Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Xuất khẩu lao động Việt Nam đến Malaysia cùng những phân tích trong lợi thế cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.27 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề giải quyết việc làm cho lao động chưa được tuyển dụng luôn là
một nỗi đau đầu với các nhà kinh tế học cũng như của Đảng và nhà nước
ta. Những lao động chưa có việc làm vừa không có được tiền để trang trải
cuộc sống vừa làm gánh nặng cho xã hội. Vì thế đối với một nước hơn 82
triệu dân, với trên một nửa là số người trong độ tuổi lao động, nhưng số
người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử
dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì xuất khẩu lao động là một kênh
giải quyết việc làm cho lao động rất có ý nghĩa. Xuất khẩu lao động cũng
là một kênh đem lại một nguồn thu nhập quan trọng cho đất nước.
Nhưng ngoài những thuận lợi trước mắt như giải quyết việc làm cho các
lao động chưa được tuyển dụng và cung cấp một lượng ngoại tệ lớn cho
đất nước thì đằng sau vẻ hào nhoáng của xuất khẩu lao động vẫn còn
nhiều mảng tối. Xoay quanh vấn đề xuất khẩu lao động, cùng những
thuận lợi, khó khăn thì chúng ta sẽ hiểu thêm về các lợi thế cạnh tranh
của nước ta trong quá trình đưa lao động Việt đến thị trường tuyển dụng
nhân lực trên thế giới.
Do đó nhóm chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra một đề tài nghiên cứu mang
tính chất nóng trong thời gian gần đây:
“ Xuất khẩu lao động Việt Nam đến Malaysia cùng những phân tích
trong lợi thế cạnh tranh “
I. Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam trong những năm qua
1. Thực trạng nguồn lao động ở Việt Nam
-Cơ cấu dân số theo độ tuổi ở nước ta hiện nay đang thay đổi rất
nhanh. Thí dụ, năm 1979, số trẻ em dưới 15 tuổi chiếm 42% dân số; từ 15
đến 60 tuổi chiếm 51%; trên 60 tuổi chiếm 7%. Đến năm 2008, con số
tương ứng là 26% - 64% và 10%. Những người cao tuổi là những người ở
độ tuổi từ 60 tuổi trở lên. Trình độ phát triển càng cao thì dân số ở tuổi
già càng lớn, tỷ lệ trẻ em giảm. Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động tăng,
tỷ lệ người ngoài độ tuổi lao động giảm. Trong Dân số học, người ta
thường tính tỷ số phụ thuộc, tức là tính xem, cứ 100 người trong độ tuổi


lao động tương ứng có bao nhiêu người ngoài độ tuổi lao động. Ở nước
ta, năm 1979, tỷ số này là xấp xỉ 100; năm 2008, con số này là 66 (cứ 100
người trong tuổi lao động thì có 66 người ngoài độ tuổi lao động). Tỷ số
này cho thấy, nước ta đang tiến đến “cơ cấu dân số vàng”.
- Ước tính vào năm 2010, nước ta có đến 56,82 triệu người trong độ
tuổi lao động. Lực lượng này ước tính chiếm 64,4% dân số và là thành
phần chính của nguồn nhân lực. Trong khi đó, tổng cầu lao động dự kiến
chỉ khoảng hơn 49 triệu lao động, còn lượng cầu về lao động làm công ăn
lương được ước tính xấp xỉ 20 triệu người vào năm 2010. Như vậy, nhu
cầu tuyển dụng chỉ chiếm gần 1/3 so với dân số trong độ tuổi lao động.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ đạt khoảng 40% vào năm 2010, tức đã
có gia tăng đáng kể so với năm 2005 là 25,5%. Điều này có ý nghĩa là rất
nhiều người vì không có trình độ nên sẽ làm việc với hiệu quả thấp…
- Năng suất của người lao động Việt Nam thấp hơn các nước trong
khu vực rất nhiều. Năng suất lao động xã hội (tính bằng GDP theo giá
thực tế chia cho một lao động làm việc) năm 2006 của nước ta là 1.407
USD/người, còn thua xa so với năng suất lao động năm 2005 của nhiều
nước khác. Cụ thể, nó chỉ bằng 49% so với Trung Quốc, 52% so với Thái
Lan…
- Thị trường lao động VN đang phải đối mặt với nhiều bất cập. Về mặt
số lượng, các nhà đầu tư có quá nhiều lựa chọn đối với công nhân hay
nhân viên văn phòng, nhưng chất lượng của họ không phải lúc nào cũng
đáp ứng. Đặc biệt, nhân sự cao cấp, các chuyên gia có kinh nghiệm và
khả năng quản lý đang ở trong tình trạng cung thấp xa so với cầu. Lĩnh
vực thiếu hụt nhân sự nghiêm trọng nhất là công nghệ thông tin, tài chính,
kiểm toán, luật cũng như các chuyên gia thực thụ trong hầu hết các ngành
công nghiệp. Ngoài ra, nhiều người lao động chưa có trình độ ngoại ngữ
đủ để làm việc.
Từ những nhận xét trên ta có thể rút ra được những ưu điểm và nhược
điểm của nguồn lao động như sau

 Ưu điểm
- Lao động giá rẻ.
- Cần cù, chịu khó và ham học hỏi.
- Năng lực tiếp thu công nghệ mới rất tốt.
 Nhược điểm :
- kỹ năng thấp;
- mất cân đối về cơ cấu lao động theo trình độ, kỹ năng;
- lao động chất xám thiếu và yếu về chất lượng;
- thể lực kém;
- tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động thấp.
2. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam

Thị trường
Số lượng (người)
2006 2007 2008 8 Tháng đầu
năm 2009
Đài Loan 14.120 23.640 33.000 13.202
Hàn Quốc 10.577 12.187 16.000 5.549
Nhật Bản 5.360 5.517 5.800 3.793
Malaysia 37.941 26.704 7.800 1.666
UAE
Ma cao
Qatar
Arabia Saudi
Sec
Úc
Lào
Li bi
Nga
2.130

2.132
3.051
2.349
4.685 3000
1.620 2.386
423
32
3.068
2660
1484
Các thị trường 10.887 2882 19.032 11.880
khác
Tổng số 78.885 85.020 87.000 45.634
( Số liệu tổng hợp từ nhiều nguồn )
2.1 Lợi thế của lao động xuất khẩu Việt Nam.
- Xuất khẩu lao động đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước. Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định : "Phải
đẩy mạnh xuất khẩu lao động", hoạt động xuất khẩu lao động trong
những năm gần đây đã được sự quan tâm chú ý của các ngành, các cấp và
các tầng lớp dân cư trong xã hội.Về phía chính phủ luôn luôn quan hệ với
nhiều nước để đưa lao động Việt Nam đến nhiều nước khác.
- Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng” đã có hiệu lực; hệ thống văn bản chính sách của ta đã tương
đối hoàn chỉnh, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt
động đạt hiệu quả. Thị trường lao động mới được mở ra nhiều, khả
năng khai thác các thị trường mới rõ nét hơn. Lĩnh vực dạy nghề
được chính phủ quan tâm lớn, tạo bước đột phá nâng cao chất
lượng đội ngũ lao động….
- Nguồn lao động nước ta dồi dào, theo thống kê số lượng người
trong độ tuổi lao động tính đến nay chiếm khoảng 46,6 triệu người,

mỗi năm bình quân có thêm hơn 1,5 triệu người bổ sung vào lực
lượng lao động đó.
- Khi Việt Nam gia nhập WTO đã khiến cách nhìn đối với lao động
Việt Nam của các quốc gia, nhất là các quốc gia phát triển, cũng
cởi mở hơn, than thiện hơn vào WTO xem như “cơ hội vàng” cho
xuất khẩu lao động Việt Nam
- Việt Nam biết đến như là một quốc gia giàu tài nguyên về nguồn
nhân lực, lao động Việt Nam rất cần cù, chịu khó và ham học hỏi
- Giá nhân công Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới, có sức cạnh tranh trên thị trường lao động
quốc tế.
- Các nước có thu nhập đầu người ở mức 10000 USD trở lên đều có
nhu cầu tiếp người lao động từ các quốc gia đang phát triển đặc
biệt là Việt Nam
- Theo đề án dạy nghề cho lao động xuất khẩu đến 2015 được chính
phủ phê duyệt, đến năm 2010, nâng tỉ lệ lao động xuất khẩu tối
thiểu 75% tổng số lao động đi hằng năm. Trong đó lao động có
trình độ từ trung cấp nghề trở lên chiếm tỉ lệ tối thiểu 40%. Đến
năm 2015 chủ yếu xuất khẩu lao động nghề, lao động có trình độ
chuyên môn cao kỹ thuật và chuyên gia 100% lao động có trình độ
ngoại ngữ và giáo dục định hướng
2.2 Những khó khăn
a, Tình hình khó khăn chung
- Do cạnh tranh về chất lượng lao động trên thị trường lao động quốc
tế ngày càng cao hơn về kỹ năng nghề, trình độ ngoại ngữ… Những khó
khăn của vấn đề lao động là lao động Việt Nam khi đi làm ở nước ngoài
là trình độ ngoạI ngữ. Đó là lý do khiến hàng vạn lao động Việt Nam
chưa có nhiều cơ hội vớI thị trường có thu nhập cao. Bằng cấp của Việt
Nam chưa được quốc tế công nhận. Dù lao động có bằng cấp, kỹ năng
nghề nghiệp. Nhưng vẫn là lao động đơn giản khi ra nước nngoài làm

việc .
- Bên cạnh đó, cơ hội tìm việc làm trong nước đã tăng lên, tâm lý
kén chọn thị trường, chọn nghề có thu nhập cao ở ngoài nước có xu
hướng phát triển. Việc cạnh tranh về nguồn giữa các doanh nghiệp cũng
để lại tai tiếng tạo thêm khó khăn cho việc tuyển lao động.
- Một số lao động khi ra nước ngoài làm việc đã đặt nặng mục tiêu
kiếm tiền nên đã tự ý phá vỡ hợp đồng
- NgườI dân ở nông thôn còn nghèo. Họ không có ruộng đất, không
có nghề nên họ mớI ra nước ngoài làm việc để thoát nghèo . Họ không có
tài sản để thế chấp ngân hàng. Sự hổ trợ của ngân hàng chính sách xã hội
thì rất ít. Họ phải đi vay mượn để đủ tiền đi lao động
- Người lao động cũng chưa biết nhiều thông tin, họ gặp vấn đề lớn
về liên hệ để làm hồ sơ đi lao động
- Khi làm việc ở nước ngoài điều kiện ăn ở gặp khó khăn. Sự khác
biệt về văn hoá, khí hậu nóng hoặc lạnh kéo dài
- Do trình độ thấp cộng với sự thiếu hiểu biết, một số công ty đã lừa
ngườI lao động họ đã gạt người lao động một khoảng tiền lớn
- Thủ tục khó khăn từ các nhà môi giới
b, Những khó khăn năm 2009
- Riêng năm 2009, việc xuất khẩu lao động không dễ dàng bởi cuộc
khủng hoảng kinh tế khiến nhiều hợp đồng xuất khẩu lao động từ đối
tác nước ngoài đã bị thu hẹp về số lượng tuyển dụng. Những thị trường
mà số lượng vẫn ổn định thì lại có xu hướng giảm lương.
- Do khủng hoảng kinh tế, nhiều doanh nghiệp, nhất là ở những
ngành gia công điện tử, linh kiện ôtô, dệt, nhuộm... đã phải đóng cửa một
phần hoặc toàn bộ nhà máy. Tình hình này khiến hơn 80.000 lao động
Việt Nam đang làm việc tại Đài Loan, trong đó hơn 60% làm việc trong
các nhà máy, công xưởng, có nguy cơ bị giảm giờ làm hoặc không có
việc làm.
- Không những thế, để hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp cho lao động bản địa,

mới đây Ủy ban Lao động Đài Loan quyết định thu hẹp số lượng lao
động nước ngoài. Theo đó sẽ tạm dừng tiếp nhận mới lao động nước
ngoài đối với ngành sản xuất chế tạo có chế độ 3 ca. Ước tính năm 2009,
các nhà máy xí nghiệp ở Đài Loan sẽ giảm bớt 3 vạn lao động nước
ngoài.
- Tại Malaysia, Chính phủ nước này cũng đang phải thực hiện chính
sách tiết kiệm, cắt giảm đầu tư vào các dự án liên quan đến nhà ở và quốc
phòng. Chính phủ Malaysia đang tìm cách giảm số lượng lao động nước
ngoài vào từ nay cho đến năm 2010, mỗi năm 400 nghìn người.
- Với Hàn Quốc, do tình hình sản xuất của các doanh nghiệp Hàn
Quốc đang gặp nhiều khó khăn, phải giảm nhu cầu tuyển dụng lao động
nước ngoài nên cuối năm 2008, Bộ Lao động Hàn Quốc quyết định
không tổ chức đợt 2 kiểm tra tiếng Hàn cho lao động nước ngoài.
- Thị trường Nhật Bản cũng rơi vào cảnh tương tự. Một số chủ sử
dụng lao động ở Nhật Bản, nhất là ở ngành điện tử đã hoãn tiếp nhận tu
nghiệp sinh Việt Nam. Một số lao động là chuyên gia tại thị trường Nhật
Bản cũng phải về nước do mất việc.
- Với thị trường mới, thu nhập cao, việc tiếp nhận lao động nước
ngoài vốn đã khó nay càng khó hơn. Với thị trường Séc và Mỹ, ngoài yêu
cầu về nghề thì thủ tục visa vẫn là một rào cản.
- Do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nên người lao động
Việt Nam tại Cộng hòa Séc có người bị hủy hợp đồng do xí nghiệp không
có việc, có một số lao động nhận được quyết định bị trục xuất khỏi EU...
- Trước tình hình này, mới đây Cục Quản lý lao động ngoài nước đã
có thông báo chính sách của một số nước tiếp nhận lao động nước ngoài
đối với lao động nước ngoài phải chấm dứt hợp đồng lao động trước thời
hạn.
3. Tình hình xuất khẩu lao động sang Malaysia hiện nay
Động thái này nhằm đối phó với khó khăn do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế thế giới. Do ảnh hưởng của khủng hoảng, năm 2008 đã có

trên 33.451 lao động bị cắt giảm so với 26.417 lao động năm 2007.
Trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2008 đến 20 tháng 1 năm
2009 đã có 13,040 lao động bị cắt giảm bao gồm 2.955 lao động nước
ngoài và đã có 45.000 lao động bị tạm ngừng việc.
Tháng 1 năm 2009 đã có 221 công ty thông báo với Cục Quản lý lao
động là sẽ cắt giảm 6.318 lao động và 89 công ty khác sẽ cắt giảm 3.270
lao động váo tháng 2 năm 2009.
Thị trường Malaysia 6 tháng đầu năm 2009, kinh tế Malaysia cũng
theo xu hướng chung, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế thế giới. Do khó khăn về kinh tế, thị trường xuất khẩu
hàng hoá bị thu hẹp, nhiều nhà máy, xí nghiệp phải thu hẹp sản xuất…
nên Chính phủ Malaysia đưa ra chính sách cắt giảm số lượng lao động
nước ngoài vào làm việc trong một số lĩnh vực như: dệt may, điện, điện
tử…nhằm giảm sự lệ thuộc vào lao động nước ngoài, đồng thời đẩy mạnh
việc đào tạo nghề cho người lao động để giải quyết việc làm và giảm tỷ lệ
thất nghiệp trong nước. Nhưng thời gian gần đây, khi nền kinh tế có dấu
hiệu phục hồi thì nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài tăng lên, những gì
mà Chính phủ Malaysia hy vọng đạt được khi ban hành chính sách đối
với lao động nước ngoài đã phần nào không đạt được do người dân bản
địa không muốn tiếp nhận các công việc mà lao động nước ngoài làm.
Một số chủ nhà máy may, điện tử vẫn xin chỉ tiêu tiếp nhận lao động
nước ngoài.
Tình hình thị trường lao động Malaysia 2 tháng 5, 6/2009 có nhiều tín
hiệu khả quan do nhu cầu tiếp nhận lao động tăng lên nhiều ở các lĩnh
vực. Trong tháng 6/2009, nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất, công ty dịch vụ
Malaysia đã đề nghị các công ty Việt Nam cung ứng lao động vào làm
việc trong các lĩnh vực gồm: lao động làm việc trong nhà máy (nghề điện
tử, cơ khí, may, chế tác đồ trang sức, găng tay cao su…); lao động xây
dựng, dịch vụ nhà hàng ăn uống, nuôi trồng thuỷ, hải sản…Tuy nhiên,
việc phát triển đưa lao động sang thị trường này đang gặp một số khó

khăn sau:
- Tâm lý người lao động và gia đình thuộc diện xoá đói, giảm nghèo
không muốn đi làm việc ở Malaysia do chưa được cung cấp đầy đủ thông

×