời sự và
tài liệu, quản lý bảo chì hệ thống quốc gia, sân bay, quản lý thuỷ nông đầu nguồn,
trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn thốt nước ở đơ thị lớn, ánh sáng đường phố, quản
lý bảo chì hệ thống đường bộ, bến xe đường thuỷ quan trọng; sản xuất sản phẩm và
cung ứng dịch vụ khác theo quy định của chính phủ.
Trong từng thời kỳ chính phủ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại
doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đối với các doanh
nghiệp hoạt động cơng ích hiện có, chính phủ căn cứ vào định hướng trên đây chỉ
đạo rà soát và phê duy phân loại cụ thể để chuyển khai thực hiên. Những doanh
nghiệp cơng ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẽ được sắp xếp lại.
Việc thành lập mới do DNNN hoạt động cơng ích phải được xem xét chặc chẽ
đúng định hướng có yêu cầu và có đủ điều kiện cần thiết. Khuyến khích nhân dân
và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩn dịch vụ
cơng ích mà xã hội cần và pháp luật không cần.
2. Về việc sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách
4.2.1. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
24



Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu theo cơ
chế thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp
đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối các ngành vùng, các sản
phẩm dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích sản xuất khơng phân biệt thành phần
kinh tế. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp
luật chung. Đối vớ DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định
kiểm sốt giá và điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng cạnh tranh
bình đẳng.
Nhà nước ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả và cơ chế giám sát DNNN.
Đổi mới chế độ kế toán kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công
khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp
- Về vốn: Doanh nghiệp(DN) được tiếp cân và thu hút các nguồn vốn trên thị
trường để phát triển kinh doanh; được chủ động xử lý các tài sản dư thừa, hàng hoá
ứ đọng.
Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001- 2005 cơ bản tạo dủ vốn điều lệ
cho doanh nghiệp. Không thu thuế sử dụng vốn ngân sách, chuyển hình thức cấp
vốn sang đầu tư vốn. Thí điểm lập cơng ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện
đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại DN. Nghiên cứu ban hành luật sử dụng vốn nhà
nước vào đầu tư và kinh doanh.
DN được tự chủ trong việc phân phối và trích lập các quỹ từ lợi nhuận để lại
theo khung quy định chung. Nhà nước có chính sách đối với những tài sản do DN
đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận do
chính tài sản dó làm ra theo hướng thực hiện hài hồ các lợi ích, phù hợp với đặc
điểm của từng ngành nghề, từng lĩnh vực cụ thể khuyến khích DN tiếp tục tái đầu
tư phát triển
- Về đầu tư: Tăng thêm quyền và trách nhiệm của DNNN trong quyết định
đầu tư trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt.
25



×